Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Ngôn ngữ học đối chiếu ...

Tài liệu Ngôn ngữ học đối chiếu

.PDF
63
806
126

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ Bài giảng NGÔN NGỮ HỌC ĐỐI CHIẾU ThS. Lê Thị Thanh Ngà 1 PHẦN 1: TỔNG QUAN VỀ NGÔN NGỮ HỌC ĐỐI CHIẾU (Contrastive linguistics) I. Khái quát chung về ngôn ngữ học đối chiếu 1. Đối chiếu là gì? Trong nhiều nghĩa thường dùng, hai từ “so sánh” và “đối chiếu” không khác nhau nhiều về ý nghĩa. “So sánh” là xem xét để tìm ra những điểm giống, tương tự hoặc khác biệt nhau về mặt số lượng, kích thước, phẩm chất. “Đối chiếu” là so sánh hai sự vật có liên quan chặt chẽ với nhau. Thuật ngữ “đối chiếu, đối sánh” thường được dùng để chỉ phương pháp hoặc phân ngành nghiên cứu lấy đối tượng chủ yếu là hai hay nhiều ngôn ngữ. Mục đích của nghiên cứu là làm sáng tỏ những nét giống và khác nhau hoặc chỉ làm sáng tỏ những nét khác nhau mà thôi. Nguyên tắc chủ yếu là nguyên tắc đồng đại. 2. Ngôn ngữ học đối chiếu là gì? Như chúng ta đã biết, Ngôn ngữ học là ngành khoa học nghiên cứu về ngôn ngữ nói chung và ngôn ngữ cụ thể nói riêng. Ngôn ngữ học đối chiếu là một phân môn của ngôn ngữ học ưu tiên sử dụng phương pháp đối chiếu các ngôn ngữ với nhau để tìm ra sự giống và khác nhau giữa chúng nhằm phục vụ cho những mục đích lý luận và thực tiễn. 3. Vị trí của ngôn ngữ học đối chiếu trong hệ thống các bộ môn ngôn ngữ học Ngôn ngữ học NNH mô tả NNH so sánh NNHSSLS NNHKV Ngôn ngữ học NNH đại cương LHH Nghiên cứu so sánh PN NNHĐC Ngôn ngữ học 2 4. Mục đích ý nghĩa của việc nghiên cứu ngôn ngữ học đối chiếu 4.1. Đối với ngôn ngữ học đại cương Nhờ kết quả của ngôn ngữ học đối chiếu, ngôn ngữ học đại cương trong nhiều trường hợp có thể điều chỉnh, bổ sung và kiểm chứng các khái niệm, phạm trù... VD: phạm trù loại trong lịch sử nghiên cứu của ngôn ngữ học đối chiếu cho rằng phạm trù này đồng nhất với phạm trù logic ví như danh từ đồng nhất với phạm trù sự vật, động từ đồng nhất với phạm trù hành động... Có thời kỳ, đồng nhất phạm trù này với phạm trù hình thái... Có sự nhầm lẫn như vậy là vì tại từng thời kỳ các cứ liệu của ngôn ngữ học đối chiếu chỉ khái quát hoá nên được những kết luận như vậy. 4.2. Đối với ngôn ngữ học mô tả Ngôn ngữ học mô tả có nhiệm vụ là nghiên cứu cấu trúc hệ thống của ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp). Ngôn ngữ học đối chiếu có tác dụng nhất định đối với ngôn ngữ học mô tả: - Cung cấp cứ liệu cần thiết cho ngôn ngữ học mô tả. - Kiểm định xem sự mô tả có chính xác hay không? Ví dụ những cứ liệu đối chiếu cho thấy trong các ngôn ngữ đơn lập, nhiều ngôn ngữ có thanh điệu nên khi ta được nghe một ngôn ngữ nào đó mới lạ, ta có thể pháp đoán ngôn ngữ đó có thanh điệu hay không? 4.3. Đối với loại hình học Nhiệm vụ của loại hình học là so sánh đối chiếu ngôn ngữ để phân loại về mặt loại hình còn ngôn ngữ học đối chiếu không có nhiệm vụ như vậy, nhưng trong nhiều trường hợp, các cứ liệu của ngôn ngữ học đối chiếu cho phép kiểm chứng, bổ sung, làm sáng tỏ hơn những đặc điểm của loại hình học. Ví dụ nghiên cứu loại hình âm tiết của TV trong đối chiếu với ngôn ngữ châu Âu. Dù mục đích phải là phân loại loại hình học nhưng vẫn phải so sánh TV với ngôn ngữ châu Âu để nghiên cứu và đưa ra kết luận. 4.4. Đối với dịch thuật Ngôn ngữ học đối chiếu cung cấp những cơ sở dữ liệu về đối chiếu, những hiểu biết về mối quan hệ giữa tương đồng và dị biệt giữa các ngôn ngữ, những phương pháp, thủ pháp để chuyển đơn vị của ngôn ngữ này thành dạng thức tương đương trong ngôn ngữ khác. Mỗi quan hệ giữa dịch thuật và ngôn ngữ học đối chiếu là mối quan hệ tự nhiên. Dịch thuật tìm kiếm và xác lập mối quan hệ chuyển dịch đơn vị văn bản ở ngôn ngữ gốc sang ngôn ngữ khác. Dịch thuật và ngôn ngữ học đối chiếu cùng làm việc với hai ngôn ngữ. Ngôn ngữ học đối chiếu cũng dựa vào các cứ liệu dịch thuật để đối chiếu. 4.5. Đối với dạy học ngoại ngữ 3 Ngôn ngữ học đối chiếu có tác dụng giúp người dạy và học ngoại ngữ dễ dàng hơn trong việc định hướng giáo trình, giáo án, SGK, từ đó giúp cho việc dạy và học ngoại ngữ đạt hiệu quả cao. Ngoài ra, NNHĐC còn giúp cho việc biên soạn từ điển đặc biệt là từ điển song ngữ. Nhờ có kiến thức của ngôn ngữ học đối chiếu, có thể phân tích, nhận diện và đề ra cách sửa chữa những lỗi mà người học ngoại ngữ thường gặp. Có hai loại lỗi: - Lỗi giao thoa (liên ngôn): interlingual error: người học ngoại ngữ đối chiếu tiếng mẹ đẻ với ngoại ngữ và áp dụng nó vào ngoại ngữ hai, tạo nhiều lỗi liên ngôn. - Lỗi nội ngôn (intralingual error) do chưa nắm vững cấu trúc hay từ vựng của ngoại ngữ. II. Sự ra đời và phát triển của ngôn ngữ học đối chiếu 1. Khái quát về sự ra đời của ngôn ngữ học đối chiếu Những nghiên cứu đối chiếu đầu tiên trong ngôn ngữ học đã xuất hiện từ rất lâu, đặc biệt là vào thời kỳ có nhiều phát kiến mới về địa lý, thời kỳ phát triển mạnh về khoa học kỹ thuật và đặc biệt là từ những năm 70 trở lại đây. Có hàng loạt nguyên nhân thúc đẩy sự ra đời và phát triển của ngôn ngữ học đối chiếu, trong đó có thể kể đến các nguyên nhân chủ yếu sau: 1.1. Nguyên nhân xã hội (nguyên nhân bên ngoài): Sự phát hiện ra các vùng đất mới, cộng đồng người mới, nhiều quốc gia độc lập được hình thành và đi kèm theo là nhiều ngôn ngữ mới được phát hiện. Lượng thông tin văn hoá và sự giao lưu của các nền văn minh, văn hoá thành văn tăng lên với tốc độ đáng kể. Điều này đưa đến đòi hỏi to lớn của việc dạy và học ngoại ngữ, của việc giải quyết tình trạng song ngữ, việc xây dựng cơ sở lý luận và giải quyết công việc dịch thuật và hàng loạt công việc thực tế ngôn ngữ khác. 1.2. Nguyên nhân thuộc về nội bộ ngôn ngữ học (nguyên nhân bên trong) Khả năng to lớn của con người nói chung và các nhà ngôn ngữ học nói riêng đã phát hiện và bao quát một lúc nhiều ngôn ngữ khác nhau, tìm hiểu, giải quyết nó theo những mục đích, định hướng xác định. Các phân tích, lý giải “đơn ngữ luận”, dù đạt nhiều thành tựu to lớn, vẫn không thể tiến xa hơn nếu không phát triển các nghiên cứu lý luận “đa ngữ luận”, một hướng nghiên cứu lý giải có sức bao quát sâu rộng hơn nhiều. Nhu cầu kết hợp của những nghiên cứu lý luận và giải quyết những nhiệm vụ cụ thể, trực tiếp trong nội bộ ngôn ngữ học. Chính những nguyên nhân và cũng là những đòi hỏi chính yếu chỉ ra trên đây đã tạo ra những tiền đề thực tế cho sự ra đời và phát triển của 4 ngôn ngữ học đối chiếu. 2. Các thời kỳ phát triển của ngôn ngữ học đối chiếu Cho đến nay, nhìn một cách tổng quát, nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ có thể chia thành ba thời kỳ phát triển với những đặc điểm sau: 2.1. Thời kỳ đầu Ngôn ngữ học so sánh-lịch sử ra đời và phát triển tập trung vào thế kỷ XIX nhưng thời kỳ đầu của ngôn ngữ học đối chiêú được coi là bắt đầu từ khoảng thế kỷ XIV và kết thúc vào khoảng thế kỷ XIX khi ngôn ngữ học so sánh-lịch sử ra đời. Thời kỳ này nghiên cứu chủ yếu: từ điển, các bộ sưu tập ngôn ngữ và một số công trình có định hướng so sánh đối chiếu ngôn ngữ. Về từ điển đối chiếu: từ điển song, đa ngữ bắt đầu được biên soạn. Ví dụ: năm 1520, cuốn từ điển đối chiếu 7 ngữ của Capelimo (người ý), năm 138 Giextne (Thuỵ Sĩ) soạn từ điển 12 ngữ. Ngoài ra các bộ sưu tập đối chiếu ngôn ngữ: có một số bộ sưu tập ngữ liệu, có một số bộ còn so sánh giữa một số ngôn ngữ. Ví dụ: năm 1554, Caninurse: so sánh ngôn ngữ chính của họ Smith, năm 1564, Henry II phát triển công trình: “Sự khác biệt giữa tiếng Pháp và tiếng Hy Lạp”... Trong lĩnh vực ngữ pháp, có nhiều công trình đề cập đến so sánh đối chiếu ngôn ngữ như ngữ pháp phổ quát và duy lý của Port-Royal (1660) đề cập đến xác lập và xây dựng những quy tắc phổ quát của ngôn ngữ dựa trên tiếng Pháp, tiếng Hy Lạp, tiếng Latin... 2.2. Thời kỳ thứ hai (cuối thế kỷ VXIII đến cuối thế kỷ XIX) Đây là thời kỳ của ngôn ngữ học so sánh-lịch sử và triết học ngôn ngữ thế kỷ XIX. Nét đặc trưng của thời kỳ này là nghiên cứu đối chiếu bị cuốn hút và hoà vào dòng thác nghiên cưú so sánh-lịch sử. Những nghiên cứu lý luận và những vận dụng thực tiễn rộng lớn của nó vẫn được tiến hành song chỉ đóng vai trò hỗ trợ. Trong giai đoạn này, ranh giới giữa các loại nghiên cứu so sánh-lịch sử, loại hình, đối chiếu chưa thực sự được phân biệt rạch ròi. Dần dần về sau người ta mới xác định được một sự phân giới có ý thức. Chính những tri thức về phân kỳ lịch sử ngôn ngữ học nói chung và ngôn ngữ học so sánh-lịch sử, loại hình học nói riêng đã cho thấy điều đó. Chẳng hạn như nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ rõ rằng đến nửa đầu thế kỷ XIX ngôn ngữ học mới được tách thành một ngành khoa học độc lập nhờ sự phát triển mạnh mẽ của ngôn ngữ học so sánh-lịch sử. Song ngôn ngữ học so sánh-lịch sử cũng thể hiện sự khác nhau ở ba thời kỳ phát triển: thời kỳ đầu khoảng từ những năm 1816-1870, thời kỳ thứ hai khoảng từ những năm 1871-1916, và thời kỳ thứ ba từ năm 1917 đến nay. Như vậy là đến nửa cuối thế kỷ XIX, ngôn ngữ học so sánh-lịch sử mới xác định được phạm vi đối tượng, phương pháp nghiên cứu riêng để trở thành một phân ngành độc lập theo như lời nhận xét của Enghen: “Ngôn ngữ học nghiên cứu so sánh-lịch sử có được cái nền tảng lịch sử của nó”. Nghiên cứu đối chiếu trong quan hệ với nghiên cứu so sánh-lịch 5 sử và loại hình ở giai đoạn đầu của sự phát triển ngôn ngữ học đã góp phần vào các nghiên cưú so sánh chung nhiều ngôn ngữ mà không phân biệt đó là so sánh phổ hệ, loại hình hay đối chiếu. 2.3. Thời kỳ thứ ba (thế kỷ XX đến nay) Thế kỷ XX, ngôn ngữ học phát triển rực rỡ với nhiều khuynh hướng khác nhau không chỉ ở ngôn ngữ học mô tả mà cả ở ngôn ngữ học lý thuyết. Sau lý thuyết FDS, ngôn ngữ học truyền thống trở thành một ngành khoa học riêng, trong đó có ngôn ngữ học đối chiếu. FDS là người đã nghiên cứu sự phân giới ngôn ngữ và lời nói, lịch đại và đồng đại, hệ thống và cấu trúc... Đầu thế kỷ XX, dưới ảnh hưởng của tư tưởng Saussure, người ta nhận thấy cần phải tách biệt nghiên cứu đồng đại và lịch đại..., cần tách ngôn ngữ học đối chiếu ra khỏi ngôn ngữ học. Sau chiến tranh thế giới thứ 1 và 2, nhiều quốc gia mới ra đời, nhu cầu giao lưu về kinh tế văn hoá phát triển mạnh và ngôn ngữ học đối chiếu đòi hỏi phải tách ra và trở thành một bộ môn lý luận riêng và có những nghiên cứu riêng của nó. Cùng với ngôn ngữ học đối chiếu, loại hình học cũng được tách ra từ ngôn ngữ học so sánh lịch sử. Đặc điểm của giai đoạn này: ngôn ngữ học đối chiếu phát triển đa dạng và theo nhiều hướng: - Tách ra khỏi ngôn ngữ học so sánh lịch sử và loại hình học. - Phát triển theo nhiều hướng, nhiều mục đích khác nhau. 5. Một số công trình tiêu biểu 3.1. Các công trình tiêu biểu Đối chiếu để mô tả làm rõ hơn đặc điểm của một ngôn ngữ này so với ngôn ngữ khác mà không nhằm mục đích so sánh: Ngôn ngữ học đối chiếu và một số vấn đề tiếng Pháp của S.Bally; Ngữ pháp tiếng Nga đối chiếu với tiếng uzơbếch của Polivanov. Đối chiếu nhằm giải quyết những vấn đề về loại hình học, phân loại loại hình học: công trình của các nhà loại hình học, kết hợp đối chiếu để phân loại theo các đặc điểm nhất định: tác phẩm của Sapir, Skalitka, Greenberg. 3.2. Các công trình trong những năm gần đây Những năm 80 trở đi ngôn ngữ học đối chiếu phát triển mạnh mẽ, đề cập tới các lĩnh vực của ngôn ngữ từ những vấn đề chung nhất (tu từ, phong cách, văn hóa ngôn ngữ). Các công trình: - Jacek Fisiak: Constractive Linguistics 1984 - Carl James: Constractive Analysis 1986 - Karezowsleij: Constracting Languagé 4. Ngôn ngữ học đối chiếu ở Việt Nam Ngôn ngữ học đối chiếu phát triển từ những năm 1960, đặc biệt là trong mấy chục năm trở lại đây. Các cơ sở nghiên cứu và giảng dạy như các trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Ngoại ngữ, 6 Phân viện Puskin ở Hà Nội đã có nhiều nghiên cứu ứng dụng. Về lí luận gắn với hai giáo trình: - Lê Quang Thiêm: Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ -1989; Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ - 2004. - Nguyễn Văn Chiến – Ngôn ngữ học đối chiếu và đối chiếu các ngôn ngữ Đông Nam á. Hiện nay, Ngôn ngữ học đối chiếu ở Việt Nam tập trung vào đối chiếu: - Tiếng Việt và các ngôn ngữ Châu Âu. + Những năm 80: tiếng Việt và tiếng Đông Âu. + Những năm 90: tiếng Việt và tiếng Anh, Pháp... - Tiếng Việt và các ngôn ngữ khu vực (Nhật, Hàn...) - Tiếng Việt và các ngôn ngữ dân tộc. Câu hỏi thảo luận bài 1 1. Hãy nêu (phân tích) những đặc điểm của NNHĐC? - NNHĐC là gì? - Mục đích của NHĐC - Phạm vi, đối tượng Tất cả những điểm trên khác nghiên cứu khác như thế nào? 2. Phân tích những ứng dụng thiết thực của NCĐC vào ngôn ngữ. - tìm giống và khác nhau giữa ngôn ngữ được đối chiếu - ứng dụng 3. Hãy nêu một ví dụ NCĐC về một hiện tượng từ đó nêu ích lợi của NCĐC (ĐC từ vựng, ĐC ngữ âm, ĐC ngữ pháp) 7 PHẦN II: ĐỐI CHIẾU NGỮ ÂM -ÂM VỊ Bài 1: Đối chiếu nguyên âm Việt-Anh I.Khái quát chung về nguyên âm 1. Định nghĩa nguyên âm (vowel) Về mặt ngữ âm học (phonetics) nguyên âm (vowel) là âm được phát ra tiếng thanh, nghĩa là âm mà khi phát âm luồng hơi phát ra ngoài một cách tự do, có âm hưởng dễ nghe, êm ái. Nguyên âm có đặc trưng âm học với tần số xác định, ví dụ như âm [a] phân biệt với âm [e], âm [i]. Về mặt âm vị học (phonology) thì nguyên âm là đơn vị của hệ thống âm vị của ngôn ngữ. Nguyên âm có vai trò làm hạt nhân của âm tiết (syllable), ví dụ như trong từ một âm tiết “cat, but”. Cả hai âm bình diện ngữ âm học và âm vị học nguyên âm phân biệt với phụ âm (consonant). 2. Phân loại nguyên âm Nguyên âm có nhiều loại: - Nguyên âm đơn như: [a], [e], [e], [o], [u] - Nguyên âm đôi (dipthong) [ie], [uo] - Nguyên âm ba (triphthong) [ei], [ai]... Trong hệ thống ngữ âm của một ngôn ngữ vừa có bán nguyên âm vừa có phụ âm thì cũng có âm kết hợp giữa hai loại ấy. Đó là bán nguyên âm (semi-vowel) hay bán phụ âm (semi-consonant) –(Bán nguyên âm là các nguyên âm không làm đỉnh âm tiết, còn gọi là “phi âm tiết tính” do đó được phát âm lướt đi và thành một âm nửa xát) Nguyên âm và nói chung hệ thống nguyên âm của một ngôn ngữ có đặc điểm gì là do phụ thuộc vào đặc điểm cách phát âm và hệ thống ngữ âm-âm vị của ngôn ngữ đó quy định. Dưới đây ta sẽ xác định cơ sở đối chiếu và thực hiện đối chiếu hệ thống nguyên âm trong tiếng Việt với hệ thống nguyên âm trong tiếng Anh để thấy rõ những đặc điểm của chúng. 3. Cơ sở đối chiếu ngữ âm âm vị, cơ quan cấu âm (vocal apparatus) 3.1. Cơ quan cấu âm: Các âm của tiếng nói được phát ra nhờ cơ quan cấu âm bao gồm những bộ phận như hình dưới đây. Môi (lip) Yết hầu (pharynx) - môi trên (upper lip) Thanh quản (larynx) - môi dưới (lower lip) Ngạc cứng (hard palate) Răng (teeth) Ngạc mềm (soft palate) - răng trên (upper teeth) Lợi (alveolar ridge) - răng dưới (lower teeth) Lưỡi (tongue) - đầu lưỡi - mặt lưỡi - gốc lưỡi 3.2. Các bộ phận chính 8 1. Răng (teeth) gồm răng trên (upper teeth), răng dưới (lower teeth) chúng nằm ở mặt trước miệng. Khi phát âm lưỡi tiếp xúc với răng tạo ra nhiều âm, những âm này thường gọi là âm răng. 2. Lợi (alveolar ridge) đây là bộ phận giữa đỉnh răng và ngạc cứng. Có những âm phát được do lưỡi tiếp xúc với điểm này (đỉnh răng hoặc lợi) như [t] và [d] thường được gọi là phụ âm bật hơi. 3. Môi (lip) gồm môi trên (upper lip) và môi dưới (lower lip). Các bộ phận này giúp phát âm các âm như [b], [m], [f]... thường gọi là âm môi. 4. Lưỡi (tongue) là cơ quan có nhiều bộ phận tham gia phát âm như đầu lưỡi (tip), mặt lưỡi (blade), lưỡi trước (front), lưỡi sau (back), gốc lưỡi (root), tiểu thiệt, nắp đóng ở thanh quản (epiglottis). Những bộ phận này cũng tham gia cấu tạo nhiều âm mà có thể hình dung như sơ đồ sau: 5. Ngạc mềm (soft palace hoặc velum) là vị trí có thể cho không khí qua mũi và qua miệng. Bình thường nó ở vị trí thông thoáng, nhưng khi nói nó có thể nâng cao lên làm cho không khí thoát qua mũi. Nó cũng làm bộ phận có thể tiếp xúc với lưỡi. Chẳng hạn khi ta phát các âm [k],[g] là phụ âm ngạc. Ngạc mềm (soft palace) phân biệt với ngạc cứng (hard palace). Ngạc cứng là bộ phận cao trong khoang miệng. Đây là bộ phận đối diện mặt trên của lưỡi. 6. Yết hầu (pharynx) là một ống phía trên thanh quản. Đối với người Anh: nữ dài khoảng 7 cm, nam 8 cm; người Việt Nam có thể ngắn hơn. Đỉnh của nó chia ra hai phần, một phần ra sau lên khoang mũi (nasal cavity) phần khác dẫn vào khoang miệng (mouth cavity). Sáu bộ phận chính miêu tả trên là cơ quan chủ yếu tạo ra âm thanh lời nói của con người. Người bình thường, người Việt hay người Anh cũng dùng những bộ phận này để cấu âm (articulation) để phát ra các âm lời nói. Trong các bộ phận đó có 3 khoang quan trọng cần chú ý: - Khoang mũi dùng tạo ra âm mũi - Khoang miệng cũng có vai trò tạo ra âm thanh khi mở rộng, hẹp nhưng bản thân nó không làm thành một bộ phận tự tiếp xúc với bộ phận khác, tức bộ phận cấu âm. - Khoang thanh hầu (pharyngeal cavity) được xem như một bộ phận cấu âm độc lập hay tổ hợp tạo ra nhiều âm lời nói. 6. Cơ sở xác định nguyên âm về mặt ngữ âm học 4.1. Cơ sở của sự phân loại Để miêu tả nguyên âm cần xác định hộp cộng hưởng miệng (khoang miệng), cũng đồng thời xác định hộp cộng hưởng yết hầu (khoang yết hầu). Đây là nguồn gốc thay đổi âm sắc (timbre) của tiếng thanh (voice) do dây thanh tạo nên. Sự khác nhau giữa nguyên âm này với nguyên âm khác là sự khác biệt về âm sắc của cùng một tiếng thanh. Khái niệm âm sắc: âm thanh ngôn ngữ cũng như hầu hết các âm thanh tự nhiên đều là phức hợp của một âm trầm nhất (có tần số thấp nhất) - âm cơ bản và một loạt âm cao hơn (có tần số bằng bội số lần âm cơ bản) –hoạ âm. Âm sắc được tạo nên do mối tương phản giữa âm cơ bản và các hoạ âm về cao độ và cường độ. Tập hợp các âm này khi đi qua 9 các khoang ở phía trên thanh hầu sẽ chịu sự cộng hưởng. Như đã thấy trong hình 1, các khoang miệng và khoang yết hầu là nơi do sự hoạt động của lưỡi, của môi nên luôn có khả năng thay đổi hình dáng, thể tích, lối thoát của không khí; và vì vậy có khả năng cộng hưởng khác nhau. Mỗi lần thay đổi mối tương quan giữa âm cơ bản với các hoạ âm về cao độ và cường độ là một lần thay đổi âm sắc, là một lần ta có một nguyên âm khác. Sự khác nhau của các nguyên âm như vậy rốt cuộc là bị phụ thuộc vào các nhóm hoạ âm khác nhau do nhận được sự cộng hưởng khác nhau của các khoang trên thanh hầu. Mỗi nguyên âm có những đặc điểm riêng về mối tương quan giữa âm cơ bản với các hoạ âm tức là âm cơ bản với âm sắc. Khi phân tích các âm cần tìm cách xác định hộp cộng hưởng (khoang) miệng và cộng hưởng (khoang) yết hầu. Cụ thể hơn, người ta dựa vào độ mở của miệng, vị trí của lưỡi và hình dáng của môi để miêu tả nguyên âm. 4.2. Các tiêu chuẩn để phân loại nguyên âm Tiêu chuẩn 1: Độ nâng của lưỡi (độ mở của miêng)- lưỡi nâng cao hay thấp/miệng mở hay khép quyết định quan trọng đến thể tích hộp cộng hưởng. Căn cứ vào độ mở (độ nâng) khác nhau mà ta có các nguyên âm khác nhau. Nguyên âm rộng (hoặc cao) như [a], [e], nguyên âm hẹp (hoặc thấp) như [i], [u]. Tiêu chuẩn 2:Vị trí của lưỡi- lưỡi đặt trước, giữa hoặc sau cho ta biết hình dáng hộp cộng hưởng như thế nào. Tuỳ theo sự xê dịch, tức là phần trước lưỡi đưa lên ra phía trước hoặc phần sau lưỡi nâng lên lùi về phía sau, mà ta có nguyên âm khác nhau. Đó là phân biệt giữa nguyên âm trước như [i], [ê], [e]; nguyên âm sau như [u], [ô] hay [o]; nguyên âm giữa như [ư] trong “từ” hay [ ] trong “bird” tiếng Anh, “tơ” trong tiếng Việt. Tiêu chuẩn 3: Hình dáng của môi – môi tròn hay không tròn quyết định đến lối thoát của không khí của hộp cộng hưởng. Khi hai môi chúm tròn và nhô ra phía trước ta có nguyên âm với âm sắc trầm. Đó là những âm tròn môi như [u], [o]; ngược lại hai môi ở thế bình thường hoặc nhành ra khi phát âm thì ta có những nguyên âm không tròn môi như [a], [i], [e].... Cách miêu tả và tên gọi như trên là nêu những đặc trưng nguyên âm về mặt cấu âm, tức là về mặt sinh lý học. Khi so sánh các nguyên âm người ta cũng nêu lên những đặc trưng âm thanh của chúng, ví dụ như nguyên âm bổng, nguyên âm trầm, nguyên âm trung hoà. Đây là cách nêu đặc trưng nguyên âm xét về mặt âm học. Cách này không chú ý đến cách cấu âm mà chỉ tập trung vào hiệu quả của âm học để phân loại. Cách chú ý mặt đặc trưng âm học cũng có nhiều cái lợi. Có khi hai âm có cách cấu âm khác nhau mà đem lại hiệu quả âm học như nhau. Trong ngôn ngữ nào có sự phân biệt 3 loại âm sắc: bổng,trầm, và trung hoà thì chỉ cần nêu lên những đặc trưng ngữ âm là đủ. Trường hợp nếu 10 cần đi sâu tìm nguồn gốc âm sắc trung hoà thì mới tìm. Đó là nguyên âm sau nhưng không tròn môi, đó là nguyên âm trước nhưng tròn hay đó là nguyên âm giữa. Người ta nhận thấy nguyên âm sau bao giờ cũng có âm sắc trầm, nguyên âm trước bao giờ cũng có âm sắc bổng. Tính chất tròn môi làm cho nguyên âm kém trầm so với tròn môi, còn nguyên âm giữa bao giờ cũng kém bổng so với nguyên âm trước và kém trầm so với nguyên âm sau. Cũng như vậy hiệu quả của âm học là âm lượng lớn do độ mở của hàm rộng, độ nâng của lưỡi thấp, ngược lại là nguyên âm có âm lượng nhỏ. Trở lên ta mới nói về một số đặc trưng âm sắc để miêu tả nguyên âm. Sự phân biệt nguyên âm còn ở đặc điểm thời gian phát âm gọi là trường độ. Tiêu chí này dùng để phân biệt nguyên âm dài và nguyên âm ngắn. Sự phân biệt về âm sắc là về chất, sự phân biệt trường độ là về lượng. Nó cũng rất quan trọng giúp ta miêu tả hệ thống ngữ âm, chẳng hạ “bit” (i ngắn), “beat” (i dài) trong tiếng Anh. Đây cũng là cơ sở không thể bỏ qua khi phân tích miêu tả, đối chiếu. 6.3. Sự phân loại các nguyên âm Theo tiêu chuẩn 1 các nguyên âm được chia thành 4 nhóm: Nhóm 1: nhóm nguyên âm thấp/mở khi miệng mở rộng, lưỡi hạ thấp như: /a/ trong “ma, ba” /ε/ trong “me, be” trong tiếng Việt /ổ/ trong “bat, man” / / trong “hot, gone” trong tiếng Anh Nhóm 2-3: nhóm nguyên âm thấp vừa (cao vừa) hay mở vừa (khép vừa) khi miệng mở rộng vừa, lưỡi hạ thấp vừa như: /e/ trong “bê, mê” /o/ trong “bô, mô” trong tiếng Việt /e/ trong “bet, yes” /3:/ trong “bird, purse” trong tiếng Anh Nhóm 3: Nhóm nguyên âm cao/hay khép khi miệng khép, lưỡi nâng cao như: /i/ trong “mi, bi” /u/ trong “bu, mu” / / trong “sư tử” /i:/ trong” “beat, mean” /u:/ trong “food, soon” - Theo tiêu chuẩn 2 các nguyên âm được chia thành 3 nhóm: Nhóm 1: lưỡi đặt phía trước cho ta nhóm nguyên âm hàng trước như: /i, e, ε/ trong tiếng Việt và /i, e, ổ/ trong tiếng Anh Nhóm 2: lưỡi đặt ở giữa cho ta nhóm nguyên âm hàng giữa như: “ы” trong tiếng Nga /Λ/ /3:/ trong tiếng Anh / , , / trong tiếng Việt. Nhóm 3: lưỡi đặt ở phía sau cho ta nhóm nguyên âm hàng sau như: /u,o,‫כ‬/ trong tiếng Việt hay /υ:, ‫כ‬:, / trong tiếng Anh. - Theo tiêu chuẩn 3 các nguyên âm được chia thành 2 nhóm: Nhóm 1:nhóm nguyên âm tròn môi (khi phát âm phải tròn môi) /u,o,‫כ‬/ trong tiếng Việt /υ:,o,‫כ‬:, / trong tiếng Anh Nhóm 2: nhóm nguyên âm không tròn môi (khi phát âm không tròn môi) 11 /i, e,ε, , , / trong tiếng Việt /i,e, ổ, Λ / trong tiếng Anh. Trên thực tế, việc phân loại các nguyên âm phải dựa đồng thời vào cả ba tiêu chí trên và nếu cần phải dùng đến cả các tiêu chí phụ. 7. Cơ sở xác định các âm về mặt âm vị học Âm vị là đơn vị có chức năng khu biệt nhỏ nhất của mặt biểu đạt của ngôn ngữ. Nó là đơn vị trừu tượng được ghi thành chữ viết. Phần trên chúng ta đã nêu một số đặc điểm cấu âm-âm học như vô thanh, hữu thanh, âm sắc, hoạ âm, tròn môi, không tròn môi, dài, ngắn... Những đặc trưng này ngôn ngữ nào cũng có. Song trong mỗi ngôn ngữ, mỗi cộng đồng xã hội thì đặc trưng đó được dùng như thế nào để biểu hiện nghĩa, để khu biệt nghĩa. Chẳng hạn hai từ “ta” và “to” đều có nghĩa thì chúng khác nhau là do [a] và [o] vì [t] chỉ là một. Cái đặc điểm khác nhau giữa [a] và [o] để cho từ “ta” khác với từ “to” trong tiếng Việt là có giá trị ngôn ngữ học, tức là có chức năng khu biệt xã hội; cũng như vậy nét phân biệt âm dài/ngắn của [i] trong “bit” và [i:] trong “beat” và có giá trị phân biệt nghĩa trong tiếng Anh. Cái đặc trưng có giá trị khu biệt (ta/to; bit/beat) ở trên gọi là sự khu biệt âm vị học. Sự khu biệt đó gồm có một nét (dài/ngắn) hoặc nhiều nét (hơi khép, hàng sau đối với [o] so sánh với [a] Việt) gọi là nét khu biệt âm vị, và nét có giá trị khu biệt đó được gọi là nét đặc trưng thoả đáng âm vị học. 5.1. Nói đến sự khu biệt âm vị học, nét khu biệt âm vị học là nói về mặt xã hội do từng cộng đồng ngôn ngữ quy định. Mặt cấu âm-âm học (mặt tự nhiên) của ngữ âm do con người phát ra ngôn ngữ nào cũng có, còn cái nào trong mặt tự nhiên đó được dùng vào để biểu nghĩa, để phân biệt đơn vị có nghĩa (từ, hình vị) là mặt xã hội lại do từng ngôn ngữ quy định và có tính quy luật. Cái đặc trưng ngữ âm nào đó được coi là nét khu biệt là có tính quy ước, tính xã hội. Cho nên việc có mặt hay vắng mặt một số nét nào đó trong cấu tạo âm thanh sẽ quyết định sự khu biệt hình thức biểu đạt đơn vị có nghĩa khác nhau. Ví dụ như sự phân biệt âm [a] và [o] trong tiếng Việt và [i] và [i:] trong tiếng Anh dẫn trên cho thấy mỗi âm có thể khác nhau một nét hoặc vài nét khu biệt. Vậy cũng có nghĩa là: âm vị là đơn vị được tổ hợp từ một số nét khu biệt. Như vậy có thể hiểu hình thức biểu đạt bằng âm thanh của từ hay hình vị được phân biệt nhờ âm vị, còn bản thân âm vị lại được nhận diện nhờ những nét khu biệt. Nghiên cứu, phân tích hệ thống âm vị của một ngôn ngữ chính là phát hiện cho ra những nét khu biệt đã được sử dụng trong ngôn ngữ đó. Tổng hợp những nét đó ở từng âm vị để xác định âm vị, rồi hệ thống âm vị của các ngôn ngữ là công việc của âm vị học miêu tả. 5.2. Âm vị có tính chất trừu tượng còn âm tố (sound) có tính chất cụ thể vì nó bao gồm cả những nét khu biệt lẫn nét không khu biệt. Âm vị là đơn vị của hệ thống ngôn ngữ còn âm tố là đơn vị âm thanh nhỏ nhất của lời nói. Âm tố có thể tách ra về mặt cấu âm và thường tương ứng với âm vị. Nói đến âm vị là nói đến chức năng khu biệt có tính xã hội. Trong phân 12 tích nguyên âm nhiều trường hợp 2 hoặc 3 âm tốđi liền nhau có chức năng phân biệt như một âm vị. Đó là các nguyên âm đôi (dipthongs), nguyên âm ba (triphthongs), đây là trường hợp hai, hoặc ba âm tố mới ứng với một âm vị. Nguyên âm đôi hoặc nguyên âm ba cũng cần phân biệt mặt âm vị học và mặt ngữ âm học, tức là có nguyên âm đôi, ba ngữ âm học. Nói đến âm vị là nói đến đặc điểm ngữ âm của ngôn ngữ cụ thể. Chẳng hạn như hiện tượng nguyên âm đôi, chỉ có trong tiếng Việt, tiếng Anh mà lại không có trong tiếng Pháp, hoặc là nguyên âm ba chỉ có ở tiếng Anh mà tiếng Việt, theo các giả t huyết âm vị hoặc hiện thời, lại không có loại nguyên âm này. 5.3. Âm vị bao giờ cũng hiện thực hoá bằng âm tố cụ thể. Âm tố là những âm phát ra và được cảm thụ bằng thính giác. Bất kì âm nào được dùng trong lời nói đều là âm tố. Có một số âm tố thể hiện âm vị này, lại có một số âm tố thể hiện âm vị khác. Nói cách khác, khi nghe một số âm nào đó người ta tri nhận chúng là sự thể hiện của một âm vị này, khi nghe một số âm khác người ta tri nhận chúng là sự thể hiện của âm vị khác. Tất cả những âm tố cùng thể hiện một âm vị là biến thể âm vị. Khi đối chiếu phân tích, ta chú ý trước hết ở âm vị (bất biến thể) rồi mới đến biến thể. 6. Hình thang nguyên âm chuẩn (cardinal vowel) Các nguyên âm chuẩn có thể được hình dung khái quát trên hình thang nguyên âm sau: - ba vạch đứng biểu thị ba hàng nguyên âm: trước, giữa, sau - bên trái mỗi vạch đứng ghi kí hiệu các nguyên âm không tròn môi; bên phải mỗi vạch đứng ghi kí hiệu các nguyên âm tròn môi. - Theo chiều cao của vạch thẳng đứng từ trên xuống người ta thường chia ra làm 4 bậc, 4 bậc ấy tương ứng với 4 khả năng thay đổi độ nâng của lưỡi và các nguyên âm được ghi tuỳ thuộc vào những mức độ nâng lên của lưỡi mà vị trí của nó được thể hiện trên 4 vạch ngang đó. Trước/đóng (front/ close) i Giữa (central) Sau (back) 8u 1 Half close e (Nửa đóng) Half open ε (nửa mở) 2 7o 3 6 4 5a Mở (open) a Hình 3 Đi vào chi tiết một số nguyên âm trên hình thang ta thấy: 13 - nguyên âm chuẩn (1) ký hiệu /i/ là nguyên âm hàng trước, đóng (close) đến mức cao nhất chỉ đủ mức cho không khí vừa phát ra âm thanh - nguyên âm chuẩn (5) /a/ hàng sau lại mở (open) cao nhất khi phát âm. - nguyên âm chuẩn (8) /u/ dòng sau lại đóng cao nhất - nguyên âm (4) /a/ là hàng trước và mở cao nhất. Từ 4 nguyên âm ở 4 cực (đỉnh) (1), (4), (5), (8) ta dễ dàng xác định được các nguyên âm chuẩn, những điểm còn lại như nguyên âm chuẩn, những điểm còn lại như nguyên âm chuẩn số (2),(3), (6), (7); đồng thời với các nguyên âm chuẩn này khi được lấy làm căn cứ, ta có thể dễ dàng xác định, mô tả, phân loại nguyên âm trong ngôn ngữ cụ thể. Ví dụ với nguyên âm chuẩn (1) /i/ ta biết âm /i:/ trong “see” hoặc với âm /a/ số (4) ta xác định được nguyên âm / ổ / trong “cat” tiếng Anh và /i:/ , / ổ / được xem là những nguyên âm thứ cấp. Việc miêu tả phân loại nguyên âm cũng còn căn cứ vào vị trí của lưỡi, hình dáng của môi khi nó tương ứng với hàng trước hay hàng sau. Chẳng hạn như phẩm chất tròn môi hàng sau của âm hoặc dẹt môi hàng trước của nguyên âm. Có thể nói hình dáng của môi, vị trí của lưỡi là có nhiều nét khác nhau ở các vị trí khác nhau. Chúng ta cần chú ý chỉ ở 3 khả năng sau để dễ miêu tả: - Nguyên âm tròn môi, hai môi chụm tròn đưa ra, trước rồi lùi lại sau, điển hình như âm chuẩn (8) /u/. - Nguyên âm dẹt, xoè môi ra, hai môi di động giống như khi cười, điển hình như âm chuẩn (1) /i/. - Nguyên âm trung hoà, âm này môi không hẳn tròn cũng không hẳn dẹt. Từ những cơ sở, tiêu chí, nguyên tắc trên ta sẽ tiến hành đối chiếu nguyên âm Việt-Anh tiếp sau. II. Đối chiếu nguyên âm Việt-Anh 1. Đối chiếu nguyên âm Việt-Anh về số lượng 1.1. Nguyên âm tiếng Việt Khi nghiên cứu hệ thống nguyên âm Việt hầu hết các tác giả cho rằng nguyên âm trong tiếng Việt có vai trò quan trọng trong cấu tạo âm tiết-cáiđơn vị phát âm được xem là nhỏ nhất. Nói cách khác tiếng Việt âm tiết (syllable) chỉ xảy ra ở âm đoạn nguyên âm mà thôi. Vì vậy trong tiếng Việt nguyên âm được coi là âm chính, tức là âm đảm nhận thành phần chính của âm tiết tiếng Việt. Theo giáo trình “Ngữ âm tiếng Việt” của G.S. Đoàn Thiện Thuật, tiếng Việt có 16 nguyên âm gồm 13 nguyên âm đơn (trong đó có 9 nguyên âm dài và 4 nguyên âm ngắn), 3 nguyên âm đôi: - 9 nguyên âm dài /i/ - “i,y” /e/ -“ê” /ε/-“e” / /-“ư” / / - “ơ” 14 /a/-“a” /u/-“u” - 4 nguyên âm ngắn - 3 nguyên âm đôi: /ie/-“ie,ia,yee,ya” /o/-“ô, ôô” /‫כ‬/-“o,oo” / ∂/-“ươ, ưa” /uo/-“uơ,ua” Trong hệ thống ngữ âm của một ngôn ngữ vừa có bán nguyên âm vừa có phụ âm thì cũng có âm kết hợp giữa hai loại ấy. Trong tiếng Việt có 2 hệ thống bán nguyên âm khác nhau về chức năng trong cấu tạo âm tiết: bán nguyên âm làm âm đệm (có vị trí sau âm đầu và trước âm chính) và bán nguyên âm cuối làm âm cuối (có vị trí cuối âm tiết có chức năng kết thúc âm tiết) Hai bán nguyên âm làm âm đệm: /-u-/: [trầm, vang, môi] và [-Ф-]>< [-u-] về chức năng-giữ nguyên âm sắc của âm tiết Hai bán nguyên âm cuối /-i-/: [bổng, vang, lưỡi] và /-u-/ [môi, làm trầm hoá âm tiết] 1.2. Nguyên âm tiếng Anh Nguyên âm trong tiếng Anh có nhiều điểm khác nhau. Theo kết quả phân lập của Peter Roach trong “English phonetics and Phonology”, tiếng Anh có 25 nguyên âm trong đó có: - 12 nguyên âm đơn: /i:/-“see” /I/-“his” /e/-“ten” /∂/-“letter” /a:/-“father” /u:/-“you” /‫כ‬:/-“morning” /ổ/-“stamp” /Λ/-“sun” /з:/-“learn” / / / /. - 8 nguyên âm đôi: /ei/ “name” /ai/ “my” /au/ “hour” /∂u/”no” /u∂/”tour” /‫כ‬i/ “boy” /i∂/”hear” /e∂/”where” - Nguyên âm ba (triphthong): 5 nguyên âm: /ei/ “layer” /ai/ “fire” /‫כ‬i∂/ “royal” /∂u∂/ “lower” /au∂/ “power” Bảng nguyên âm Việt-Anh 16 13 nguyên âm đơn 9 NA dài i e Nguyên âm Việt u o a 4 NA ngắn 3 nguyên âm đôi ie 24 a uo 12 NA đơn 5 NA dài Nguyên âm Anh 7 NA ngắn 15 8 NA đôi 5 NA ba 2. Đối chiếu nguyên âm Việt-Anh về đặc điểm Nguyên âm và nói chung hệ thống nguyên âm của một ngôn ngữ có đặc điểm gì là do phụ thuộc vào đặc điểm cách phát âm và hệ thống ngữ âm-âm vị của ngôn ngữ đó quy định. Dưới đây ta sẽ xác định cơ sở đối chiếu và thực hiện đối chiếu hệ thống nguyên âm trong tiếng Việt với hệ thống nguyên âm trong tiếng Anh để thấy rõ những đặc điểm của chúng. Tiêu chí để xác lập và phân loại nguyên âm chủ yếu là âm sắc. Thường thường âm sắc phân biệt nhau ở độ trầm bổng và tính cố định hay biến đổi âm sắc. 2.1. Độ trầm bổng Độ trầm/bổng thường chia làm hai khả năng: - Bổng phân biệt với trầm kèm theo một đặc trưng nào đó. - Bổng phân biệt với trầm mà âm sắc được giữ nguyên từ đầu đến cuối. Việc phân chia các âm theo tiêu chí bổng/trầm đồng thời cũng trùng hợp với việc phân biệt hàng trước/hàng sau và hình dáng của môi-tròn môi/không tròn môi khi phát âm nguyên âm. Về mức độ của trầm thì chia ra trầm phân biệt với trầm vừa, tức có nghĩa là nguyên âm sau không tròn môi. 2.1.1. Nguyên âm tiếng Việt Theo cách phân chia vừa nêu, nguyên âm đơn (vowel) tiếng Việt được chia ra làm 3 âm sắc: bổng/trầm/trầm vừa âm sắc nguyên âm bổng i,e, ε, ε trầm vừa trầm u,o, ‫כ‬,‫כ‬ Những nguyên âm trên có thể biểu diễn theo vị trí trên tam giác nguyên âm: Hàng trước i bổng Hàng giữa trầm vừa e u Hàng sau trầm o ε 16 a Hình 4 (trang 83) 2.1.2. Nguyên âm tiếng Anh Số lượng nguyên âm dài trong tiếng Anh nhiều hơn trong tiếng Việt. Nguyên âm tiếng Anh phân chia theo 3 âm sắc là Trang 84-phần a Những nguyên âm trên có thể biểu diễn theo vị trí trên tam giác nguyên âm: Hình 5 (trang 84) 2.2. Tính cố định và biến đổi âm sắc trang 84-phần b Nguyên âm tiếng Việt cũng như tiếng Anh có một số âm cố định âm sắc, một số khác biến đổi âm sắc. Những âm cố định âm sắc như sau: Việt Anh i ш u i u e o e ổ Λ Những nguyên âm không cố định âm sắc, tức là âm sắc có biến đổi từ lúc xuất phát đến lúc kết thúc. Những âm này như tạo thành từ hai yếu tố gắn liền nhau, không bao giờ tách khỏi nhau, ta gọi là âm đôi (diphthongs): Tiếng Việt ie u uo Ví dụ Việt, miến trường, thương luôn, muốn Tiếng Anh ie, e , ei, ai, a, i Ví dụ (eye:i), fierce aired, pain, face... xem thêm dưới Hình 6-trang 85 Nguyên âm đôi tiếng Anh trung tâm (centring) kết thúc (closing) 17 kết thúc ending in kết thúc i ending in kết thúc ending in Khi phát âm các nguyên âm đôi này thường có điểm xuất phát và điểm kết thúc. Trong số 8 nguyên âm đôi kể trên có thể tóm lược lại trong sơ đồ hình thang và hướng xuất phát-kết thúc như sau: tour, moored fierce, beard cairn aired, scarce loin, voice load pain, face, paid home, most, load tide loud time, ice gown ,house Sự phân bố theo âm lượng và âm sắc nguyên âm hai ngôn ngữ có thể tổng hợp thành bảng sau: Âm sắc Âm lượng Nhỏ Việt Anh Vừa Việt Anh Việt Lớn Anh Cố định bổng trung hoà trầm Không cố định bổng trung hoà trầm 3. Miêu tả đối chiếu một số âm cụ thể Để dễ vận dụng xin dẫn một số ví dụ minh hoạ trong hai ngôn ngữ Việt-Anh Việt...................................nguyên âm đơn.........................Anh. /i/ tin, ý kiến, suy nghĩ /i/ bit, fish, pin /ω/ ưng, mừng, tưng bừng, /i:/ mean, peace dừng 18 /u/ tung, hung, du, bún /e/ mệt, tên, mê, hên / / mơ, lớn, hơn, sơn / / tân, cần, thân /o/ tô, cô, một, công cộng / / anh ách, sách, xanh /ă/ ay, rau đay, au / / ong óc, tóc,vòng /ε/ em, thèm, xem, đem, đẹp /‫כ‬/ xoo, mooc, tooc /a/ ta, mang, lan man /u/ pull, put, push /u:/ food, soon, loose /e/ men, bed, yes /З / fern, purse, bird /‫כ‬:/ board, horse, torn / ∂/ letter /ổ/ man, gas, bat /Λ/ but, some, such /a:/ card, half, pass /‫כ‬/ pot, gone, cross Nguyên âm đôi /ie/ hiền, miền, tiên, kiên /i∂/ fierce, beard, hear /ω∂/ hươu, hương, hướng, dương, /ei/ name phương, tương /∂u/ no, home, most, load /uo/ uống thuốc, lúa úa /ai/ nice, time, my /au/ gown, house, how, loud /‫כ‬i/boy, voice /e∂/ where /u∂/ tour Nguyên âm ba tiếng Anh /ei∂/ layer, player /ai∂/ liar, fire /‫כ‬i∂/ loyal, royal /∂u∂/ mover, lower /au∂/ power, hour Trên đây đã cung cấp toàn cảnh nguyên âm tiếng Việt và tiếng Anh, trong đó một mặt so sánh chúng với âm chuẩn (cardinal vowel), mặt khác là âm tương ứng và không tương ứng Việt-Anh về số lượng âm dùng ở hai ngôn ngữ. Sơ đồ (hình 6) cũng cho chúng ta cách phát âm đôi trong tiếng Anh. Có điều chú ý là việc phát âm các âm đôi này thường hay mắc lỗi “nhấn giọng ngoại lai”. Đó là khi phát âm đôi (diphthongs) thường hay nhấn vào âm thứ nhất (âm thuần –pure vowel) khởi phát. Mặt khác cũng hay lẫn lộn khi phát âm âm đôi với nguyên âm dài (long vowels). Đối với phát âm các nguyên âm Việt thì chú ý phân biệt âm đệm với chính âm và trong âm đôi yếu tố đầu cũng được nhấn mạnh hơn. Đây là điểm khác Việt-Anh cần chú ý. Chúng ta hãy đối chiếu một số nguyên âm cụ thể, chủ yếu là nguyên âm đơn (ngắn và dài). Sự thực việc đối chiếu ở đây cũng chưa đạt độ chính xác cao bởi vì kết quả phân tích chưa được tiến hành tương ứng hoàn toàn cùng tác giả. Bức tranh chung của các âm được đối chiếu có thể hình dung bằng sơ đồ sau (Hình 8). Trong sơ đồ này biểu diễn các 19 nguyên âm theo hai hình lồng nhau: nguyên âm Việt trên tam giác, nguyên âm Anh thể hiện ở hình thang. Các nguyên âm Anh được định vị theo vị trí chính xác trên hình thang nguyên âm. 4. Nguyên âm và sự thể hiện bằng chữ viết trong tiếng Việt- tiếng Anh 4.1. Nguyên âm tiếng Việt Bảng đối chiếu các âm vị nguyên âm với chữ cái /i/ - “i,y” / / - “ư” Nguyên âm Chữ viết và đặc điểm âm tiết /i/ -“y khi âm đầu là / /, âm đệm và âm cuối là những đơn vị zero và khi xuất hiện sau âm đệm /w/ - “i:” trong các trường hợp còn lại. Nhiều trường hợp có thể không phân biệt “i/y” /o/ - có hai biến thể dài ngắn khi phân bố trước / , k/ + thể dài ghi bằng “ôô” + thể ngắn ghi bằng “ô” - các trường hợp khác ghi là “ô” / / - “oo” khi đi trước / ,k/ Ví dụ ý kiến và suy, nguỵ + bôông + bông - ô tô, tôm, chôm, chôm - xoong, mooc, loong 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan