Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Ngôn ngữ nghệ thuật ngô tất tố...

Tài liệu Ngôn ngữ nghệ thuật ngô tất tố

.PDF
105
266
105

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM .........  ........ BẾ HÙNG HẬU NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT NGÔ TẤT TỐ LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN Thái Nguyên - 2010 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM .........  ........ BẾ HÙNG HẬU NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT NGÔ TẤT TỐ LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Lê Hồng My Thái Nguyên - 2010 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 0.1. Lý do chọn đề tài .................................................................................. ..1 0.2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................... ..2 0.3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu ............................................................. ..9 0.4. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... .10 0.5. Mục đích nghiên cứu ............................................................................ .11 0.6. Đóng góp của luận văn ......................................................................... .11 0.7. Cấu trúc của luận văn ........................................................................... .11 PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG I: GIỚI THUYẾT VỀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT, CÁC NHÂN TỐ CƠ BẢN CHI PHỐI ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT NGÔ TẤT TỐ ............................................................................. 12 1.1. Giới thuyết về ngôn ngữ nghệ thuật ...................................................... .12 1.1.1. Khái niệm ngôn ngữ nghệ thuật ......................................................... .12 1.1.2. Những yếu tố cơ bản hình thành ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn.... .12 1.1.2.1. Cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ.................................................. .12 1.1.2.2. Hoàn cảnh xã hội, thời đại, môi trường sống .................................. .14 1.2. Các nhân tố cơ bản chi phối đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật của Ngô Tất Tố. 16 1.2.1. Bối cảnh chính trị, văn hóa, xã hội Việt Nam giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX ........................................................................ .16 1.2.2. Hoàn cảnh sống và đặc điểm con người Ngô Tất Tố .......................... .19 CHƢƠNG 2: NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT NGÔ TẤT TỐ CÕN MANG DẤU VẾT NGÔN NGỮ NHO GIA .......................................................... .28 2.1. Tổ chức sự kiện trong ngôn ngữ trần thuật theo trình tự thời gian ........ .28 2.2. Sử dụng từ ngữ chỉ thiên nhiên làm thước đo thời gian ........................ .34 2.3. Cấu trúc ngôn ngữ nhịp nhàng, đăng đối theo lối văn biền ngẫu ........... .35 2.4. Sử dụng nhiều từ ngữ chuyên biệt của khoa cử, chủ yếu là từ Hán Việt .41 CHƢƠNG 3: NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT NGÔ TẤT TỐ ĐẬM ĐÀ SẮC THÁI NGÔN NGỮ NÔNG THÔN BẮC BỘ VIỆT NAM ............. .48 3.1. Vận dụng khéo léo phương ngữ Bắc Bộ ............................................... .48 3.2. Vận dụng thành ngữ quen thuộc với người nông dân ............................ .53 3.3. Dùng nhiều từ ngữ gắn với cuộc sống, sinh hoạt làng quê và công việc nhà nông ..................................................................................................... .62 CHƢƠNG 4: NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT NGÔ TẤT TỐ GIÀU TÍNH THỜI SỰ, VÀ TÍNH CHIẾN ĐẤU .......................................................... .68 4.1. Sử dụng bảng từ vựng gắn với những vấn đề thời sự ........................... .68 4.2. Vận dụng linh hoạt các phương thức biểu đạt để phơi bày hiện thực .... .73 4.2.1. Miêu tả chi tiết bức tranh đời sống .................................................... .73 4.2.2. Kết hợp miêu tả, nghị luận, biểu cảm để châm biếm kín đáo sâu cay ....... .78 4.3. Cấu trúc câu văn theo kiểu "vừa nâng vừa đập" ................................... .84 4.4. Sử dụng câu hỏi tu từ như một vũ khí châm biếm lợi hại ...................... .87 KẾT LUẬN ................................................................................................ .89 TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................... ..94 PHẦN MỞ ĐẦU 0.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 0.1.1. Ngôn ngữ nghệ thuật có vai trò đặc biệt quan trọng đối với đời sống văn học. Nó là công cụ, là chất liệu cơ bản để nhà văn xây dựng nên tác phẩm, là "chìa khóa" để bạn đọc mở cánh cửa, bước vào thế giới nghệ thuật của nhà văn. Nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật là cơ sở để tìm hiểu, khám phá thế giới hình tượng và các lớp nội dung ý nghĩa của văn bản nghệ thuật; từ đó, khẳng định những thành tựu và đóng góp của nhà văn cho nền văn học dân tộc. 0.1.2. Ngô Tất Tố là cây bút xuất sắc của dòng văn học hiện thực phê phán và là một trong những tác gia có vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Chỉ với ba thập kỷ cầm bút, ông đã để lại một một sự nghiệp văn học phong phú, độc đáo, bao gồm nhiều thể loại: tiểu thuyết, phóng sự, truyện ký lịch sử, khảo cứu, dịch thuật, tiểu phẩm báo chí...và ở thể loại nào cũng để lại dấu ấn đặc sắc riêng. Tác phẩm của Ngô Tất Tố không chỉ là tiếng nói đanh thép tố cáo chế độ thực dân phong kiến tàn bạo, mà còn thể hiện tấm lòng thương yêu đối với nhân dân lao động. Năm 1996, Nhà nước đã trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I cho di sản văn học của Ngô Tất Tố. Trong gần một thế kỷ qua, kể từ tác phẩm đầu tiên là Cẩm hương đình ra đời (1923), sự nghiệp văn học Ngô Tất Tố đã thu hút được sự quan tâm, yêu mến của các nhà nghiên cứu, phê bình, giảng dạy văn học và đông đảo công chúng. Kết quả là đã có rất nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về ông. Song, hầu hết những công trình đó mới chỉ đề cập những vấn đề như: tư tưởng nghệ thuật, thế giới nghệ thuật, hay phong cách sáng tác...của nhà văn. Về ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố mới được quan tâm nghiên cứu trên một số phương diện, nhiều đặc điểm riêng biệt, độc đáo chưa được khảo sát, phân tích khái quát làm rõ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 http://www.lrc-tnu.edu.vn Vì những lý do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài "Ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố" để mở rộng, khơi sâu thêm một vấn đề đã được giới nghiên cứu, phê bình văn học quan tâm và đã tạo những bước đi ban đầu. 0.2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ 0.2.1 Tình hình nghiên cứu chung về Ngô Tất Tố Hành trình sáng tác của Ngô Tất Tố từ khi bắt đầu sự nghiệp văn chương với việc dịch tác phẩm Cẩm hương đình (1923) đến tác phẩm cuối cùng là vở chèo Nữ chiến sĩ Bùi Thị Phác (1951) kéo dài gần ba mươi năm. Song, thành tựu của Ngô Tất Tố tập trung chủ yếu trong giai đoạn 1930 - 1945. Những tác phẩm tiêu biểu như Tắt đèn, Lều chõng, các phóng sự: Việc làng, Tập án cái đình đều được viết ra trong khoảng thời gian từ năm 1936 đến năm 1940. Theo tìm hiểu của chúng tôi, quá trình nghiên cứu về Ngô Tất Tố được bắt đầu từ bài viết của Vũ Trọng Phụng với nhan đề Tắt đèn của Ngô Tất Tố, đăng trên báo Thời vụ, số 100, ngày 31-1-1939. Vũ Trọng Phụng đã khẳng định giá trị nhiều mặt của Tắt đèn. Ông than phiền một nước nông nghiệp như Việt Nam mà văn chương viết về làng quê rất ít tác phẩm có giá trị: "Ta phải chán nản mà nhận thấy rằng quả thật hãy còn vắng vẻ đìu hiu, chỉ mới thấy có quyển Tối tăm của Nhất Linh, quyển Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan". Giữa lúc ấy thì Ngô Tất Tố xuất hiện, Vũ Trọng Phụng đã chân thành giới thiệu Ngô Tất Tố với công chúng độc giả: "Bạn tôi lại từ làng báo mới bước vào làng tiểu thuyết và Tắt đèn là áng văn đầu tiên của bạn và cũng là áng văn mới mẻ nhất về loại văn chương xã hội ngày nay nữa" [63; 200]. Vũ Trọng Phụng hết lời ngợi ca tác phẩm: "Tắt đèn là cuốn tiểu thuyết có luận đề xã hội - điều ấy cố nhiên là hoàn toàn phụng sự dân quê, một áng văn có thể gọi là kiệt tác tòng lai chưa từng thấy mà lại là của một tác giả có cái may hơn nhiều nhà văn khác là được sống nhiều ở thôn quê nên có đủ thẩm quyền" [63; 200]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 http://www.lrc-tnu.edu.vn Trên Báo Mới số 4 ngày 15/6/1939, Trần Minh Tước đã viết bài Một nhà văn hóa của dân quê - Ngô Tất Tố và tác phẩm Tắt đèn với nhận xét: "Ngòi bút ông đồ nho Ngô Tất Tố đáng lẽ là ngòi bút của cái thế hệ sản sinh những câu văn điền viên vui thú kia; hoặc có muốn thiên về dân quê một cách tha thiết hơn, thì bất quá và đáng lẽ ngòi bút ấy chỉ viết những bài cải lương hương chính mà mười lăm năm trước đây, chúng ta đã được đọc trên các báo. Không, nhà nho ấy đã vượt khỏi thế hệ mình. Người môn đồ Khổng Mạnh này đã thở hút cái không khí xã hội của K.Mác như tất cả những thiếu niên văn sỹ hàng tranh đấu để viết cho ta cuốn Tắt đèn" [94]. Ngoài ra, cũng trong thời gian đó bài báo của Phú Hương ngày 1/9/1939 có bài "Tắt đèn - tiểu thuyết của Ngô Tất Tố" đã đánh giá: "Đây là một thành công vẻ vang hết sức" [65]. Phú Hương cho rằng cốt truyện tiểu thuyết gần với sự thực xảy ra ở thôn quê xứ ta với sự quan sát tường tận kĩ càng. Ông ca ngợi nhân vật và cách tả cảnh thể hiện một trình độ cao, có thể đặt ngang hàng với các nhà văn Tự Lực văn đoàn. Những bài báo trên đã tôn vinh Tắt đèn và gây ấn tượng mạnh với bạn đọc. Ngô Tất Tố, một cây bút tiểu thuyết vừa từ làng báo chuyển sang lại tiếp tục có những tác phẩm mới là Lều chõng và Việc làng. Những tác phẩm này đã góp phần quan trọng tạo cho Ngô Tất Tố một chỗ đứng vững chắc trên văn đàn. Vũ Ngọc Phan trong cuốn Nhà văn hiện đại đã đánh giá Ngô Tất Tố là nhà văn chuyên sâu về đề tài nông thôn, am hiểu sâu sắc cuộc sống và phong tục làng quê. Ông phân tích và khẳng định tác phẩm Việc làng: "Tập phóng sự về dân quê này là một tập phóng sự rất đầy đủ về việc làng" [63; 324]. Sau Cách mạng tháng Tám, khi hòa bình lập lại, những tác phẩm văn học có giá trị thời kỳ trước Cách mạng được lựa chọn và đưa vào giảng dạy ở nhà trường. Tắt đèn của Ngô Tất Tố là một trong số tác phẩm đầu tiên của dòng văn học hiện thực phê phán được đưa vào giảng dạy từ trường phổ thông Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 http://www.lrc-tnu.edu.vn đến đại học. Nhờ đó, tên tuổi Ngô Tất Tố được nhiều người biết đến hơn, và sự nghiệp văn học của ông ngày càng thu hút giới phê bình, nghiên cứu. Sau khi Ngô Tất Tố - "nhà văn của những luống cày" mất trên con đường kháng chiến (1954), tiếp tục có nhiều bài nghiên cứu và giới thiệu về ông như: Ngô Tất Tố của Nguyên Hồng (Tạp chí văn nghệ số 54, tháng 8, năm 1954); Đọc lại Việc làng của Bùi Huy Phồn (Tạp chí văn nghệ số 8 tháng 1, năm 1958); Ngô Tất tố như tôi đã biết của Nguyễn Đức Bính (Tạp chí văn nghệ số 61, tháng 6, năm 1962)...Trong những bài viết tưởng nhớ, khắc họa chân dung nhà văn Ngô Tất Tố, có nhiều bài đánh giá cao tiểu thuyết Tắt đèn như: Đọc Tắt đèn của Ngô Tất Tố của Nguyễn Công Hoan, Lời giới thiệu truyện Tắt đèn của Nguyễn Tuân, Tắt đèn cuốn tiểu thuyết hiện thực xuất sắc của Hồng Chương, Tắt đèn và tiếng nói của Ngô Tất Tố của Phong Lê, Giá trị nhận thức của Tắt đèn của Như Phong...Những bài viết về chân dung Ngô Tất Tố và tiểu thuyết Tắt đèn càng khẳng định giá trị sự nghiệp văn học của ông, khẳng định vị trí của nhà văn trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Đây là cái mốc quan trọng trong việc nghiên cứu và giới thiệu Ngô Tất Tố. Cũng trong thời điểm này, cần ghi nhận thành tựu nghiên cứu về Ngô Tất Tố của hai tác giả Phan Cự Đệ và Nguyễn Đức Đàn. Có thể xem đây là công trình nghiên cứu đầu tiên tập trung có hệ thống trên nhiều bình diện về sự nghiệp của Ngô Tất Tố, công trình được Nhà xuất bản Văn hóa ấn hành năm 1962, Nhà xuất bản Hội nhà văn in lại năm 1999 với nhan đề Bước đường phát triển tư tưởng và nghệ thuật của Ngô Tất Tố. Sau đó nhà xuất bản Văn học in cuốn Tuyển tập Ngô Tất Tố và tiếp theo là Toàn tập Ngô Tất Tố (1996) do giáo sư Phan Cự Đệ tuyển chọn và giới thiệu. Nhìn chung, các công trình, bài viết về Ngô Tất Tố giai đoạn này đều khẳng định vị trí quan trọng của nhà văn trong nền văn học Việt Nam hiện Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 http://www.lrc-tnu.edu.vn đại; đều đánh giá ông là cây bút tài năng, là nhà văn hiện thực xuất sắc của nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Một hoạt động khoa học đáng chú ý là cuộc hội thảo nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Ngô Tất Tố do Hội Nhà văn và Viện Văn học phối hợp tổ chức với sự tham gia của nhiều nhà văn, nhà báo. Các tham luận đã khẳng định tầm vóc của Ngô Tất Tố - một nhà văn lớn, một nhà báo lớn. Nhà nghiên cứu Phong Lê trong bài Ngô Tất Tố một chân dung lớn một sự nghiệp lớn đã khẳng định: "Kỷ niệm 100 năm năm sinh Ngô Tất Tố chúng ta còn nhận ra một di sản còn đồ sộ hơn ở ông, bao gồm nhiều lĩnh vực hoạt động, có ý nghĩa là điểm tựa cho các giá trị văn chương, vượt ra khỏi đóng góp xuất sắc của một nhà văn hiện thực...Xứng đáng ở nhiều tư cách, nhưng với Ngô Tất Tố tôi muốn trở lại tư cách nhà văn hóa như một tư thế bao trùm và là điểm tựa cho mọi lĩnh vực sáng tạo ngôn từ và bồi đắp tư duy hình tượng, luôn đạt trình độ cao sâu và các giá trị bền vững" [70]. Sang thời kỳ Đổi mới, có ý kiến đánh giá không đồng nhất với những ý kiến trước đây về nhân vật Chị Dậu trong tác phẩm Tắt đèn đó là ý kiến của Trần Đăng Khoa: "Ví như Tắt đèn của cụ Ngô Tất Tố. Tất nhiên trong cuốn truyện vừa xuất sắc này của cụ Tố, có một chỗ rất tệ hại. Ai lại dành nhiều công phu và tâm huyết như thế để viết về một bà mẹ đi bán con chuộc chồng "[69; 107]. Ý kiến của Trần Đăng Khoa chưa thật thuyết phục các nhà nghiên cứu, sau đó cũng không có ý kiến tranh luận nhiều về vấn đề này, và giá trị của Tắt đèn cũng như cảm tình của độc giả dành cho tác phẩm vẫn không thay đổi. Song, nhìn chung, từ trước tới nay, các học giả đều khẳng định vị trí quan trọng của Ngô Tất Tố trên văn đàn. Các bài báo như: Cây bút sắc bén của một nhà Nho của Vũ Tú Nam; Ngô Tất Tố nhà văn hóa lỗi lạc của Hoài Việt; Ngô Tất Tố trong sự nghiệp đổi mới hôm nay của Gs Phan Cự Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 http://www.lrc-tnu.edu.vn Đệ...càng khẳng định Ngô Tất Tố không phải chỉ là di sản của quá khứ mà còn là của hiện tại, của tương lai. Tư tưởng nhất quán của Ngô Tất Tố trong tác phẩm là vì dân, đấu tranh cho quyền độc lập của dân tộc, vì con người, đấu tranh cho tình yêu thương của con người trong cuộc sống. Tư tưởng ấy theo suốt cuộc đời sáng tác của nhà văn. Đến năm 2000, Nhà xuất bản Giáo dục in cuốn Ngô Tất Tố về tác giả và tác phẩm do hai nhà nghiên cứu Mai Hương, Tôn Phương Lan tuyển chọn và giới thiệu. Đây là công trình tập hợp đầy đủ các bài viết bài nghiên cứu, hồi ức, tưởng niệm của bàn bè, đồng nghiệp, người thân về Ngô Tất Tố. Trong bài Ngô Tất Tố tài năng và tấm lòng, nhà nghiên cứu Mai Hương khẳng định: "Một cây bút tiểu thuyết phóng sự xuất sắc, một nhà báo cự phách, có biệt tài, một nhà khảo cứu, dịch thuật tâm huyết, và bao trùm là tư cách một nhà văn hóa lớn". Ngoài ra, tác giả Trần Thị Minh Thu trong luận văn "Ngô Tất Tố nhà văn của phong tục làng quê Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945" cũng đã khẳng định: "Ngô Tất Tố chính là nhà văn phong tục tiêu biểu ở giai đoạn 1930- 1945. Thành công ở mảng đề tài phong tục đã góp phần làm cho tên tuổi Ngô Tất Tố thêm uy tín và vị trí vững chắc trong làng văn Việt Nam" [92; 75]. Những năm gần đây, nhờ công lao của các nhà sưu tầm, trong đó có ông Cao Đắc Điểm (người con rể của nhà văn), chúng ta lại biết thêm những tác phẩm báo chí mới của Ngô Tất Tố. Năm 2003, thành phố Hà Nội đã quyết định mở Đề tài khoa học về báo chí Ngô Tất Tố. Đề tài đã được in thành sách Di sản báo chí của Ngô Tất Tố - Ý nghĩa lý luận và thực tiễn, nhà xuất bản Văn học (2005). Tóm lại, hơn bảy thập kỷ qua, kể từ bài viết của Vũ Trọng Phụng về tiểu thuyết Tắt đèn (năm 1939) đến nay, đã có hàng trăm bài viết, hàng chục Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 http://www.lrc-tnu.edu.vn công trình nghiên cứu đi sâu khám phá các phương diện khác nhau trong thế giới nghệ thuật của Ngô Tất Tố. So với những nhà văn cùng thời, thì những ý kiến đánh giá về Ngô Tất Tố và văn nghiệp của ông là khá ổn định, thống nhất. Hầu hết những công trình nghiên cứu đều theo xu hướng khẳng định: Ngô Tất Tố là cây bút xuất sắc của dòng văn học hiện thực trước Cách mạng và là một trong những tác gia có vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam hiện đại. 0.2.2. Tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ nghệ thuật của Ngô Tất Tố 0.2.2.1. Tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố từ trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 2000. Từ trước Cách mạng tháng Tám đến năm 2000, việc nghiên cứu về Ngô Tất Tố tập trung chủ yếu vào những đóng góp của nhà văn trên phương diện nội dung tư tưởng, thế giới nhân vật, phong cách nghệ thuật, thi pháp.... Một số tác giả khi nghiên cứu về Ngô Tất Tố mới đưa ra một số nhận xét có tính khái quát, định hướng về ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn, chẳng hạn Vũ Trọng Phụng nhận xét: "Cách hành văn mới mẻ, sáng sủa, tưởng chừng như chỉ có phái nhà văn thuộc Pháp học mới có thể linh lợi và phô diễn nổi một cách linh hoạt như thế" [63; 201]. Nguyễn Đức Bính trong bài Ngô Tất Tố như tôi đã biết có nhận xét cụ thể hơn: "Ngô Tất Tố có một lối viết văn mới, độc đáo nữa là khác, không chút gì nhắc lại lối văn biền ngẫu của các cụ đồ, giọng văn khi đậm đà khi duyên dáng nhưng đặc biệt dí dỏm; câu văn sắc cạnh, trong sáng, ngắn gọn, chữ dùng thường mạnh dạn và ý nhị" [63; 77]. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy, ý kiến đánh giá của Nguyễn Đức Bính về văn Ngô Tất Tố "không chút gì nhắc lại lối văn biền ngẫu của các cụ đồ" cần được khảo sát cụ thể hơn. Ngoài ra, nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Đàn cũng có nhận xét: "Ngô Tất Tố có một giọng văn bút chiến linh hoạt, sắc sảo, có khi nhẹ nhàng tinh tế, có Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 http://www.lrc-tnu.edu.vn khi mạnh mẽ đanh thép"[63; 50]. Giáo sư Phan Cự Đệ đã có một đánh giá khá toàn diện về ngôn ngữ nghệ thuật của tác phẩm Tắt đèn: "Nghệ thuật của Tắt đèn là thứ nghệ thuật đi vào chiều sâu, vào cái tinh túy, bản chất. Tắt đèn học được ở văn dân gian, đặc bịêt là ở tục ngữ, phương ngôn, cái nghệ thuật cô đúc, càng nén lại thì càng gây nên những vụ nổ lớn, càng có sức vang xa rộng trong không gian. Chỉ trong vòng hơn một trăm trang mà sự kiện dồn dập, các mâu thuẫn cọ xát đến nảy lửa"[63; 309]. Tìm hiểu các tài liệu nghiên cứu về Ngô Tất Tố chúng tôi được biết, từ trước Cách mạng tháng Tám đến năm 2000 đã có một số bài nghiên cứu, và ý kiến đánh giá về một số phương diện của ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố. Các ý kiến đều nhận định: ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố vừa mang tính dân tộc vừa rất hiện đại. Song, chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về phương diện này. 0.2.2.2. Tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố từ năm 2000 đến nay. Từ năm 2000 đến nay, vấn đề ngôn ngữ nghệ thuật của các nhà văn được giới nghiên cứu đi sâu khám phá và đã có nhiều Luận án, Luận văn, Chuyên luận về lĩnh vực này được công bố như: Ngôn từ nghệ thuật Vũ Trọng Phụng, Luận án Tiến sỹ của tác giả Nguyễn Phượng (2002); Lời văn nghệ thuật Nguyên Hồng, Luận án Tiến sỹ của tác giả Lê Hồng My (2006); Ngôn ngữ nghệ thuật Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám 1945, Luận án Tiến sỹ của tác giả Lê Hải Anh (2006); Ngôn ngữ nghệ thuật của Nhất Linh trong các sáng tác trước năm 1945, Luận văn Thạc sỹ của tác giả Lê Thị Quỳnh (2009)...Trong xu thế chung đó, ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố cũng thu hút được sự quan tâm của các tác giả, trong đó đáng chú ý có công trình chuyên sâu về vấn đề này, đó là: Lời văn nghệ thuật trong tiểu thuyết của Ngô Tất Tố của tác giả Vũ Duy Thanh (năm 2006). Luận văn đã tập trung nghiên cứu về cách thức tổ chức lời văn, các thành phần cơ bản, và các Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 http://www.lrc-tnu.edu.vn phƣơng tiện đặc trƣng của lời văn nghệ thuật trong tiểu thuyết của Ngô Tất Tố. Tuy nhiên, những đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố luận văn chưa nghiên cứu. Gần đây, xuất hiện nhiều hơn các chuyên luận, luận văn về Ngô Tất Tố, tiêu biểu như: Thành ngữ trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Luận văn cử nhân khoa học Ngữ văn, Tác giả Lê Thị Hoàn, ĐHSP TN; Thành ngữ trong văn xuôi hiện thực phê phán Việt Nam qua một số sáng tác tiêu biểu của Ngô Tất Tố và Nam Cao, Luận văn cử nhân khoa học Ngữ văn của tác giả Nguyễn Thị Huệ, ĐHSP TN. Nhìn lại lịch sử nghiên cứu thấy rằng: từ trước tới nay các công trình, chuyên luận, bài viết đề cập đến ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố đã thu được những kết quả nhất định làm sáng rõ một số phương diện như: - Cách thức tổ chức ngôn ngữ trong tiểu thuyết - Các thành phần cơ bản trong ngôn ngữ nghệ thuật - Các phương tiện đặc trưng trong ngôn ngữ nghệ thuật - Thành ngữ trong tiểu thuyết Tắt đèn Tuy nhiên, những đặc điểm cơ bản trong ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố chưa được định danh, khảo sát, phân tích cụ thể. Vì vậy, chúng tôi nhận thấy, ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn vẫn còn có những phương diện có thể tiếp tục nghiên cứu để bổ sung cho những công trình đã có, góp phần khẳng định những sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. Do đó, trên cơ sở kế thừa thành tựu của những công trình trước đó, chúng tôi mở rộng, đi sâu nghiên cứu về đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố để từ đó thấy được những đóng góp của ông trong tiến trình hiện đại hóa ngôn ngữ văn học dân tộc. 0.3. ĐỐI TƢỢNG PHẠM VI NGHIÊN CỨU Để phù hợp với mục đích nghiên cứu, luận văn chỉ tập trung khảo sát, nghiên cứu những đặc điểm về ngôn ngữ nghệ thuật trong hai thể loại tiểu thuyết và phóng sự của Ngô Tất Tố. Đó là các tác phẩm: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 http://www.lrc-tnu.edu.vn Tiểu thuyết: Tắt đèn - 1937 Lều chõng - 1939 Trong rừng nho - 1940 Phóng sự: Tập án cái đình - 1939 Việc làng - 1940 Những tác phẩm khác của Ngô Tất Tố không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn, song, có thể được sử dụng để so sánh, đối chiếu trong những trường hợp cần thiết. 0.4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Luận văn kết hợp các phương pháp nghiên cứu sau: 0.4.1. Phƣơng pháp nghiên cứu tác giả Theo chúng tôi, muốn chiếm lĩnh được ngôn ngữ nghệ thuật, phải đặt đối tượng trong mối quan hệ với cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà văn. Do đó, trong công trình này chúng tôi coi trọng phương pháp nghiên cứu tác giả văn học. 0.4.2. Phƣơng pháp phân tích - tổng hợp Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để làm sáng tỏ những đặc điểm về ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn. 0.4.3. Phƣơng pháp thống kê phân loại Để những phân tích có căn cứ khoa học khi cần thiết chúng tôi tiến hành khảo sát, thống kê, phân loại. 0.4.4. Phƣơng pháp so sánh Sử dụng phương pháp so sánh để thấy được nét tương đồng, khác biệt, trên phương diện ngôn ngữ nghệ thuật của Ngô Tất Tố với các nhà văn hiện thực phê phán như: Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao... 0.4.5. Phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành Vấn đề ngôn ngữ nghệ thuật liên quan đến nhiều lĩnh vực khoa học khác như: Lí luận văn học, Lịch sử, Văn hóa, Ngôn ngữ...Do đó chúng tôi vận dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 http://www.lrc-tnu.edu.vn 0.5. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật của Ngô Tất Tố, chúng tôi mong muốn làm rõ thêm một phương diện nghệ thuật quan trọng tạo nên sức hấp dẫn trong các sáng tác của nhà văn. Từ đó, ghi nhận những đóng góp quí giá của ông đối với nền văn học nước nhà, đồng thời, cũng khẳng định một hướng tiếp cận có hiệu quả trong nghiên cứu và thưởng thức văn học. 0.6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN Luận văn góp phần làm sáng rõ những đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố. Kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp một tài liệu học tập, nghiên cứu hữu ích cho việc tìm hiểu văn chương Ngô Tất Tố. 0.7. CẤU TRÖC LUẬN VĂN Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Phần Nội dung của luận văn gồm bốn chương: Chương I: Giới thuyết về ngôn ngữ nghệ thuật, các nhân tố cơ bản chi phối đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố Chương II: Ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố còn mang dấu vết ngôn ngữ Nho gia Chương III: Ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố đậm đà sắc thái ngôn ngữ của nông thôn Bắc Bộ Việt Nam Chương IV: Ngôn ngữ nghệ thuật Ngô Tất Tố giàu tính thời sự và tính chiến đấu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11 http://www.lrc-tnu.edu.vn PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG I GIỚI THUYẾT VỀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT CÁC NHÂN TỐ CƠ BẢN CHI PHỐI ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT NGÔ TẤT TỐ 1.1. GIỚI THUYẾT VỀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT 1.1.1. Khái niệm "Ngôn ngữ nghệ thuật" "Ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ chủ yếu dùng trong các tác phẩm văn chương, không chỉ có chức năng thông tin mà còn thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của con người. Nó là ngôn ngữ được tổ chức, sắp đặt, lựa chọn, tinh luyện từ ngôn ngữ thông thường và đạt được giá trị nghệ thuật - thẩm mĩ" [10; 98]. Khái niệm Ngôn ngữ nghệ thuật với các khái niệm: Ngôn ngữ văn học, Lời văn nghệ thuật có những điểm tương đồng. "Lời văn nghệ thuật là dạng phát ngôn được tổ chức một cách nghệ thuật tạo thành cơ sở ngôn từ của văn bản nghệ thuật, là hình thức ngôn từ nghệ thuật của các tác phẩm văn học"[47; 130]. "Ngôn ngữ văn học là thuật ngữ dùng để chỉ một cách bao quát các hiện tượng ngôn ngữ được dùng một cách chuẩn mực trong các văn bản nhà nước, trên báo chí, đài phát thanh, trong văn hóa, văn học và khoa học" [47; 149]. Sự khác nhau giữa các khái niệm trên chỉ mang tính chất tương đối. Chúng có những điểm giống nhau cơ bản, nên trong nhiều trường hợp thường dùng thay thế cho nhau để chỉ dạng ngôn ngữ đã được cụ thể hóa trong các tác phẩm văn học. 1.1.2. Những yếu tố cơ bản hình thành ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn 1.1.2.1.Cá tính sáng tạo của ngƣời nghệ sĩ Văn học là loại hình nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ làm phương tiện xây dựng hình tượng. Không có ngôn ngữ thì không có văn học (phi ngôn ngữ bất thành văn). Trong tác phẩm văn học ngôn ngữ là phương tiện để cụ thể hóa, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12 http://www.lrc-tnu.edu.vn vật chất hóa tư tưởng, chủ đề của tác phẩm. Qua ngôn ngữ nghệ thuật chúng ta hiểu được sở trường, phong cách nhà văn. Vậy, điều gì đã góp phần hình thành đặc điểm ngôn ngữ của các nhà văn? Trước hết theo chúng tôi, cá tính sáng tạo là yếu tố đầu tiên góp phần hình thành phong cách ngôn ngữ của mỗi nhà văn. Nhà văn bộc lộ cá tính rõ nét nhất ở lĩnh vực của mình. Bởi vì, văn học làm giàu cho xã hội không phải bằng số lượng của cải như sản xuất vật chất. Chân lí mà văn học đem lại cũng không phải chỉ là chân lí khách quan như trong khoa học, mà còn xuyên thấm những yếu tố chủ quan của người nghệ sĩ. Sự thật có thể chỉ là một, nhưng cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ của nhà văn muôn màu, muôn vẻ, làm phong phú thêm đời sống tinh thần cho xã hội. Chẳng hạn, cùng nói về nỗi nhớ nhưng Xuân Diệu lại có ngôn ngữ diễn đạt khác với Nguyễn Bính: Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông Một người chín nhớ mười mong một người Gió mưa là bệnh của giời Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng. (Tương tư ) Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh. Anh nhớ em, anh nhớ lắm! Em ơi! Anh nhớ anh của ngày tháng xa khơi Nhớ đôi môi đang cười ở phương trời Nhớ đôi mắt đang nhìn anh đăm đắm. (Tương tư chiều) Nếu như ngôn ngữ thơ Nguyễn Bính tế nhị, kín đáo, "quê mùa", mang đậm chất dân gian với thể thơ lục bát, thì ngôn ngữ thơ Xuân Diệu lại hiện Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13 http://www.lrc-tnu.edu.vn đại, với thể thơ theo "điệu nói" bộc lộ trực tiếp nỗi nhớ. Mỗi cách diễn đạt đều góp phần tạo chất men say hấp dẫn của thơ về tình yêu đôi lứa. L.Tônxtôi nói: "Khi ta đọc hay quan sát một tác phẩm nghệ thuật của một tác giả nào mới, thì câu hỏi chủ yếu nảy ra trong lòng chúng ta bao giờ cũng là như sau: Nào, anh ta là con người thế nào nhỉ. Anh ta có khác gì với tất cả những người mà tôi đã biết, và anh ta có thể nói cho tôi thêm một điều gì mới mẻ về việc cần phải nhìn cuộc sống chúng ta như thế nào" [52; 204]. Nếu cá tính nhà văn mờ nhạt, không tạo ra được tiếng nói riêng, giọng điệu riêng, phong cách ngôn ngữ riêng thì đó là sự "tự sát" trong văn học một lĩnh vực không chấp nhận "những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho" mà "chỉ dung nạp những người biết đào sâu tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có" (Nam Cao) Vì thế, cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ là yếu tố thứ nhất ảnh hưởng đến đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn. 1.1.2.2. Hoàn cảnh xã hội, thời đại, môi trƣờng sống Hoàn cảnh xã hội, thời đại là những yếu tố có tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống con người, từ khoa học đến nghệ thuật. Văn học cũng không là một ngoại lệ, bởi văn học có tính xã hội rất cao. Một tác phẩm văn học ra đời thường chịu sự chi phối của các yếu tố như: chính trị, kinh tế, xã hội, lịch sử, văn hóa...Dấu ấn thời đại in đậm trong cả nội dung và hình thức nghệ thuật của tác phẩm văn học. Lịch sử văn học Việt Nam đã chứng minh, phong trào Mặt trận dân chủ những năm 1936 - 1939, Cách mạng tháng Tám 1945, sự nghiệp Đổi mới đất nước... đã ảnh hưởng sâu sắc đến mọi mặt của đời sống văn học. Hoàn cảnh xã hội chi phối nội dung và hình thức của văn học mọi thời đại. Sự tác động của hoàn cảnh xã hội đến hình thức của văn học thông qua nhà văn. Nhà văn sống trong hoàn cảnh xã hội nào thì bị ảnh hưởng của xã Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14 http://www.lrc-tnu.edu.vn hội đó. Những yếu tố như thị hiếu, trào lưu tư tưởng, trình độ nhận thức, quan niệm thẩm mỹ... của con người trong xã hội sẽ tác động trực tiếp đến hình thức nghệ thuật của tác phẩm văn học, trong đó, sự tác động đến ngôn ngữ nghệ thuật là rất sâu sắc. Chính vì thế, dựa vào ngôn ngữ nghệ thuật của một tác phẩm ta có thể suy ra hoàn cảnh xã hội, thời đại đã sản sinh ra tác phẩm đó. Chẳng hạn: Một tác phẩm ngôn ngữ nặng tính quy phạm, ước lệ, sử dụng nhiều từ Hán Việt, và điển tích, điển cố thì đó thường là tác phẩm được viết ở thời kỳ trung đại. Trái lại, một tác phẩm mà ngôn ngữ không bị ràng buộc bởi tính qui phạm, tính ước lệ thì thường là tác phẩm của thời kỳ hiện đại. Ngoài hoàn cảnh xã hội, thời đại nhà văn còn chịu sự tác động của hoàn cảnh gia đình. Điều này đã được các nhà nghiên cứu khẳng định: "Nếu hoàn cảnh lớn tác động đến chiều hướng và và tầm cỡ chung của tư tưởng nghệ thuật nhà văn thì hoàn cảnh nhỏ đem đến cho tư tưởng ấy nội dung và hình hài cụ thể" [75]. Môi trường sống chính là nơi nuôi dưỡng để làm giàu có vốn ngôn ngữ của mỗi con người, trong đó có nhà văn. Nhà văn sống ở môi trường nào thì ngôn ngữ sẽ chịu ảnh hưởng của môi trường đó. Sở dĩ Nguyên Hồng diễn tả được ngôn ngữ của tầng lớp người bình dân như: công nhân, phu xe, đĩ điếm, tướng cướp; sử dụng thành công tiếng lóng, từ ngữ gắn với công việc cực nhọc...là vì trong cuộc đời có lúc ông đã "nhập hẳn vào cuộc sống của những hạng người cùng khổ" [79; 71]. Vũ Trọng Phụng miêu tả tầng lớp thị dân bằng ngôn ngữ chân thật, phong phú, sâu sắc đến thế, là vì ông có cuộc đời gắn bó với thành thị, chứng kiến hết thảy mọi xấu xa của cái xã hội "chó đểu". Những yếu tố trên kết hợp, tác động, chi phối ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn. Ngoài ra, những nhân tố khác như: sự lựa chọn thể loại, sở trường, năng lực cũng chi phối ngôn ngữ nghệ thuật của mỗi nghệ sĩ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15 http://www.lrc-tnu.edu.vn 1.2. CÁC NHÂN TỐ CƠ BẢN CHI PHỐI ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT NGÔ TẤT TỐ 1.2.1. Bối cảnh chính trị, văn hóa, xã hội Việt Nam giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX Năm 1858, thực dân Pháp tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Sau gần nửa thế kỷ bình định về quân sự, đến khoảng đầu thế kỷ XX, chúng mới thực sự khai thác thuộc địa về kinh tế. Sau hai cuộc khai thác thuộc địa (lần thứ nhất từ năm 1897 đến năm 1914, lần thứ hai từ năm 1919 đến năm 1929), cơ cấu xã hội Việt Nam có những thay đổi sâu sắc. Một số thành phố công nghiệp ra đời, đô thị, thị trấn mọc lên ở nhiều nơi. Những giai cấp, tầng lớp xã hội mới: tư sản, tiểu tư sản (viên chức, học sinh, những người buôn bán nhỏ...) công nhân, dân nghèo thành thị,...xuất hiện ngày càng đông đảo. Một lớp công chúng có đời sống tinh thần và thị hiếu mới đã hình thành. Từ đầu thế kỷ XX, văn hóa Việt Nam dần dần thoát khỏi ảnh hưởng của văn hóa phong kiến Trung Hoa, bắt đầu mở rộng tiếp xúc với văn hóa phương Tây mà chủ yếu là văn hóa Pháp. Luồng văn hóa mới thông qua tầng lớp trí thức Tây học ngày càng thấm sâu vào ý thức và tâm hồn người cầm bút cũng như người đọc sách. Chữ quốc ngữ đã dần dần thay thế chữ Hán, chữ Nôm trong nhiều lĩnh vực, từ hành chính công vụ tới văn chương nghệ thuật. Chữ quốc ngữ được phổ biến khá rộng rãi đã tạo điều kiện thuận lợi cho công chúng tiếp xúc với sách báo. Nhu cầu văn hóa của lớp công chúng mới đã làm nảy sinh những hoạt động kinh doanh văn hóa, làm cho nghề in, nghề xuất bản, nghề báo theo kỹ thuật hiện đại phát triển khá mạnh. Viết văn bằng chữ quốc ngữ cũng trở thành một nghề kiếm sống. Sự phát triển chữ quốc ngữ là một tiền đề quan trọng cho sự phát triển của văn hóa, xã hội. Việc giao lưu, học hỏi với phương Tây đem lại một luồng không khí mới cho văn chương, học thuật. Sự thay đổi của đô thị cũng đem đến một sự thay đổi rõ rệt trên báo Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16 http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan