Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu xây dựng mô hình chuyển giao công nghệtrong các doanh nghiệp công ngh...

Tài liệu Nghiên cứu xây dựng mô hình chuyển giao công nghệtrong các doanh nghiệp công nghiệp

.PDF
77
92
57

Mô tả:

BAN CHỦ NHIỆM CHƯƠNG TRÌNH KỸ THUẬT-KINH TẾ VỀ TỰ ĐỘNG HÓA VÀ CÔNG NGHỆ VẬT LIỆU BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG MÔ HÌNH CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP 8171 Hà Nội, 2010 BAN CHỦ NHIỆM CHƯƠNG TRÌNH KỸ THUẬT-KINH TẾ VỀ TỰ ĐỘNG HÓA VÀ CÔNG NGHỆ VẬT LIỆU BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG MÔ HÌNH CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP Chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Văn Tân Cơ quan quản lý: Bộ Công Thương Cơ quan chủ trì đề tài: Văn phòng Chương trình Kỹ thuật-Kinh tế về Tự động hóa và Công nghệ vật liệu Người thực hiện: TS. Nguyễn Văn Tân Ths. Bùi Minh Sơn Ths. Phạm Quốc Anh Hà Nội, 2010 MỤC LỤC CH¦¥NG 1.......................................................................................................1 ĐẶT VẤN ĐỀ .............................................................................................1 1.1. Khái quát chung ...................................................................................1 1.2. Mục tiêu, nội dung nghiên cứu ...........................................................3 1.2.1. Mục tiêu của đề tài .....................................................................4 1.2.2. Nội dung nghiên cứu..................................................................4 CH¦¥NG 2.......................................................................................................5 HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM.............................................................................5 2.1. KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM ..........................................................5 2.2. HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ CÔNG NGHIỆP TRONG LĨNH VỰC QUỐC PHÒNG, AN NINH..............................6 2.2.1. Trong lĩnh vực Quốc phòng .......................................................6 2.2.2. Trong lĩnh vực an ninh (Công an nhân dân) ............................12 2.3. HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ CÔNG NGHIỆP TRONG CÁC THÀNH PHẦN DOANH NGHIỆP ..........................15 2.3.1. Doanh nghiệp tư nhân và Cổ phần nhà nước không chi phối...........................................................................................15 2.3.2. Doanh nghiệp Nhà nước và Cổ phần nhà nước chi phối .........19 2.3.3. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài .................................21 CH¦¥NG 3.....................................................................................................27 TỔNG HỢP KINH NGHIỆM CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ CÔNG NGHIỆP CỦA CÁC NƯỚC ......................................................27 3.1. TỔNG HỢP KINH NGHIỆM CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ CÔNG NGHIỆP CỦA TRUNG QUỐC ............................................27 3.1.1. Các chương trình KH&CN tại Trung Quốc.............................27 3.1.2. Kinh nghiệm ươm tạo doanh nghiệp của Trung Quốc ............37 3.2. TỔNG HỢP KINH NGHIỆM CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ CÔNG NGHIỆP CỦA THÁI LAN ...................................................40 3.2.1. Chuyển giao công nghệ ở Thái Lan .........................................40 3.2.2. Kinh nghiệm chuyển giao công nghệ trong ngành chế tạo Thái Lan .............................................................................42 3.3. TỔNG HỢP KINH NGHIỆM CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ CÔNG NGHIỆP CỦA HÀN QUỐC .................................................48 i 3.3.1. Tình hình nhập công nghệ ở Hàn Quốc và hoạt động chuyển giao công nghệ (tập trung vào các thập kỷ 70, 80 và 90)...................................................................................48 3.3.2. Nội dung và những đặc điểm du nhập công nghệ ở Hàn Quốc .........................................................................................51 3.3.3. Các chương trình phát triển KH&CN trọng điểm ...................54 CH¦¥NG 4.....................................................................................................59 ĐỀ XUẤT MÔ HÌNH HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ CÔNG NGHIỆP CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 20102020 ............................................................................................................59 4.1. Định hướng hoạt động CGCN giai đoạn 2010-2020 .........................59 4.2. Đề xuất mô hình CGCN.....................................................................61 4.2.1. Mô hình 1 đối với các doanh nghiệp nhà nước........................61 4.2.2. Mô hình 2 đối với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài nhà nước ....................................................64 CH¦¥NG 5.....................................................................................................67 GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY CGCN VÀ KIẾN NGHỊ ................67 5.1. Giải pháp nhằm thúc đẩy CGCN .......................................................67 5.2. Kiến nghị một số giải pháp chính sách. .............................................68 TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................72 ii CHƯƠNG 1 ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1. Khái quát chung Cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, khoảng từ giữa thế kỷ XX, dựa trên những tri thức sáng tạo, đi sâu vào thế giới vĩ mô và thế giới vi mô đã dẫn tới sự phát minh ra một thế hệ máy móc hoàn toàn mới, gọi là máy móc thông minh. Điển hình là máy điện toán mô phỏng được những chức năng chủ yếu của não người như biết nhớ, biết tính toán kể cả các bài toán rất phức tạp, biết thực hiện các lệnh, biết tư vấn cho người dùng trong một số việc..., đóng vai trò chính trong các hệ tự động hóa toàn phần của sản xuất và trong các mạng thông tin toàn cầu. Máy móc thông minh kết hợp với tri thức sáng tạo trở thành nguồn lực của các công nghệ cao như công nghệ thông tin và truyền thông, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu tiên tiến - nano..., trong đó công nghệ thông tin và truyền thông giữ vai trò chủ đạo và hệ thống công nghệ cao là cốt lõi của lực lượng sản xuất mới. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất mới đã thúc đẩy hình thành nền kinh tế tri thức trong nửa sau của thế kỷ XX. Đó là một nền kinh tế trong đó việc sáng tạo tri thức, sự lan truyền và quảng bá nhanh tri thức đưa vào ứng dụng là động lực chủ yếu của tăng trưởng kinh tế, tạo ra của cải, tạo ra việc làm cho tất cả các ngành kinh tế. Nhà kinh tế học P.F.Durker gọi đó là nền kinh tế tri thức và tên gọi này hiện nay đã trở thành phổ biến với việc sử dụng chính thức của Ngân hàng thế giới. Trong nền kinh tế mới, kinh tế tri thức sản xuất chủ yếu dựa vào nguồn lực tri thức. Tài nguyên và vốn dù quan trọng vẫn chỉ giữ vai trò thứ yếu. Trong bối cảnh toàn cầu hóa thế giới, một số nước đang phát triển, tuy chưa có công nghiệp hiện đại, công nghệ cao nhưng biết chủ động hội nhập kinh tế, tranh thủ tiếp thu công nghệ cao trên cơ sở nguồn nhân lực thích hợp, thì vẫn có thể bước đầu phát triển kinh tế tri thức. Nước ta, tuy còn ở trong nền kinh tế nông nghiệp và là nước đang phát triển thu nhập thấp, nhưng biết phát huy đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ có năng lực tiếp thu và ứng dụng các công nghệ cao, qua chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, vẫn có thể có cơ hội rút ngắn thời gian để tiến nhanh hơn. Muốn vậy, phải đồng thời tiếp thu công nghệ cao của phát triển kinh tế tri thức và vận dụng ngay vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong các lĩnh vực cần thiết. Ví dụ phát triển các phần mềm hệ điều hành máy với sự điều 1 chỉnh hợp lý, có thể ứng dụng vào các máy trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thực tế cho thấy khi chúng ta phát triển công nghệ thông tin và truyền thông, internet, mạng viễn thông kỹ thuật số, điện thoại di động..., tức là phát triển một số bộ phận của kinh tế tri thức thì mặc nhiên thúc đẩy hiện đại hóa ở trình độ cao, nhiều lĩnh vực của công nghiệp, xây dựng, nông nghiệp và dịch vụ. Do đó việc kết hợp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức vừa là cơ hội, vừa là yêu cầu trong đổi mới. Sau 20 năm đổi mới, thế và lực của đất nước ta đã mạnh hơn nhiều, tuy "từng bước phát triển" nhưng một số thành phần của kinh tế tri thức như công nghệ thông tin, internet, điện thoại di động... trong giai đoạn 2001 - 2005 đã phát triển khá nhanh. Nhiều nước phát triển như Trung Quốc, Hàn Quốc, Phần Lan, Ấn Độ... biết kết hợp phát triển kinh tế tri thức đều đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao. Do đó, tranh thủ thời cơ mà bối cảnh quốc tế tạo ra, kết hợp nội lực với các thuận lợi bước đầu về phát triển kinh tế tri thức. Đảng ta đã đề ra đường lối: "Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức". Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ: Tranh thủ thời cơ thuận lợi do bối cảnh Quốc tế tạo ra và tiềm năng là lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức, kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại. Như vậy, lý luận và thực tiễn là căn cứ vững chắc để xây dựng đường lối đúng đắn, tranh thủ thời cơ, rút ngắn thời gian công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Theo kinh nghiệm của nhiều nước, phát triển kinh tế tri thức phải tập trung nguồn lực vào bốn hướng chính sau đây: Thứ nhất: Nhà nước phải xây dựng thể chế xã hội và chính sách kinh tế năng động, rộng mở, khuyến khích sáng tạo và ứng dụng có hiệu quả những tri thức mới. Cần có chính sách tốt thúc đẩy kinh doanh tạo điều kiện cho doanh nghiệp mới phát triển. Phải tạo dựng một nền hành chính có hiệu quả, tránh phiền hà, tham nhũng, giảm thiểu các chi phí, thủ tục hành chính, góp phần tăng sức cạnh tranh. Thứ hai: Đào tạo nguồn nhân lực tài năng sáng tạo, biết phối hợp và chia sẻ ứng dụng những thông tin, tri thức thành sản phẩm có sức cạnh tranh cao. 2 Thứ ba: Xây dựng một hệ thống đổi mới hiệu quả bao gồm: các doanh nghiệp, các trung tâm nghiên cứu, các trường đại học, các tổ chức tư vấn và các tổ chức khác liên kết, trao đổi thông tin, tri thức với nhau theo những mục tiêu đã xác định. Họ phải thường xuyên tiếp cận các kho thông tin, tri thức của thế giới được liên tục chất đầy, để tích cực "tiêu hóa" chúng và thích nghi hóa cho các nhu cầu của mình và từ đó sáng tạo ra công nghệ cao mới. Thứ tư : Tích cực xây dựng kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông, đẩy mạnh ứng dụng và phát triển ngành công nghệ cao dẫn đầu này. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc đánh giá, phổ biến và sáng tạo tri thức. Bốn hướng trên đây thường được xem như bốn trụ cột xây dựng kinh tế tri thức mà lãnh đạo Nhà nước phải chỉ đạo mới có thể thành công. Căn cứ vào các chỉ số đánh giá về mức phát triển kinh tế tri thức của Ngân hàng thế giới, nếu so sánh nước ta với nhóm các nước công nghiệp phát triển cao (OECD) thì nước ta có một số ít các chỉ số đạt mức khá như tăng trưởng GDP hằng năm, chỉ số phát triển con người (HDI), đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI)... Nhưng nhìn chung vẫn còn nhiều chỉ số thấp kém so với nhiều nước trên thế giới và khu vực, đó là chỉ số phát triển nguồn nhân lực, chỉ số phát triển và đổi mới công nghệ, ứng dụng công nghệ cao, sức cạnh tranh, chỉ số phát triển công nghệ thông tin và truyền thông... Để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, vấn đề quan trọng hàng đầu là: Chúng ta phải chủ động phát huy năng lực sáng tạo tri thức ở trong nước, đồng thời phải biết tranh thủ cơ hội tiếp thu tri thức của thế giới toàn cầu hóa. Thực vậy, trong điều kiện chưa có đủ nguồn lực để phát triển kinh tế tri thức lên ngay trình độ cao, ta phải coi trọng chủ động hội nhập kinh tế Quốc tế nhằm đẩy mạnh hợp tác về công nghệ cao trong nhiều lĩnh vực, trên cơ sở cùng có lợi. Qua hội nhập và hợp tác cùng với việc gửi đi học tập nâng cao trình độ ở nước ngoài cho các chuyên gia Việt Nam từng bước trưởng thành, có thể chủ động trong ứng dụng các công nghệ cao và tiến tới sáng tạo tri thức mới rất cần thiết cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở trình độ cao. Nhiều ví dụ trong công nghiệp điện tử, trong thiết lập mạng viễn thông quốc gia, trong công nghiệp chế biến nông sản phẩm, trong chế tạo trang thiết bị cơ - điện tử,... đã cho thấy kết quả tốt và đạt bước tiến nhanh rõ rệt. 1.2. Mục tiêu, nội dung nghiên cứu Trước thực trạng và yêu cầu bức thiết về hiệu quả chuyển giao công nghệ tại Việt Nam, đề tài “Nghiên cứu xây dựng mô hình chuyển giao công nghệ trong các doanh nghiệp công nghiệp” đặt ra mục tiêu và nội dung như sau: 3 1.2.1. Mục tiêu của đề tài a) Mục tiêu chung của đề tài: Đánh giá đúng và thực chất kết quả hoạt động chuyển giao công nghệ của các doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp từ trước tới nay. Trên cơ sở Luật “Chuyển giao Công nghệ” và các văn bản pháp luật hiện hành có liên quan để ra những giải pháp và đề xuất mô hình chuyển giao công nghệ trong các doanh nghiệp công nghiệp giai đoạn 2010-2020. b) Mục tiêu kinh tế xã hội: Trong tình trạng suy giảm kinh tế toàn cầu hiện nay, việc đề xuất mô hình chuyển giao công nghệ và hỗ trợ đầu tư cho các doanh nghiệp công nghiệp trên cơ sở khoa học công nghệ sẽ giải quyết nhanh nhất các kết quả nghiên cứu vào sản xuất công nghiệp. Các sản phẩm chủ lực của nước ta sẽ có khả năng cạnh tranh hơn, đem lại nhiều công ăn việc làm và hiệu quả kinh tế góp phần nâng cao tăng trưởng và an sinh xã hội theo chương trình của Đảng và Chính phủ. c) Mục tiêu khoa học công nghệ: Góp phần nâng cao trình độ công nghệ Quốc gia và cải thiện môi trường đầu tư trong lĩnh vực công nghệ công nghiệp và công nghệ cao hiện nay. 1.2.2. Nội dung nghiên cứu - Khảo sát thu thập các số liệu liên quan tới chuyển giao công nghệ tại các doanh nghiệp công nghiệp từ trước tới nay. - Phân tích, đánh giá hiệu quả của việc chuyển giao công nghệ tại các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau trong nghành công nghiệp. - Nghiên cứu tham khảo kinh nghiệm của nước ngoài trong chuyển giao công nghệ đối với các doanh nghiệp công nghiệp. - Nghiên cứu đề xuất mô hình chuyển giao công nghệ trong các doanh nghiệp công nghiệp giai đoạn từ nay tới 2020. 4 CHƯƠNG 2 HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM 2.1 KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM Hoạt động chuyển giao công nghệ (CGCN) nói chung tại Việt Nam hiện nay bao gồm các hình thức chủ yếu là CGCN từ nước ngoài vào Việt Nam, CGCN trong nước và CGCN từ Việt Nam ra nước ngoài. Hoạt động chuyển giao công nghệ công nghiệp bao gồm việc CGCN và dịch vụ CGCN trong lĩnh vực công nghiệp. Nghĩa rộng hơn của hoạt động CGCN công nghiệp là việc phát triển và trao đổi tri thức, phát triển kinh tế tri thức. Thực tế diễn ra tại Việt Nam phần nhiều là các hoạt động CGCN theo hình thức: Từ công ty mẹ chuyển giao cho các công ty con trong các công ty 100% vốn nước ngoài, hoặc trong các công ty liên doanh. Còn lại là các hoạt động CGCN thương mại thuần tuý. Một số nghiên cứu trong nước cho kết quả, 90% hợp đồng CGCN được kí kết với các doanh nghiệp (DN) có vốn đầu tư nước ngoài. Nhiều cuộc khảo sát cho thấy trình độ công nghệ của một số ngành sản xuất và của các DN còn lạc hậu. Theo kết quả điều tra về thực trạng doanh nghiệp Việt Nam của Tổng cục thống kê công bố ngày 11/5/2005, hầu hết các DN ở quy mô vừa và nhỏ, thậm chí siêu nhỏ, do đó khả năng trang bị máy móc thiết bị, kỹ thuật công nghệ tiên tiến là rất hạn chế. Mức đầu tư cho khoa học và công nghệ (KH&CN) tuy đã tăng, nhưng chưa đáp ứng nhu cầu phát triển và vẫn dựa chủ yếu từ nguồn ngân sách Nhà nước, chưa huy động được các nguồn đầu tư xã hội, nhất là từ các doanh nghiệp. Cơ chế, chính sách đầu tư cho KH&CN chưa được tháo gỡ để tạo nguồn lực và động lực cho các tổ chức, các nhà khoa học phát huy tối đa năng lực sáng tạo và đưa nhanh kết quả nghiên cứu vào ứng dụng trong thực tế. Công tác hội nhập quốc tế về KH&CN cũng chưa được quan tâm đẩy mạnh để tìm kiếm, tiếp thu, làm chủ, tiến tới cải tiến công nghệ nhập từ nước ngoài phục vụ đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong xu thế hội nhập. Ngoài ra, sự gắn kết giữa đào tạo - nghiên cứu - sản xuất, kinh doanh, quan hệ hợp tác giữa các tổ chức khoa học công nghệ, chất lượng các đề tài nghiên cứu khoa học đã nghiệm thu và việc đưa kết quả nghiên cứu vào cuộc sống vẫn còn nhiều hạn chế. 5 Tại Bộ Khoa học và Công nghệ, đến nay mới chỉ có trên 200 hợp đồng CGCN được phê duyệt, đăng ký, chiếm phần rất nhỏ trong số các dự án CGCN thực thi tại Việt Nam. Báo cáo về sức cạnh tranh của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) cũng cho thấy năm 2004 tính trên 104 nền kinh tế được nghiên cứu, Việt Nam xếp hạng 79 về mức độ sử dụng bằng sáng chế, hạng 99 về mức sử dụng bằng sáng chế công nghệ nước ngoài. Bảng 1. Chỉ số xếp hạng về công nghệ của Việt Nam năm 2004 Chỉ số xếp hạng về công nghệ 92 Chỉ số về sáng tạo công nghệ 79 Chỉ số về công nghệ thông tin 86 Chỉ số về chuyển giao công nghệ 66 Nguồn: Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) (2004) “Báo cáo năng lực cạnh tranh” http://www.weforum.org/ Để có một cái nhìn toàn diện hơn về thực trạng hoạt động CGCN công nghiệp của Việt Nam trong những năm gần đây, sau đây chúng tôi tổng hợp và phân tích hiệu quả hoạt động CGCN phân theo các lĩnh vực quốc phòng, an ninh và trong các thành phần doanh nghiệp. 2.2 HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ CÔNG NGHIỆP TRONG LĨNH VỰC QUỐC PHÒNG, AN NINH Việc CGCN trong lĩnh vực an ninh, Quốc phòng ở nước ta chủ yếu là liên doanh với nước ngoài sản xuất hàng tiêu dùng, hoặc nhập chi tiết, linh kiện chi tiết về lắp ráp. Như vậy thực trạng CGCN ở đây là việc mua (nhập) máy cái hoặc dây chuyền lắp ráp hoặc mua phần mềm thiết kế chế tạo. Điều này phản ánh năng lực, trình độ tiếp nhận chuyển giao khoa học kỹ thuật công nghệ của nước ta còn yếu kém so với nhiều nước trên thế giới. 2.2.1 Trong lĩnh vực Quốc phòng Theo số liệu điều tra của Bộ Quốc phòng năm 2007, trong số 29 dự án đầu tư với nước ngoài có: - 07 dự án 100% vốn đầu tư nước ngoài sử dụng đất Quân đội. - 22 dự án đang thực hiện sản xuất kinh doanh, trong số này có 18 dự án Liên doanh, 03 dự án đầu tư ra nước ngoài tại Lào và 01 dự án hợp tác kinh doanh. Kết quả khảo sát có: 14/22 dự án có lợi nhuận chiếm tỷ lệ 67% và 8/22 dự án thua lỗ chiếm 33%. Tổng nộp ngân sách nhà nước từ năm 1999 đến hết tháng 6/2004 là 169,3 tỷ đồng và 10.710.313 USD, tạo việc làm cho khoảng 6 3.000 lao động. Trong đó các dự án đạt hiệu quả kinh tế chủ yếu là sản xuất hàng gia dụng tiêu dùng, như: 1- Công ty liên doanh sản xuất bơm kim tiêm sử dụng 1 lần và thiết bị y tế (Công ty Dược và trang thiết bị y tế quân đội - TCHC), sản phẩm của Liên doanh chiếm gần 60% thị trường tại Việt Nam. 2 - Công ty liên doanh International Burotel (Cục Ðối ngoại-Bộ QP), lãi cộng dồn gần 17 triệu USD. Nộp thuế 10,7 triệu USD. 3 - Công ty liên doanh Mekong-Hacota (Công ty HACOTA-TCCT) sản xuất mỳ gói (mỳ ăn liền) xuất khẩu: Hàng năm tỷ lệ khai thác đạt 95-97%, lợi nhuận sau thuế đạt trên một triệu USD. Mặc dù hoạt động của các dự án đã có những kết quả nhất định, song các dự án có vốn đầu tư nước ngoài của các doanh nghiệp quân đội vẫn còn có một số khó khăn tồn tại sau: Thị trường không ổn định, thua lỗ kéo dài của một số dự án, sự hợp tác thiếu chặt chẽ giữa các bên liên doanh, chậm trễ trong việc triển khai dự án hoặc không triển khai được, sự giám sát hạn chế của bên Việt Nam,.... Một vấn đề CGCN và khoa học kỹ thuật trong các dự án ở đây là không có tính chiều sâu. Thực chất việc CGCN trong quá trình vào hoạt động sản xuất là mua các thiết bị đồng bộ hoặc từng công đoạn, chủ yếu là giải quyết nhiều lao động giản đơn. Sau đây là kết quả khảo sát một số doanh nghiệp Quốc phòng đã có nhiều bước tiến trong thời kỳ đổi mới, có sản phẩm xuất khẩu cũng như có uy tín đối với thị trường trong nước, các doanh nghiệp này cũng chú trọng đến việc vươn tới công nghệ mới trong sản xuất cũng như học tập. 2.2.1.1 Doanh nghiệp quân đội sản xuất hàng tiêu dùng: Xuất phát điểm từ một xí nghiệp chuyên may quân phục cho quân đội, sau hơn 30 năm đã phát triển thành Tổng công ty hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con với 10 đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc, 7 công ty con và 8 công ty liên kết. Năm 2009 Công ty 28 (Agtex) chính thức trở thành Tổng công ty 28 (Agtex Corp.) theo quyết định của Chính phủ và Bộ Quốc phòng, đánh dấu bước chuyển lớn về năng lực và quy mô doanh nghiệp. Sự mở rộng về quy mô doanh nghiệp với tốc độ nhanh chóng tại Tổng công ty 28 đã cho thấy phần nào xu hướng đầu tư lớn của doanh nghiệp này. Tổng công ty 28 thuộc diện “mạnh tay chi” trong khối các doanh nghiệp ngành Dệt May khi đầu tư hàng chục tỷ đồng mỗi năm. Chính vì thế, Tổng công ty 28 là một trong số ít doanh nghiệp có mô hình sản phẩm tương đối 7 khép kín, từ dệt, nhuộm đến may đo thành phẩm. Và ở khâu nào, đầu tư cũng được quan tâm, nhắm tới mục tiêu là tiến thẳng vào công nghệ hiện đại. Với sản phẩm sợi dệt, Tổng công ty 28 đầu tư toàn bộ dây chuyền kéo sợi của hãng Rieter (Thụy Sĩ), máy đánh ống Schlathorst (Đức). Các thiết bị thí nghiệm sợi là các máy Uster của Mỹ. Sản lượng đạt 1.750 tấn sợi/năm. Những máy mắc sợi, máy dệt kiếm, dệt khí, máy kiểm vải… của Thụy Sỹ, Đức, Bỉ, Mỹ… với năng lực dệt vải trên 7 triệu mét/năm. Công đoạn nhuộm với dây chuyền nhuộm liên tục, nhuộm gián đoạn. Nhiều thiết bị hoạt động liên hoàn như máy đốt lông, rũ hồ, nấu tẩy, làm bóng vải, máy nhuộm chưng hơi liên tục, máy văng sấy, máy là cán vải, thiết bị phân tích so màu vải… của Mỹ, Đức, Anh, Hà Lan, Thuỵ sỹ… đạt năng lực sản xuất trên 15 triệu mét vải/năm. Riêng với ngành May, đây thực sự là thế mạnh của Tổng công ty 28. Các xí nghiệp May đã được đầu tư nhiều máy móc thiết bị hiện đại, từ máy may 1 kim điện tử tốc độ cao, máy bổ cơi túi, máy tra tay áo, máy may có các chức năng tự động cắt chỉ, tự động lại mũi, định số mũi may, đến các thiết bị giác sơ đồ, trải vải tự động, máy cắt các loại. Trong khâu thiết kế, nhảy cỡ và giác sơ đồ đã được thực hiện hoàn toàn trên máy vi tính với sự hỗ trợ của các phần mềm vi tính như CAM, CAD. Đặc biệt, Tổng công ty 28 còn sở hữu một dây chuyền sản xuất áo sơmi theo công nghệ của hãng Hugo Boss (Đức) với nhiều thiết bị chuyên dùng tự động như căn sọc, gấp nẹp, quay lộn cổ, măng séc, ép form,v.v… Với các thiết bị trên đã làm cho khả năng đáp ứng đơn hàng của Tổng công ty 28 vào hàng cao trong các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam. Việc đầu tư để nâng cao năng lực thì các doanh nghiệp may nào cũng có, dù ít hay nhiều. Nhưng với việc dám bỏ trên 6.000 USD/tháng trả lương cho một chuyên gia nước ngoài thì có thể thấy doanh nghiệp đã rất chú trọng đến việc học tập nâng cao trình độ khoa học công nghệ. Tổng giám đốc Tổng công ty 28 ông Đậu Quang Lành nói: “Chúng tôi mong muốn tự mình làm chủ được công nghệ, tối ưu hóa sản xuất và nâng được chất lượng sản phẩm, và việc mời các chuyên gia giỏi về làm việc là một sự đầu tư có lợi”. Nhờ đó Tổng công ty 28 đã thu hút được nhiều đối tác nước ngoài cùng hợp tác. Hàng năm 60% sản lượng xuất khẩu cho các khách hàng Mỹ, Anh, Ý, Nhật, Hong Kong… Hiện nay, Tổng công ty 28 đang là đối tác sản xuất cho một số thương hiệu nổi tiếng trên thế giới như: Hugo Boss, Nike, Samsung, Itochu, Esquel... 8 Với 40% sản lượng tiêu thụ thị trường nội địa, với nhãn hiệu Agtex28, Belluni, những sản phẩm veston nam, nữ, áo sơmi, quần âu… cũng ngày càng được người tiêu dùng ưu thích và lựa chọn. Tổng công ty 28 luôn đạt mức tăng trưởng doanh thu bình quân là 15%/năm. Năm 2008, doanh nghiệp đã đạt danh hiệu "Doanh nghiệp xuất khẩu uy tín" do Bộ Công Thương xếp hạng. Qua sự phát triển của Tổng công ty 28, ta thấy việc CGCN ở đây đã được quan tâm, nhưng cơ bản vẫn là việc mới chỉ nhập các thiết bị và sử dụng thiết bị chuyên dùng. Ngay cả việc thiết kế mẫu mã, kiểu dáng thì phải thuê chuyên gia nước ngoài. Và hiện nay mới chỉ dừng ở việc may gia công cho các hãng có thương hiệu của nước ngoài. Còn thương hiệu của Tổng công ty mới chỉ đáp ứng thị trường nội địa. Lý giải việc này là do việc thiết kế các phần mềm trong việc tạo mẫu trong nghành Dệt May của Việt nam chưa có, chúng ta cũng chưa có nhà máy nào sản xuất chế tạo máy may, đồ gá cữ dưỡng gá lắp trong nghành May mặc. Chúng ta cũng chưa có trường Đại học đào tạo hay Viện nghiên cứu chuyên nghành chuyên sâu, vì thế chúng ta chưa có đội ngũ các nhà chuyên gia, nhà thiết kế tạo nên thương hiệu mang tầm Quốc tế. Các loại sợi cao cấp, vải cao cấp và các loại phụ liệu cho nghành May hiện nay Việt nam hầu hết phải nhập của nước ngoài. Do đó thực chất việc CGCN ở đây mới chỉ ở giai đoạn là mua các phần mềm cho một số công đoạn và thiết bị mới trong giai đoạn hiện nay. Một thực tế của nhiều Công ty Dệt May hàng đầu của Việt nam không riêng gì ở Tổng công ty 28, đó là tình trạng sau khi đầu tư các thiết bị chuyên dùng cho mặt hàng mới (nói cách khác là việc CGCN mới), sau khi kết thúc đơn hàng, hoặc mã hàng thì các thiết bị đó được cất kho bảo quản vì không thể dùng cho mã hàng khác, và đó là các thiết bị rất đắt tiền, việc sử dụng lại các thiết bị này có sử dụng lại nhưng rất lâu. Nếu việc các Doanh nghiệp May tự chủ công nghệ thiết kế tạo mẫu mã, sản phẩm có thương hiệu trong nước cũng như quốc tế thì việc tối ưu hoá sử dụng các trang thiết bị công nghệ sẽ có hiệu quả cao. 2.2.2.2 Doanh nghiệp Quân đội sản xuất hàng công nghiệp: Công ty 189 (Z189) - Tổng cục công nghiệp Quốc phòng - Bộ Quốc phòng. Công ty 189 tiền thân là đơn vị công binh, với nhiệm vụ sửa chữa tàu biển cho quân đội trong những năm chiến tranh. Đến thời kỳ hoà bình, ngoài nhiệm vụ phục vụ Quân đội, Công ty 189 còn phục vụ dân sự. Để đáp ứng với tình hình phát triển của đất nước, năm 2005 Công ty 189 được Bộ quốc phòng phê duyệt đầu tư dự án “Ứng dụng công nghệ tự động hoá trong thiết kế chế 9 tạo các loại tàu thuỷ cao tốc, chuyên dụng phục vụ cho An ninh - Quốc phòng” với tổng mức đầu tư: 33.865.640.000 đồng, trong đó: - Mua thiết bị máy công cụ: 10.127.238.500 đồng (chiếm 30%). - Mua thiết bị máy phục vụ: 6.086.485.000 đồng (chiếm 18%). - Mua phần mềm chuyên dùng: 4.467.344.000 đồng (chiếm 13%). Trong 4.467.344.000 đồng mua phần mềm có 2.447.114.350 đồng là vốn hỗ trợ của ngân sách Nhà nước. Đánh giá kết quả của dự án: - Loại bỏ các thao tác thủ công ở những khâu áp dụng tự động hoá (thiết kế, phóng dạng, hạ liệu,…), chuyển sang làm tự động trên máy vi tính bằng các phần mềm chuyên dụng và trên các thiết bị công nghệ điều khiển bằng chương trình kỹ thuật số. - Nâng cao chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế. Giảm chi phí do việc giảm tiêu hao nguyên vật liệu, vật tư. Tăng năng suất lao động, rút ngắn chu trình đóng tàu. - Tăng doanh thu, lợi nhuận, nâng cao thu nhập cho người lao động. Qua tìm hiểu, khảo sát thực tế của dự án cho thấy quá trình CGCN thực chất mới chỉ là mua và đưa vào sử dụng, ứng dụng các phần mềm triển khai đóng vỏ tàu và thiết kế loại tàu nhỏ phạm vị hoạt động hẹp. Nếu mở rộng hơn thì mới dừng ở việc đóng vỏ cho loại tàu mang tính đặc thù, như tàu phóng như lôi, tàu tuần tiễu biển,....nhưng thiết kế của nước ngoài, vật tư, chi tiết lắp ráp phải nhập của nước ngoài. Ví dụ như: vỏ tàu tuần tiễu biển phải nhập nhôm tấm, nhôm định hình của Nga (Liên xô cũ), các thiết bị vô tuyến, định vị phải nhập của Pháp,…Hay nói một cách khác chúng ta mới chỉ gia công phần thô, lắp ráp còn CGCN thực chất là mua và sử dụng phần mềm của nước ngoài. Qua khảo sát 02 doanh nghiệp Quân đội có quan tâm đến việc đầu tư, CGCN trong hoạt động sản xuất phục vụ công tác quốc phòng có hiệu quả. Nhưng thực chất trong quá trình CGCN chúng ta còn nhiều khó khăn trong việc tiếp nhận cũng như thực hiện, hiệu quả của quá trình CGCN chưa cao. Chủ nhiệm Uỷ ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội Lê Quang Bình cho biết, khi khảo sát thực tế về tổ chức và hoạt động Công nghiệp Quốc phòng hiện nay ở nước ta "mang tính khép kín, quy mô nhỏ, phân tán, sự liên kết nhỏ bé, nguồn lực đầu tư hạn chế, công nghệ lạc hậu, khó phát triển theo hướng hiện đại”. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phùng Quang Thanh bày tỏ mong muốn trong buổi thảo luận cho ý kiến vào “Pháp lệnh Công nghiệp Quốc phòng” của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (18-12-2007): Sau năm 2012 cần chuyển công nghiệp Quốc phòng do Nhà nước quản lý và Bộ Quốc phòng 10 chỉ quản lý các cơ sở công nghiệp Quốc phòng nòng cốt. Dự thảo “Pháp lệnh công nghiệp Quốc phòng” qui định ngoài nhiệm vụ nghiên cứu, phát triển, sản xuất, bảo dưỡng, sửa chữa, cải tiến hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự, vật tư kỹ thuật và các sản phẩm khác phục vụ quốc phòng, an ninh, công nghiệp Quốc phòng cũng có nhiệm vụ tham gia phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia nghiên cứu khoa học và công nghệ phục vụ nhiệm vụ xây dựng và phát triển công nghiệp Quốc phòng. 2.2.2.3 Chuyển giao công nghệ quốc phòng thông qua hợp tác quốc tế: Thực tế việc CGCN quốc phòng giữa Việt Nam với các cường quốc trên thế giới chủ yếu thông qua các hợp đồng mua vũ khí và đào tạo, huấn luyện nhằm nâng cao sức chiến đấu và hiện đại hóa quân đội. Năm 2009, Bộ Quốc phòng Việt Nam đã ra Sách trắng công bố một số chiến lược, chính sách và cơ cấu quân đội. Việt Nam cũng đưa ra sáng kiến đối thoại trực tiếp Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN. Điều này cho thấy sự chủ động trong chính sách quốc phòng của Việt Nam và sự năng động của Quân đội nhân dân Việt Nam. Mặc dù ngân sách quốc phòng của Việt Nam công bố trong Sách trắng còn rất khiêm tốn, tuy nhiên các chuyên gia nước ngoài về Việt Nam cho rằng việc kinh tế Việt Nam phát triển sẽ kéo theo ngân sách dành cho quốc phòng ngày một tăng hơn. Việt Nam mở rộng hợp tác quốc phòng Trong hợp tác quân sự giữa Việt Nam với các nước, Nga là nước cung cấp chủ yếu các trang thiết bị quốc phòng cho Việt Nam. Thông tin từ Bộ Ngoại 11 giao cho biết, một hợp đồng mua bán vũ khí lớn đang được hoàn tất trong chuyến thăm Nga của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Trong khi nguồn tin từ Bộ Quốc phòng Nga còn tiết lộ Việt Nam đang xem xét kế hoạch mua tàu ngầm hạng Kilo và máy bay Su30 của Nga. Đối với quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, việc trao đổi quân sự giữa hai nước đã có nhiều tiến bộ và cởi mở hơn. Theo Hãng thông tấn Reuters trích lời quan chức quốc phòng cao cấp của Hoa Kỳ nói Mỹ sẵn sàng cân nhắc bán vũ khí, ít nhất là loại phi hủy diệt cho Việt Nam khi quan hệ an ninh song phương phát triển tốt. Ngoài ra Mỹ cũng có thể giúp Việt Nam hiện đại hóa không quân. Phó Đô đốc Jeffrey Wieringa, chủ nhiệm Cơ quan Hợp tác An ninh Quốc phòng Hoa Kỳ, nói tại Hội nghị Không gian và Quốc phòng ở Washington rằng Việt Nam, với bờ biển dài, có thể muốn mua máy bay tuần tra hoặc hệ thống radar duyên hải của Mỹ. Tuy nhiên các cuộc thảo luận mới ở mức "sơ khởi" như ông Weiringa được Reuters trích lời nói: "Việc đầu tiên có thể xảy ra (trong hợp tác quốc phòng song phương) là đào tạo tiếng Anh cho quân nhân Việt Nam. Sau đó sẽ là Việt Nam tham gia chương trình Giáo dục và Huấn luyện Quân sự Quốc tế của Hoa Kỳ (U.S. International Military Education & Training - IMET)… Tiếp theo hai bên sẽ tiếp tục thúc đẩy quan hệ... và việc mua bán vũ khí hoàn toàn có thể xảy ra" Trong quan hệ Việt-Pháp, Việt Nam có quan điểm coi Pháp là một đối tác đặc biệt và ưu tiên ở châu Âu và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bày tỏ mong muốn chứng kiến sự hiện diện mạnh mẽ của Pháp tại Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục. Chính phủ Pháp cũng xem Việt Nam như một cửa ngõ để mở rộng sự hiện diện ở Đông Nam Á và cơ quan Phát triển Pháp (AFD) sẽ tiếp tục hợp tác, hỗ trợ Việt Nam trong một số dự án lớn như tàu điện ngầm, điện, bảo dưỡng cải tạo cầu Long Biên, đối phó hậu quả tiêu cực do biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Phía Pháp cũng cam kết tích cực thúc đẩy dự án hợp tác thành lập trường đại học Khoa học công nghệ tại Hà Nội và hỗ trợ đào tạo 400 tiến sĩ giảng dạy ở trường này. Ngoài ra thoả thuận hợp tác quốc phòng cũng được ký kết mở ra cơ hội cho Việt Nam mua những thiết bị quốc phòng của Pháp. 2.2.2 Trong lĩnh vực an ninh (Công an nhân dân) Nghành Công an (An ninh) có tính đặc thù riêng. Theo đánh giá của Tổng cục Kỹ thuật (đại diện về khoa học kỹ thuật trong nghành Công an), vấn đề CGCN trong lĩnh vực an ninh của nước ta hiện nay đã có nhiều chuyển biến tích cực. Đơn vị đã thực hiện tốt công tác tham mưu quản lý Nhà nước về 12 khoa học kỹ thuật và công nghệ trong Công an nhân dân, tham mưu cho Bộ Công an trình Chính phủ ban hành Nghị định huy động tiềm lực Khoa học Công nghệ Quốc gia phục vụ công tác Công an. Việc CGCN trong ngành chủ yếu thông qua việc hợp tác với các tập đoàn, công ty liên doanh nhằm từng bước phát triển hạ tầng viễn thông, tin học, cơ yếu Công an nhân dân; triển khai hệ thống giám sát an ninh công cộng; đảm bảo thông tin liên lạc xuyên suốt, nhanh chóng, kịp thời và chính xác. Trung tâm thông tin của cảnh sát 113 Một số ví dụ về hoạt động CGCN trong ngành có thể kể đến như hợp đồng “Cung cấp trang thiết bị công nghệ thông tin, xây dựng phần mềm và số hóa dữ liệu cán bộ Công an nhân dân” được ký giữa Tổng cục Xây dựng Lực lượng Công an nhân dân - Bộ Công an với công ty Cổ phần Công nghệ Tinh Vân hay công ty Cổ phần Quốc tế Sun Ivy đã phối hợp với Tổng cục kỹ thuật – Bộ Công an cài đặt, thử nghiệm giải pháp điều hành trực tuyến đa phương tiện trên hệ thống mạng diện rộng Bộ Công an tại các điểm Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Hệ thống này còn được ứng dụng trong chỉ huy tác chiến, theo dõi an ninh biên giới quốc gia, đào tạo, chuyển giao kỹ thuật từ xa trong ngành công an. Ngoài ra phải kể đến hoạt động CGCN phục vụ điều khiển giao thông đặc biệt tại các thành phố lớn như Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. TP. Hồ Chí Minh đã đầu tư 4 triệu USD từ nguồn vốn vay ODA theo Nghị định thư Pháp - Việt để lắp đặt Trung tâm điều khiển 48 chốt đèn tín hiệu giao thông (THGT) triển khai từ năm 1996 đến năm 2003. Hệ thống đèn THGT nói trên được lắp đặt trên địa bàn các quận 5, 6 và 11 do Công ty Sagem của Pháp lắp đặt chủ yếu trên các tuyến đường Hồng 13 Bàng, An Dương Vương, Nguyễn Trãi, Trần Hưng Đạo… thuộc địa bàn quận 5, 6 và 11. Vị trí được lắp ở những nút giao thông quan trọng, thường kẹt xe. Toàn bộ dự án gồm xây dựng tòa nhà Trung tâm điều khiển (TTĐK) đèn THGT, lắp đặt 48 chốt đèn THGT, lắp đặt tám camera và hai bảng thông tin điện tử gần giao lộ nút giao thông Phú Lâm (Q6) và trên đường Trần Hưng Đạo (Q1), hệ thống đèn có bộ phận thu, phát và truyền thông tin về trung tâm điều khiển tín hiệu giao thông (Phòng Cảnh sát giao thông (CSGT) đường bộ Công an TP.HCM). Trên cơ sở các thông tin này, các cán bộ CSGT ngồi trong phòng vẫn nắm bắt được ngoài đường có kẹt xe hay không và điều khiển từ xa, thay đổi chu kỳ đèn khi có ùn tắc. Đây cũng là công nghệ lần đầu tiên được áp dụng với những ưu điểm vừa nêu nên các cơ quan ở thành phố đã rất kỳ vọng sẽ giải tỏa, xử lý nhanh tình trạng kẹt xe trên địa bàn thành phố. Đồng thời cũng là bước sơ khởi của kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin vào điều khiển giao thông, được đầu tư từ nguồn vốn ODA của nước ngoài, thuộc đề án quy hoạch, phát triển hạ tầng giao thông đô thị để khắc phục tình trạng ùn tắc giao thông. Thời gian đầu, hệ thống 48 chốt đèn THGT phát huy công năng phục vụ giao thông TP khi góp phần giảm tải các tuyến đường có lưu lượng phương tiện tham gia giao thông đông. Các chốt đèn được lắp đặt đầu dò ghi nhận tình hình lưu thông trên đường, đo đếm phương tiện lưu thông, thời gian dừng chờ của các phương tiện, từ đó phát tín hiệu kết nối với TTĐK. Thế nhưng đến tháng 7-2004, tức vừa hết thời gian bảo hành 48 chốt đèn, thì TTĐK xảy ra sự cố. Công ty Chiếu sáng công cộng phải điều khiển từ việc cài đặt, nạp chương trình thủ công tại các tủ điều khiển cho các chốt đèn, để từ đó các CSGT hoặc thanh niên xung phong phải điều khiển bằng tay như hệ thống đèn giao thông loại thường. Theo báo cáo của Công an TPHCM, sau khi tiếp nhận, quản lý và khai thác, đến tháng 7-2004 hệ thống đèn THGT bị nhiễu tần số không kết nối được từ các giao lộ về TTĐK. Các chốt đèn phải hoạt động độc lập dưới sự quản lý của Công ty Chiếu sáng công cộng Thành phố. Nguyên nhân của việc mất kết nối là do Ủy ban tần số vô tuyến điện quy hoạch, phân chia tần số theo thỏa thuận giữa các Bộ ngành và tần số kết nối của hệ thống đèn THGT này lại rơi vào dải tần số sử dụng theo qui định mới phân bổ cho đơn vị khác. Từ khi hệ thống bắt đầu ngưng hoạt động, Công an TPHCM cho biết đã chỉ đạo các phòng chức năng mời nhiều công ty trong nước đến khảo sát và tư vấn tìm hướng khắc phục đường truyền dẫn dữ liệu và cài đặt lại cho máy chủ nhưng vẫn không có hướng giải quyết. Lúc này, Công an TP mới mời Công 14 ty TNHH Europ Contients VN (đơn vị được Công ty Sagem chỉ định việc cung cấp dịch vụ bảo trì cho hệ thống này tại VN) tham gia giải quyết. Sau khi tiến hành khảo sát, Công ty TNHH Europ Contients VN thông báo máy chủ có hai bo mạch điện tử bị hỏng, hiện nay nhà sản xuất không còn cung cấp bo mạch điện tử này trên thị trường. Hơn thế, việc cài lại hệ điều hành và phần mềm điều khiển do Công ty Sagem cài đặt cũng phải cần cập nhật. Như vậy, phải mời chuyên gia của Công ty Sagem qua mới thực hiện được công việc sửa chữa. Thực tế đưa vào sử dụng hệ thống đèn tín hiệu giao thông tại TP Hồ Chí Minh cũng cho thấy những bất cập trong công tác tiếp nhận CGCN, sự thiếu chủ động của đội ngũ cán bộ trong nước mặc dù đây chỉ là một trong số nhiều bài học về hoạt động CGCN của nước ta. 2.3 HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ CÔNG NGHIỆP TRONG CÁC THÀNH PHẦN DOANH NGHIỆP 2.3.1 Doanh nghiệp tư nhân và cổ phần nhà nước không chi phối Doanh nghiệp tư nhân và cổ phần Nhà nước không chi phối, bao gồm cả những doanh nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh. Việc CGCN xảy ra mạnh mẽ nhất là trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư từ nước ngoài (FDI), vì các doanh nghiệp này thường trực thuộc các tập đoàn kinh tế lớn, có khả năng kinh tế và kỹ thuật, công nghệ cao. Một số đánh giá khác thì phân chia việc CGCN chủ yếu theo hai luồng chính là từ công ty mẹ chuyển giao cho các công ty con trong các công ty 100% vốn nước ngoài hoặc trong các công ty liên doanh. Luồng thứ hai là các hoạt động CGCN thương mại thuần túy. Một số nghiên cứu trong nước cho kết quả, 90% hợp đồng CGCN được kí kết với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tại Bộ Khoa học và Công nghệ, đến nay mới chỉ có trên 200 hợp đồng CGCN được phê duyệt, đăng ký, chiếm phần rất nhỏ trong số các dự án CGCN thực thi tại Việt Nam. Theo báo cáo về sức cạnh tranh của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) cho thấy năm 2004 tính trên 104 nền kinh tế được nghiên cứu, Việt Nam xếp hạng 79 về mức độ sử dụng bằng sáng chế, hạng 99 về mức sử dụng bằng sáng chế công nghệ nước ngoài. Tính đến tháng 7/2005, cả nước có trên 5.500 dự án đầu tư nước ngoài, trong đó hầu hết đều có CGCN (CGCN). Tuy nhiên, theo đánh giá mới đây về trình độ công nghệ của nước ta cho thấy, vẫn còn 10% doanh nghiệp (DN) sử dụng công nghệ của những năm 70 của thế kỷ trước; 30% của những năm 80; 50% của những năm 90. 15 Sở dĩ có điều này là do chi phí cho đổi mới công nghệ của DN còn thấp, chỉ chiếm khoảng 0,2-0,3% doanh thu, trong khi của các nước là 5-10%. Ngoài lý do nguồn tài chính hỗ trợ cho chuyển giao, đổi mới công nghệ còn hạn chế, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật cũng chưa tạo được môi trường thuận lợi cho việc CGCN trong nước và từ nước ngoài vào Việt Nam. Tuy vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) tăng mạnh trong thời gian qua nhưng vẫn còn chưa tương xứng với tiềm năng, đặc biệt là vốn thực hiện còn thấp so với vốn cam kết. Còn có sự mất cân đối về ngành nghề, vùng lãnh thổ, nhất là đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và chế biến nông sản thực phẩm còn ít; ĐTNN chủ yếu vẫn tập trung ở các vùng kinh tế trọng điểm; ngành công nghiệp phụ trợ chưa thu hút được nhiều vốn ĐTNN. Việc CGCN tiên tiến trong hoạt động ĐTNN cũng còn những hạn chế do số dự án công nghệ cao chưa nhiều, một số dự án còn sử dụng công nghệ lạc hậu, đặc biệt là ở thời gian đầu, chưa đảm bảo quy chuẩn về bảo vệ môi trường. Ngoài ra, ở một số nơi, lương của người lao động còn thấp, điều kiện làm việc không bảo đảm, chưa tương xứng với đóng góp của người lao động... Đó là những tồn tại mà chúng ta cần phải tập trung giải quyết trong thời gian tới. ∗ Nhiều hạn chế Thực trạng CGCN trong các doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam còn rất nhiều hạn chế. Các doanh nghiệp nước ngoài hầu như mới chỉ khai thác nguồn lao động chi phí thấp chứ chưa thực hiện nhiều việc chuyển giao kỹ thuật công nghệ cao và đào tạo nhân lực để phát triển công nghiệp nội địa. Kết quả khảo sát của Diễn đàn phát triển Việt Nam (VDF) được thực hiện trong hơn 100 doanh nghiệp điện tử gần đây cho thấy, các công ty trong nước tuyển dụng từ 10-64% lao động có trình độ cao đẳng trở lên, trong khi đó con số tuyển dụng của cùng trình độ của khu vực FDI chỉ ở mức từ 4-10%. Sau sự kiện Công ty Sanyo thành lập nhà máy sản xuất linh kiện điện tử đầu tiên với vốn FDI, các ngành công nghiệp Việt Nam cơ bản vẫn chỉ sản xuất được những mặt hàng đơn giản, những sản phẩm công nghệ cao cũng mới chỉ là lắp ráp. Chính vì các công đoạn cần kỹ thuật cao chưa phải do lao động Việt Nam đảm nhận, nên việc học hỏi, tích luỹ kinh nghiệm qua thực tế sản xuất tại các doanh nghiệp FDI của nhân lực trong nước, chưa được nhiều. Xu hướng các doanh nghiệp sử dụng lao động nước ngoài đang tăng lên, trong đó gần 50% lao động phổ thông và chỉ có gần 45% có trình độ đại học trở lên. Báo cáo của Viện nghiên cứu phát triển Thành phố Hồ Chí Minh (Tp.HCM) cho biết lao động không có chuyên môn kỹ thuật tại Tp.HCM đến năm 2010 chiếm tỷ lệ 65,6%; lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, kể cả 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan