Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Ngôn ngữ hội thoại của các nhân vật trong truyện kiều...

Tài liệu Ngôn ngữ hội thoại của các nhân vật trong truyện kiều

.PDF
97
2043
76

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA NGÔN NGỮ HỌC ------------ PHẠM THỊ MAI HƯƠNG NGÔN NGỮ HỘI THOẠI CỦA CÁC NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN KIỀU LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC HÀ NỘI - 2010 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA NGÔN NGỮ HỌC ------------ PHẠM THỊ MAI HƯƠNG NGÔN NGỮ HỘI THOẠI CỦA CÁC NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN KIỀU Chuyên ngành : NGÔN NGỮ HỌC Mã số : 60 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Đinh Văn Đức HÀ NỘI - 2010 MỤC LỤC Mở đầu Trang 1. Lí do chọn đề tài ..................................................................................... 4 2. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................. 5 3. Nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................. 5 4. Phương pháp nghiên cứu......................................................................... 6 5. Nguồn tư liệu .......................................................................................... 6 6. Những đóng góp của luận văn ................................................................. 6 7. Cấu trúc luận văn .................................................................................... 8 Chương 1. Cơ sở lí thuyết ......................................................................... 9 1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ................................................................... 9 1.2. Một số vấn đề lí thuyết liên quan đến đối tượng nghiên cứu của luận văn ...................................................................................... 11 1.2.1. Hội thoại .................................................................................. 11 1.2.2. Quy tắc hội thoại ..................................................................... 13 1.2.3. Cấu trúc hội thoại .................................................................... 19 1.2.4. Động từ nói năng ..................................................................... 25 1.2.5. Lập luận trong hội thoại ........................................................... 28 1.2.6. Chiến lược giao tiếp................................................................. 31 Chương 2. Lập luận trong hội thoại và chiến lược giao tiếp của các nhân vật trong Truyện Kiều .................................. 36 2.1. Vài nét về ngôn ngữ hội thoại trong Truyện Kiều ............................... 36 2.2. Lập luận trong hội thoại Truyện Kiều ................................................. 37 2 2.2.1. Đặc điểm cấu tạo của lập luận trong hội thoại Truyện Kiều ..... 37 2.2.2. Cách thức lập luận trong hội thoại của các nhân vật trong Truyện Kiều và cơ sở tạo nên tính thuyết phục của lập luận ......................... 39 2.3. Chiến lược giao tiếp của các nhân vật trong Truyện Kiều ................... 56 Chương 3. Khảo sát các nhóm động từ chỉ hành động nói năng ngôn ngữ hội thoại của các nhân vật trong Truyện Kiều .... 61 3.1. Đặc điểm các nhóm động từ chỉ hành động nói năng trong Truyện Kiều ............................................................................ 61 3.1.1. Đặc điểm cấu trúc .................................................................... 62 3.1.1.1. Về hình thức ............................................................... 62 3.1.1.2. Về cấu trúc ................................................................. 63 3.2.2. Đặc điểm ngữ nghĩa và sự hành chức ...................................... 64 3.2.2.1. Nhóm động từ chỉ hành động hỏi ................................ 64 3.2.2.2. Nhóm động từ chỉ hành động chào ............................. 66 3.2.2.3. Nhóm động từ chỉ hành động nói ................................ 67 3.2.2.4. Nhóm động từ chỉ hành động ước ............................... 71 3.2.2.5. Nhóm động từ chỉ hành động cầu khiến - mệnh lệnh ..... 71 3.2.2.6. Nhóm động từ chỉ hành động cam kết......................... 74 3.2.2.7. Nhóm động từ chỉ hành động biểu cảm....................... 75 3.2. Nhận xét về các nhóm động từ chỉ hành động nói năng qua ngôn ngữ hội thoại của các nhân vật trong Truyện Kiều ............. 78 Kết luận .................................................................................................. 90 Tài liệu tham khảo .................................................................................. 92 3 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng nhất của con người. Trong quá trình giao tiếp có nhiều hoạt động truyền đạt thông tin diễn ra nhưng hội thoại là hoạt động giao tiếp phổ biến nhất, căn bản nhất và thường xuyên nhất của con người. Hội thoại là hoạt động giao tiếp hai chiều có sự tương tác lẫn nhau giữa người nói và người nghe. Để đạt được hiệu quả giao tiếp như mong muốn của bản thân, vai trò của người tham gia giao tiếp đối với việc sử dụng ngôn ngữ có ý nghĩa then chốt. Ngôn ngữ hội thoại chính vì vậy trở thành đối tượng quan tâm đặc biệt của ngữ dụng học. Trong tác phẩm văn học, ngôn ngữ nhân vật nói chung và ngôn ngữ hội thoại của nhân vật nói riêng giữ vai trò quan trọng trong việc góp phần khắc họa tính cách nhân vật, thúc đẩy sự phát triển của tính cách và tình tiết cốt truyện cũng như thể hiện ý đồ nghệ thuật và nội dung của tác giả. Xét trong tiến trình lịch sử nghiên cứu ngôn ngữ học, việc nghiên cứu ngôn ngữ hội thoại là một mảng đề tài lớn từ trước đến nay đã được nhiều nhà ngôn ngữ học trên thế giới và trong nước đề cập. Tuy nhiên, những công trình đi sâu vào ngôn ngữ hội thoại trong tiếng Việt và đặc biệt là trong tác phẩm văn học chưa nhiều, chủ yếu về lí thuyết. Từ thực tiễn đó, trong luận văn này chúng 4 tôi vận dụng lí thuyết hội thoại để tập trung nghiên cứu đề tài Ngôn ngữ hội thoại của các nhân vật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Mặt khác, vị trí và tầm vóc Truyện Kiều trong nền văn học Việt Nam cũng là lí do khiến chúng tôi chọn tác phẩm này là đối tượng nghiên cứu của luận văn. Truyện Kiều là kiệt tác của nền văn học nước ta. Có rất nhiều yếu tố góp phần làm nên thành công của Truyện Kiều nhưng một trong những nhân tố hàng đầu có thể kể đến là nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ bậc thầy của Nguyễn Du, trong đó có ngôn ngữ hội thoại của các nhân vật. Việc xây dựng thành công ngôn ngữ hội thoại của nhân vật của Nguyễn Du đã tạo cho tác phẩm của ông một sự đa thanh, giàu giọng điệu, bộc lộ và phát huy tối đa khả năng thể hiện phong phú, đa dạng của câu thơ lục bát Việt Nam. 2. Đối tượng nghiên cứu Hội thoại là một dạng hoạt động ngôn ngữ tồn tại dưới hai dạng: Lời ăn tiếng nói thể hiện trong đời sống sinh hoạt hàng ngày và lời trao đáp của các nhân vật hội thoại đã được chủ thể tác giả tái tạo lại và thể hiện trong tác phẩm văn học. Hội thoại trong tác phẩm văn học có thể gồm dạng song thoại, tam thoại và đa thoại. Trong giới hạn đề tài này, chúng tôi chỉ đi sâu khảo sát ngôn ngữ hội thoại do hai nhân vật thể hiện (song thoại) trong Truyện Kiều. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu Việc nghiên cứu ngôn ngữ hội thoại của các nhân vật trong Truyện Kiều của chúng tôi nhằm các mục đích: a. Khảo sát ngôn ngữ hội thoại của các nhân vật chính trong Truyện Kiều. Từ đó bước đầu làm rõ đặc điểm sử dụng ngôn ngữ hội thoại độc đáo, đặc sắc của đại thi hào Nguyễn Du. 5 b. Chỉ rõ nhóm động từ chỉ hành động nói năng trong Truyện Kiều và vai trò của chúng trong việc khắc hoạ tính cách nhân vật cũng như thể hiện ý đồ nghệ thuật của truyện. c. Nghiên cứu phương thức lập luận trong lời thoại của các nhân vật trong Truyện Kiều cũng như chiến lược giao tiếp của các nhân vật từ đó chỉ rõ các quy tắc cấu tạo lập luận trong lời nói và quy tắc hội thoại nhằm tăng hiệu quả giao tiếp. 4. Phương pháp nghiên cứu Hội thoại là hoạt động giao tiếp của con người diễn ra trong xã hội. Theo đó nghiên cứu hội thoại phải gắn liền với ngữ cảnh hội thoại (tâm lí, phong tục, văn hoá, đặc điểm dân tộc...) cũng như vị thế, thể diện nhân vật tham gia hội thoại, tình huống.... Chính vì vậy phương pháp hữu hiệu khi nghiên cứu hội thoại là phương pháp xã hội – dân tộc học kết hợp với phương pháp phân tích diễn ngôn. Mặt khác, chúng tôi sử dụng phương pháp miêu tả, phân tích để chỉ ra các phương thức lập luận và chiến lược giao tiếp trong các cuộc thoại của nhân vật. Phương pháp thống kê có tác dụng cung cấp những dữ liệu, số liệu xác định, tạo cơ sở cho việc phân tích cuộc thoại. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng phương pháp diễn dịch và phương pháp quy nạp để đưa ra các kết luận cơ bản của luận văn. 5. Nguồn tư liệu Ra đời từ đầu thế kỉ XIX, bản thảo gốc, hoàn chỉnh của Truyện Kiều của Nguyễn Du hiện nay không còn nữa. Từ đó đến nay thời nào cũng có nhiều người, nhiều nhà xuất bản đứng ra khảo đính, chú thích, xuất bản Truyện Kiều, tuy nhiên giữa các văn bản đó vẫn có sự khác biệt về một số câu, chữ. Song để tìm được một văn bản gần nguyên tác và được sự đồng thuận của mọi người là 6 việc vô cùng khó khăn. Trong số các văn bản Truyện Kiều đã được xuất bản, bản Truyện Kiều của Nhà xuất bản Giáo dục (1996) do Giáo sư Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú giải, đã được xuất bản đến lần thứ mười hai có độ tin cậy khá cao về câu chữ. Chính vì vậy, trong luận văn này chúng tôi chọn bản này làm tư liệu để khảo sát, thống kê ngôn ngữ hội thoại của các nhân vật. 6. Những đóng góp của luận văn Trong thực tiễn nghiên cứu ngữ dụng học hiện nay, việc nghiên cứu ngôn ngữ hội thoại của nhân vật trong tác phẩm văn học, đặc biệt là truyện thơ vẫn chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống. Vì vậy, thông qua đề tài này chúng tôi hi vọng sẽ góp phần nhỏ trong việc khám phá địa hạt nhiều mới mẻ và đầy hứa hẹn này. Thông qua việc khảo sát các nhóm động từ chỉ hoạt động nói năng trong Truyện Kiều, luận văn bước đầu đã phân loại được các nhóm động từ nói năng, cụ thể là hành động nói năng trong lời thoại của các nhân vật trong Truyện Kiều. Kết quả ấy cung cấp thêm cứ liệu cho một hướng nghiên cứu mới về các nhóm hành động qua lời thoại nhân vật, cần được nghiên cứu một cách dài hơi hơn ở những công trình lớn hơn. Mặt khác, việc nghiên cứu các phép lập luận và chiến lược giao tiếp qua lời thoại của các nhân vật trong Truyện Kiều còn góp phần chứng minh tính đúng đắn và hiệu quả thực tế của lí thuyết lập luận và lí thuyết hội thoại khi vận dụng trong đời sống văn học. Từ đó có thể mở rộng ra vận dụng những tri thức về lí thuyết hội thoại và lí thuyết lập luận trong hội thoại của cuộc sống giao tiếp thường nhật, trong diễn đạt cũng như trong ứng xử với những vai giao tiếp khác nhau trong xã hội sao cho đạt hiệu quả giao tiếp cao nhất. 7 Ngoài ra kết quả nghiên cứu của đề tài còn góp phần giúp độc giả nói chung và độc giả Truyện Kiều nói riêng khám phá thêm nét tài tình trong nghệ thuật xây dựng ngôn ngữ hội thoại nhân vật của Nguyễn Du bên cạnh những nét đặc trưng khác của phong cách nghệ thuật Nguyễn Du như: nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật qua ngôn ngữ tự sự, bút pháp tả cảnh ngụ tình... Chính điều này đã góp phần cá tính hoá nhân vật, mỗi nhân vật trong Truyện Kiều đều có một lối nói riêng, một vốn từ riêng, không thể trộn lẫn. Nhờ đó đề tài góp phần làm sáng tỏ thêm sự phong phú, đa dạng trong bút pháp Nguyễn Du và góp thêm những cứ liệu cho việc dạy và học Truyện Kiều. 7. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương. Chương 1. Cơ sở lí thuyết Chương 2. Lập luận trong hội thoại và chiến lược giao tiếp của các nhân vật trong Truyện Kiều Chương 3. Khảo sát các nhóm động từ chỉ hành động nói năng qua ngôn ngữ hội thoại của các nhân vật trong Truyện Kiều 8 NỘI DUNG Chương 1 CƠ SỞ LÍ THUYẾT 1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu Trước đây, hội thoại là đối tượng nghiên cứu của xã hội học, xã hội ngôn ngữ học, dân tộc ngôn ngữ học Mĩ. Đến năm 1970, hội thoại chính thức trở thành đối tượng nghiên cứu của một phân ngành ngôn ngữ học Mĩ, phân ngành phân tích hội thoại (conversation analysis). Từ đó đến nay, ngôn ngữ hội thoại, ngôn ngữ lời nói đã được nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm nghiên cứu: N. Chomsky, J.Austin, J. Fillmore, H.P. Grice, S.C. Dik... trong đó H.P.Grice là tác giả có những đóng góp lớn đối với việc nghiên cứu lí thuyết hội thoại hơn cả. Trong tác phẩm Logic and conversation ông đã nghiên cứu nguyên lí cộng tác hội thoại, tương tác hội thoại, lôgic với hội thoại cũng như phân chia các phương diện liên kết hội thoại. Chính những lí thuyết này cùng với những nghiên cứu về hội thoại của các tác giả khác đã đặt cơ sở lí thuyết cho những nghiên cứu về hội thoại của các nhà Việt ngữ học. Ở Việt Nam, có thể kể đến Đỗ Hữu Châu với Đại cương ngôn ngữ học. Tập 2: Ngữ dụng học, Nxb Giáo dục, 2001; Cơ sở ngữ dụng học, Nxb Đại học Sư phạm, 2003; Nguyễn Đức Dân với Ngữ dụng học, Tập 1, Nxb Giáo dục, 1998; Cao Xuân Hạo với Sơ thảo ngữ pháp chức năng, Tập 1, Nxb Khoa học Xã hội; Đỗ Thị Kim Liên với Ngữ nghĩa lời hội thoại, Nxb Giáo dục, 1999; Giáo 9 trình Ngữ dụng học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; Nguyễn Thị Quy với Vị từ hành động và các tham tố của nó, Nxb Khoa học Xã hội, 1995 v.v... và một số tác giả khác như Hoàng Phê, Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn Văn Hiệp, Lê Đông đã công bố những công trình có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề hội thoại. Trong đó đáng chú ý nhất là hai công trình ([4], [29]) đề cập một cách hệ thống các vấn đề có tính chất cập nhật của lí thuyết hội thoại: sự quy chiếu và chỉ xuất khi nói, lập luận, quy tắc hội thoại, ý nghĩa tường minh, nghĩa hàm ẩn và nghĩa tình thái. Nhìn chung, các công trình trên đã xây dựng nền tảng lí luận cơ bản, vững chắc về lí thuyết hội thoại: vận động hội thoại, các quy tắc hội thoại, thương lượng hội thoại, cấu trúc hội thoại, ngữ pháp hội thoại, ngữ nghĩa hội thoại... Trên cơ sở những tri thức nền đó, các nhà ngôn ngữ học về sau có thể liên hệ, mở rộng, áp dụng nghiên cứu lí thuyết hội thoại trong thực tiễn đời sống và văn học. Tuy nhiên, ngôn ngữ hội thoại của các nhân vật trong tác phẩm văn học ở Việt Nam là địa hạt nghiên cứu khá mới mẻ. Số lượng các công trình công bố không nhiều, có thể kể ra như: Lê Thị Trang, Ngôn ngữ hội thoại của các nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Vinh, 2002; Đinh Trí Dũng, Ngôn ngữ đối thoại trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng, Ngữ học trẻ 99, tr.268; Đinh Thị Khang, Ngôn ngữ đối thoại trong truyện Nôm, Văn hoá dân gian, 1992, số 4, tr.49-53 v.v... Về cơ bản, các công trình trên chỉ mới đặt những viên gạch đầu tiên cho một hướng nghiên cứu mới hấp dẫn của ngữ dụng học. Nếu xét riêng lĩnh vực nghiên cứu ngôn ngữ hội thoại của các nhân vật trong truyện thơ, đặc biệt là Truyện Kiều thì số lượng công trình lại càng ít hơn 10 và nhìn chung chưa nhận được sự quan tâm thích đáng. Theo tổng kết sơ bộ của chúng tôi hiện có khoảng hơn 1.200 thư mục viết về Truyện Kiều nhưng chủ yếu các công trình này nghiên cứu Truyện Kiều ở phương diện văn học. Việc nghiên cứu Truyện Kiều với tư cách là đối tượng của ngôn ngữ học rõ nét nhất là công trình Tìm hiểu phong cách của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Nxb Khoa học Xã hội, 1985 của nhà nghiên cứu Phan Ngọc. Có thể nói trước Phan Ngọc chưa có một công trình ngôn ngữ học nào nghiên cứu về Truyện Kiều công phu như vậy. Song trong chuyên khảo này, tác giả chủ yếu nghiên cứu Truyện Kiều từ điểm nhìn của phong cách học, còn điểm nhìn của ngữ dụng học chưa được tác giả chú ý khai thác. Từ phong cách học, Phan Ngọc chứng minh những nét khu biệt của thiên tài Nguyễn Du cũng như những nét đặc sắc của kiệt tác Truyện Kiều. Ngôn ngữ hội thoại của các nhân vật trong Truyện Kiều nhìn chung chỉ mới được khảo sát ở mức độ nhỏ lẻ, có vẻ thiếu hệ thống, số lượng các công trình đi sâu nghiên cứu còn rất hạn chế [27], [28], [30], [31], [32]. Trong hai công trình của GS.TS. Đỗ Thị Kim Liên ([26], [29]) về ngôn ngữ hội thoại, ngôn ngữ hội thoại của các nhân vật trong Truyện Kiều chỉ xuất hiện với tư cách là dẫn chứng. Chính vì vậy, ngôn ngữ hội thoại trong Truyện Kiều - một trong những thành công về nghệ thuật của Nguyễn Du vẫn là một lĩnh vực còn để ngỏ, đòi hỏi những khảo sát có hệ thống và toàn diện. 1.2. Một số vấn đề lí thuyết liên quan đến đối tượng nghiên cứu của luận văn 1.2.1. Hội thoại Trong giới Việt ngữ học hiện nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về hội thoại (conversation). Hầu hết các tác giả đều định nghĩa về hội thoại một cách sơ 11 bộ, có tính chất giả thiết để làm việc, chủ yếu tìm thấy ở các sách nêu vấn đề có tính chất đại cương hay một số chuyên luận. Tác giả Đỗ Hữu Châu, Cao Xuân Hạo quan niệm: “Hội thoại là hoạt động giao tiếp bằng lời ở dạng nói giữa các nhân vật giao tiếp nhằm trao đổi các nội dung miêu tả và liên cá nhân theo đích được đặt ra” (Tiếng Việt 12, Ban Khoa học Xã hội, Nxb Giáo dục, 1995, tr.3-4). Nguyễn Đức Dân cho rằng: “Trong giao tiếp hai chiều, bên này nói, bên kia nghe và phản hồi trở lại. Lúc đó vai trò của hai bên thay đổi. Bên nghe lại trở thành bên nói và bên nói lại trở thành bên nghe. Đó là hội thoại” [7; 76]. Tác giả Hồ Lê đưa ra quan niệm hội thoại gắn với hành vi phát ngôn như sau: ″Phát ngôn hội thoại là kết quả của một hành vi phát ngôn được kích thích bởi một sự kiện hiện thực kể cả hội thoại hoặc một xung đột tâm lí của người phát ngôn, có liên quan đến những người có khả năng trực tiếp tham gia hội thoại, nó tác động vào anh ta khiến anh ta phải dùng lời nói của mình để phản ứng lại và hướng lời nói của mình vào những người có khả năng trực tiếp tham gia hội thoại ấy, trên cơ sở của một kiến thức về cấu trúc câu và về cách xử lý mối quan hệ giữa người phát ngôn và ngữ huống và của một dự cảm về hiệu quả lời nói ấy đối với người thụ ngôn hội thoại trực tiếp″ (Cú pháp tiếng Việt, tập III, Nxb Khoa học Xã hội, 1993, tr.180). Đỗ Hữu Châu sau khi khẳng định tính chất thường xuyên, phổ biến của hội thoại trong giao tiếp bằng ngôn ngữ đã mở rộng khái niệm hội thoại ra làm nhiều bình diện khác nhau. Ông phân biệt hai khái niệm hội thoại (conversation) và đối thoại (dialogue). Đỗ Hữu Châu dùng thuật ngữ hội thoại cho mọi hoạt động, mọi hình thức hội thoại nói chung. Thuật ngữ đối thoại được dùng cho hình thức đối thoại tích cực mặt đối mặt giữa những người hội thoại. Trong đối 12 thoại lại có đối thoại tay đôi, đối thoại tay ba, tay tư, gọi chung là đa thoại. Đối thoại tay đôi được gọi là song thoại [4; 205]. Tác giả Đỗ Thị Kim Liên thì định nghĩa: “Hội thoại là một trong những hoạt động ngôn ngữ thành lời giữa hai hay nhiều nhân vật trực tiếp, trong một ngữ cảnh nhất định mà giữa họ có sự tương tác qua lại về hành vi ngôn ngữ hay hành vi nhận thức nhằm đi đến một đích nhất định” [29; 18]. Như vậy, có thể nhận thấy mặc dù cách định nghĩa, cách quan niệm có thể khác nhau nhưng nhìn chung nội hàm về khái niệm hội thoại của các tác giả nêu trên cơ bản là giống nhau. Chúng tôi cũng đồng tình với các tác giả và cho rằng hội thoại là hoạt động giao tiếp bằng lời giữa những người tham gia giao tiếp nhằm những mục đích nào đó. Hội thoại diễn ra trong một ngữ cảnh nhất định trong đó giữa các nhân vật tham gia giao tiếp có sự tương tác lẫn nhau (hành vi ngôn ngữ, hành vi nhận thức) nhằm đạt được mục đích giao tiếp. 1.2.2. Quy tắc hội thoại Khi tham gia hội thoại, để đạt được đích giao tiếp, các nhân vật tham gia hội thoại phải tuân thủ một số nguyên tắc nhất định, được gọi là nguyên tắc hội thoại. Nguyên tắc thương lượng: Khi tham gia hội thoại, các nhân vật nhiều khi phải có câu mở đầu có tính thăm dò nhằm đi đến một sự thoả thuận chung về đề tài, nội dung cuộc thoại, về số lượng người tham gia tạo điều kiện cho cuộc thoại thành công. Ví dụ: [...] – Hay bây giờ em định thế này... Song anh có cho phép em mới dám nói... 13 Rồi Dế Choắt loanh quanh, băn khoăn. Tôi phải bảo: - Anh đã nghĩ thương em như thế thì hay là anh đào giúp cho em một cái ngách sang bên nhà anh phòng khi tắt lửa tối đèn có đứa nào đến bắt nạt thì em chạy sang... (Ngữ văn 8.T1, Nxb Giáo dục, H., 2007, tr.109) Trong ví dụ trên, việc thương lượng của Dế Choắt nhằm dò tìm thái độ của Dế Mèn để còn liệu ứng xử cho phù hợp, tránh làm phật lòng Dế Mèn. Nguyên tắc luân phiên lượt lời: Trong hội thoại, các nhân vật tham gia phải có sự luân phiên lượt lời thích hợp. Lượt lời là lời của nhân vật tham gia hội thoại hướng tới người nghe, được bắt đầu từ khi mở thoại đến kết thoại. Tương tự, lượt lời của nhân vật khác cũng vậy. Sự luân phiên lượt lời được thể hiện qua hành vi trao lời và đáp lời. Trong hội thoại, để cuộc thoại đạt được đích mong muốn, lượt lời, nói cách khác là hành vi trao lời và đáp lời giữa người nói và người nghe phải có sự tương tác thích hợp. Các nhân vật tham gia hội thoại phải có sự phối hợp về từ ngữ, cách nói, cách ứng xử sao cho phù hợp với nội dung cuộc thoại. Lượt lời của các nhân vật phải tạo nên sự kế tục, nối tiếp nhau, thúc đẩy cuộc thoại tiến triển theo hướng tích cực. Ví dụ: - Chuỗi ngọc này có phải của tiệm ông không ạ? - Phải. - Thưa... Có phải ngọc thật không? - Không phải thứ ngọc quý nhất, nhưng là ngọc thật. - Ông có nhớ đã bán cho ai không? - Một cô bé tên là Gioan mua tặng chị của mình. 14 - Giá bao nhiêu ạ? - Tôi không khi nào nói giá tiền của quà tặng. - Gioan chỉ có ít tiền tiêu vặt. Làm sao em mua nổi chuỗi ngọc này? Pi-e gói lại chuỗi ngọc và đáp: - Em đã trả giá rất cao. Bằng toàn bộ số tiền em có. Hai người đều im lặng. Tiếng chuông từ một giáo đường gần đó bắt đầu đổ. - Nhưng sao ông lại làm như vậy? Pi-e vừa đưa chuỗi ngọc cho cô gái vừa nói: - Hôm nay là ngày Nô-en. Tôi không có ai để tặng quà. Cho phép tôi đưa cô về nhà và chúc cô một lễ Nô-en vui vẻ nhé. (Tiếng Việt 5.T1, Nxb Giáo dục, 2007, tr.142) Trong cuộc thoại trên, hai nhân vật hội thoại đưa ra lời trao – đáp hết sức nhịp nhàng. Cả hai đều có sự điều chỉnh về từ ngữ, thái độ ứng xử tạo điều kiện cho cuộc thoại tiến triển. Nhờ vậy, dù hai nhân vật mới quen nhau nhưng giữa họ vẫn có sự giao tiếp dễ dàng, đầy cảm thông. Tôn trọng nguyên tắc lượt lời là không nói quá nhiều, quá dài, quá lâu, làm mất lượt lời của người đối thoại hoặc không chen ngang, không cướp lời người đối thoại. Nguyên tắc mạch lạc: Để cuộc thoại thành công, các lời trao và lời đáp phải có sự liên kết về nội dung và hình thức cũng như về hành động nói năng. Về nội dung, các lượt lời tham gia cuộc thoại phải cùng đề cập đến một chủ đề, một nội dung thống nhất nào đó. Ví dụ: - Sao anh lại bắt chim? - Thằng bé nhất hỏi. 15 - Vì chúng nó hót hay lắm. - Không nên bắt, cứ để cho chúng muốn bay đi đâu thì bay. - Được, mình sẽ không bắt nữa! - Nhưng anh hãy bắt cho em một con đã. - Em muốn chim gì? - Chim gì hót vui vui ấy. Để nhốt vào lồng. - Thế thì chim bạch yến nhé? - Mèo nó bắt mất - Thằng thứ hai nói – Mà bố cũng chẳng cho nuôi. Thằng anh lớn tán thành: - Đúng đấy, bố chẳng cho nuôi đâu... (Ngữ văn 9.T1, Nxb Giáo dục, H., 2007, tr.229) Trong cuộc thoại trên, các lượt lời đều xoay quanh trò chơi bắt chim của các đứa bé hàng xóm. Về hình thức, trong cuộc thoại, thông thường giữa lời trao và lời đáp của các nhân vật tham gia có thể có các phương tiện liên kết như: đại từ liên kết (ấy, thế, vậy, đó...), quan hệ từ liên kết hoặc trợ từ (nhưng, và, vì...), dùng phép tĩnh lược, phép lặp, từ tình thái (dạ, vâng...). Chẳng hạn, trong ví dụ vừa trích dẫn ở trên, giữa các câu trao và câu đáp của các nhân vật tham gia hội thoại đều có sự liên kết về mặt hình thức. Các nhân vật đã sử dụng đại từ liên kết (thế), quan hệ từ liên kết (nhưng, vì), phép lặp (lặp câu bố chẳng cho nuôi đâu). Chính nhờ vậy, cuộc thoại trên trở nên trôi chảy, mạch lạc. Về hành động nói năng, lời trao và lời đáp có sự liên kết thích ứng với nhau. Chẳng hạn, có câu hỏi thì phải có câu trả lời, câu đề nghị thì phải có câu đáp ứng hoặc từ chối v.v... 16 Ví dụ: Câu trao là câu hỏi, câu đáp là câu trả lời: - Thế nhà con ở đâu? - Nhà ta ở làng chợ Dầu. (Ngữ văn 9.T1, Nxb Giáo dục, H., 2007, tr.170) Câu trao là câu đề nghị, câu đáp là câu từ chối: - Thưa lạy hai cụ, nhà con túng quá, xin hai cụ cứu giúp con. Bà Nghị nhả miếng bã trầu cầm tay, quai thật dài cặp môi cắn chỉ : - Chẳng cứu với vớt gì cả! Mày có bán đứa con gái tao mua! (Tắt đèn, Ngô Tất Tố, Nxb Hội Nhà văn, H., 2006, tr.95) Nguyên tắc lịch sự: Khi tham gia hội thoại, người nói phải khiêm tốn và tôn trọng thể diện người nghe. Không nên nói đề cao mình, nói quá nhiều về mình cũng như chen ngang, cướp lời người đối thoại. Ví dụ: Trong giao tiếp, cần giữ lịch sự khi đặt câu hỏi, tránh đặt những câu hỏi làm phiền lòng người đối thoại, xúc phạm thể diện của họ: - Tại sao cả tháng nay chẳng thấy cậu mặc chiếc áo mới nào? - Nhà chị không có xe hay sao mà cứ sang nhà em mượn xe vậy? - Chú ơi, sao chú cứ dùng mãi chiếc ti vi cũ này thế? Nguyên tắc cộng tác: Các bên tham gia hội thoại phải góp phần mình (về lượt lời, về nội dung) mang tính thiện chí để đạt tới đích của cuộc thoại. Như vậy, điều quan trọng là khi tham gia hội thoại, các bên tham gia phải có thiện chí thúc đẩy cuộc thoại tiến triển. Nếu không tuân thủ điều này, cuộc thoại mặc dù đảm bảo về lượt lời, về nội dung nhưng vẫn đi vào ngõ cụt, vi phạm nguyên tắc cộng tác. 17 Ví dụ: - Hương về hè có vui không? - Cũng vui. - Mùa màng quê mình độ này thế nào? - Vẫn như mọi khi. - Cụ ở nhà có khoẻ không? - Bình thường. - Chắc khi chú Hà tôi đi học Hương đã nghỉ hè rồi? - Không rõ lắm. - Nghe nói thầy Chởi đi học ở Hà Nội? - Tôi cũng không được biết. (Thời xa vắng, Lê Lựu, Nxb Văn học, H., 1998) Trong cuộc thoại trên, mặc dù lời trao của người nói đã được đáp lại nhưng lời đáp mang tính gượng ép, nhạt nhẽo, thiếu sự hưởng ứng. Vì vậy, cuộc thoại đã thất bại. Theo H.P.Grice, nguyên tắc cộng tác (cooperative principle) gồm các phương châm sau: Phương châm về chất: nên nói những điều mình tin là đúng và có bằng chứng xác thực. Phương châm về lượng: khi tham gia hội thoại, cần nói cho có nội dung, nội dung của lời nói phải đáp ứng cuộc thoại, không thiếu, không thừa. Phương châm về cách thức: nên nói một cách rõ ràng, mạch lạc, ngắn gọn, có trật tự, dễ hiểu, tránh nói mập mờ, tối nghĩa. Phương châm về quan hệ: cần nói sao cho thích hợp với cuộc thoại, tránh nói lạc đề. 18 Ví dụ: Cô giáo viết lên bảng một câu ghép: “Mặc dù tên cướp rất hung hăng, gian xảo nhưng cuối cùng hắn vẫn phải đưa hai tay vào còng số 8”. Rồi cô hỏi: - Em nào cho cô biết chủ ngữ của câu trên ở đâu? Hùng nhanh nhảu: - Thưa cô, chủ ngữ đang ở trong nhà giam ạ. (Theo Truyện cười dân gian) Trong truyện cười trên, nhân vật hội thoại đã vi phạm phương châm quan hệ (nói lạc đề). 1.2.3. Cấu trúc hội thoại Các đơn vị tham gia cấu trúc hội thoại gồm có: cuộc thoại, đoạn thoại, cặp thoại, tham thoại và hành động ngôn trung (còn gọi là hành vi ngôn ngữ). Cuộc thoại hay còn gọi là cuộc tương tác (interation) là đơn vị hội thoại lớn nhất trong hội thoại. Thông thường, để xác định một cuộc thoại có thể có các nhân tố sau: - Nhân vật hội thoại: có thể có hai, ba hoặc nhiều người tham gia. - Sự thống nhất về thời gian và địa điểm diễn ra hội thoại. - Sự thống nhất về chủ đề hội thoại. Các tham thoại cấu thành cuộc thoại phải có xu hướng thống nhất về chủ đề. Ví dụ: Phượng sôi nổi, nồng hậu: - Em mừng quá, chị Hoài ơi. Để em xách tay nải cho. Lí ôm chầm người phụ nữ đã một thời là dâu trưởng, nức nở: - Đúng là có linh tính nhé. Chị xem lời em nói có thiêng không? Em vừa nói: Ước gì chị Hoài hiện ra bây giờ nhỉ. 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan