LỜI NÓI ĐẦU
Nằm giữa sông Đuống và sông Cầu, Bắc Ninh (Kinh Bắc xưa) là vùng đất
cổ của người Việt với mật độ di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh dầy đặc.
Không chỉ thu hút du khách bởi những bức tranh “ bừng sáng trên giấy điệp,
lặng lòng người bởi những triền đê xanh mướt, ngút ngàn cỏ và hoa cúc dại
mà còn thu hút bởi những kiến trúc Phật Giáo nổi tiếng. Nhắc đến Bắc Ninh
là không thể không nói đến Chùa Bút Tháp. Đây là một ngôi chùa cổ, mặc dù
đã trải qua những lần trùng tu, sửa chữa nhưng chùa vẫn giữ được những tác
phẩm kiến trúc, điêu khắc tuyệt mỹ và nét nguyên sơ hấp dẫn của nó với sự
dung hội hai nền văn hoá Việt – Hoa.
Chùa Bút Tháp hiện còn khá nhiều tác phẩm kiến trúc, điêu khắc tuyệt mỹ.
Nổi bật là hai tác phẩm Tháp Bảo Nghiêm (có thể vì nó giống hình cái bút mà
người ta gọi chùa với tên là Tháp Bút?) và bức tượng Phật Bà Quan âm nghìn
mắt nghìn tay. Toàn bộ kiến trúc của ngôi chùa là một khuôn mẫu về sự kết
hợp hài hòa kiến trúc của các chất liệu gạch, gỗ và đá, của sự hòa nhập kiến
trúc rất gần gũi với môi trường thiên nhiên. Những ai đã từng đến đây chắc
chắn sẽ bị chinh phục bởi vẻ đẹp kỳ thú và cực kỳ ấn tượng của nó.
Chùa Bút Tháp không chỉ hấp dẫn đối với người dân Việt mà còn thu hút khá
đông khách Quốc tế đế viếng thăm. Đây đang thực sự trở thành một địa điểm
du lịch lý tưởng và là nơi hành hương của đồng bào cả nước và của du khách
thập phương.
I-Tên di tích và lịch sử xây dựng
Bút Tháp là một trong những ngôi chùa cổ nhất ở đất Kinh bắc xưa. Giử vẻ
đẹp trong sự thăng biến của bao đời, chùa cổ uy nghiêm và tĩnh lặng trong
không gian văn hoá đất Bắc. Bút Tháp với sự huy hoàng của cái nôi Phật
Giáo, dòng Lâm tế phát xuất thời Lê, tạo thành mạch nguồn đạo giáo thâm
sâu trong tâm thức dân tộc. Chùa cổ dấu xưa đến nay đã trải qua mấy trăm
năm, hưng tích vẫn còn với thời gian, mà lịch sử vẫn là điều chưa được thấu
rõ.
1
1 a. Tên di tích thường gọi, tên chữ và các tên gọi khác
- Tên thường gọi : Chùa Bút Tháp
- Tên chữ là "Ninh Phúc Thiền tự", lại là chốn "Thiền lâm cổ tự". Trước
đây, chùa có tên Vĩnh Nghiêm. Theo sổ sách ghi lại, đời vua Tự Đức, năm 1876,
trong một lần đi qua đây vua thấy có một cây tháp hình dáng khổng lồ liền gọi
tên là Bút Tháp, nhưng trên đỉnh vẫn ghi là tháp Bảo Nghiêm..
- Ngoài ra, nhân dân trong vùng còn gọi là chùa Nhạn Tháp.
1 b. Thuộc xã phường, quận huyện – Đơn vị hành chính cũ hay mới.
Chùa nằm tại địa phận làng Á Lữ xã Nhạn Tháp huyện Siêu Loại phủ Thuận
An xứ Kinh Bắc xưa nay thuộc thôn Bút Tháp xã Đình Tổ huyện Thuận
Thành, tỉnh Bắc Ninh
2 a. Nội dung các tấm bia trong chùa
Tư liệu thành văn còn lại trong chùa và trên các tháp mộ quanh chùa được
khắc trên bia đá, chuông đồng, biển gỗ có rất nhiều ý nghĩa, đó là nguồn sử
liệu chứa đựng nhiều thông tin về ngôi chùa. Hiện tại chùa Bút Tháp còn lưu
giữ được 17 văn bia thời Lê, một văn bia thời Nguyễn, một minh văn trên
chuông thời Nguyễn niên đại Gia Long và nhiều bức đại tự bằng gỗ.
Văn bia có niên đại sớm nhất tại chùa Bút Tháp là bia Phụng lệnh chỉ tạo
năm Phúc Thái 4 (1646). Bia này được đặt phía bên phải trong Nhà Tổ Đệ
Nhất. Bia có hình dáng cột đá, được chôn trực tiếp xuống nền đất, không đặt
trên lưng Rùa. Bia là một thanh đá cao 167cm, rộng 33cm, dày 14cm, trán bia
cao 22cm và được trang trí rất tinh tế. Ở giữa trán bia là một hình chạm nổi
đồng tâm. Trên mặt tròn để trơn, xung quanh có các đao mác hình ngọn lửa
tỏa ra, các đao được thể hiện một cách mềm mại, uyển chuyển. Xung quanh
vòng tròn có hai con rồng chầu vào. Rồng được chạm rất khéo léo và đăng
đối. Tuy nhiên những tấm biển gổ để khắc đại tự treo ở chính giữa gian thiêu
hương còn có niên đại sớm hơn cả bia đá. Đây là trường hợp rất hiếm gặp tại
các di tích cổ. Bởi vì chất liệu gỗ rất khó bảo quản lâu bền như chất liệu đá,
chúng thường bị thời gian làm cho mục ruỗng. Vậy mà hiện nay tại chùa Bút
Tháp vẫn còn ba tấm biển gỗ có niên đại Dương Hoà 8 (1643), là bằng chứng
sớm nhất có văn bản khắc xác nhận ngôi chùa. Hai tấm biển được treo tại
gian đầu tiên của chùa, một tâm khắc bằng chữ Hán.Qua đó ta có thể thấy sau
khi xây dựng lại chùa Ninh Phúc và điện Đại Hùng, vào năm Dương Hoà 8
2
(1643) người ta mới chỉ kịp khắc chữ ghi lại vào mấy tấm biển gỗ để treo.
Đến năm Phúc Thái 4 (1664) lệnh chỉ của Chúa Trịnh đã được khắc vào bia
đá, đó là văn bia Phụng lệnh chỉ của Chúa Trịnh Tráng cho phép dân xã Nhạn
Tháp được thu lấy toàn bộ số thuế ngạch chi dùng vào việc đèn hương lễ
Phật. Năm Phúc Thái 5 (1647) có thêm bốn văn bia ghi lại quá trình xây dựng
và trung tu chùa.
Ngay khi bước vào chùa ta bắt gặp 2 tấm bia đá được đặt trên lưng con
rùa được khắc bằng chữ Hán Nôm.
Đi tới tòa “Cửu Phẩm Liên Hoa” được dựng trên cơ sở bia “Tích Thiện Am”
Bia Tích Thiện am là một tấm bia nhỏ ,được dựng vào giờ tốt ngày lành
tháng 11 năm Tân Mùi niên hiệu Chính Hòa thứ 12 (1691) gồm có hai mặt,
một mặt có văn toàn bia, mặt kia chỉ có một dòng ghi bài vị của vị Thiền sư,
kích thước mặt bia cao khoảng 70x50cm chiều ngang, chân bia chôn dưới đất,
gần sát phần chữ cùng với chữ nhỏ vì thế rất khó in bia và đọc văn bản. Còn
mặt sau là bài vị:” Trưởng lão tăng là Hà Đăng Đệ, tên chữ là Huệ Thông,
đạo hiệu là Huyền Thanh Phổ Tế Thiền sư”
Thực tế thì văn bia không hề đưa ra một từ ngữ nào liên hệ đến chùa Bút
Tháp cũng như tên đất lân cận trong vùng Thuận Thành. Năm 1659 Minh
Hành mất thì Như Phúc nối đèn lên trụ trì chùa Bút Tháp, trong khoảng 30
năm không thể có điều gì khác biệt. Như vậy bia Tích Thiện am là được đem
từ nơi khác về mà chúng ta không biết nguồn gốc bia từ đâu và theo thời gian
cùng thói quen mà dân ta gọi tên tòa nhà Cửu phẩm liên hoa theo tên bia là
"nhà Tích Thiện Am".
Ngoài ra còn 3 tấm bia quan trọng khác như: “Sắc kiến Ninh Phúc Thiền Tự
“(xây dựng chùa Ninh Phúc) năm 1642 ; “Ninh Phúc Thiền Tự Tam Bảo Tế
Tư Điền Bi”(bia cúng ruộng cho Tam Bảo chùa Ninh Phúc) năm 1674 ; "Ngự
chế Đại hùng bảo điện năm 1642.
Với những tấm bia đá có niên đại lâu đời còn giữ được tại chùa Bút Tháp đã
tôn lên giá trị cổ kính của ngôi chùa và là sử liệu vô cùng quí giá giúp cho các
học giả nghiên cứu về ngôi chùa này trên nhiều phương diện khác nhau.
2 b. Năm tháng xây dựng và các đợt trùng tu nâng cấp mở rộng.
3
Theo Bắc Ninh phong thổ tạp ki, chùa có từ đời vua Trần Thánh Tông
(1258-1278)thời Trần, sách ghi chuyện tổ thứ ba thiền phái Trúc Lâm là
Huyền Quang tôn giả(đỗ Trạng nguyên năm 1297 thăm chùa Ninh Phúc mà
dựng toà "Cửu phẩm liên hoa". Nhưng sách được chép vào thời Nguyễn nên
cứ liệu trên chỉ là giả thuyết để nhận định lịch sử về ngôi chùa mà thôi. Lại
theo L.Bezacier trong tác phẩm Nghệ thuật Việt Nam thì chùa có niên đại từ
thế kỷ 14, nhận định này cũng tương tự như Bắc Ninh phong thổ tạp ki.
Như vậy chùa Ninh Phúc đã có lịch sử từ thời Trần và một khoảng thời gian
dài không có sử sách nào ghi chép về diễn biến của ngôi chùa cho đến sau
này khi chùa được vua chúa nhà Lê Trịnh tu sửa vào đầu thế kỷ 17. Năm
1633 Thiền sư Chuyết Chuyết và đệ tử Minh Hành phiêu dạt sang phương
Nam và đến kinh đô Đại Việt. Tại kinh đô thầy trò Thiền sư đã được vua Lê
chúa Trịnh và hoàng thân quốc thích Lê triều mộ đạo sùng tín. Sau đó Chuyết
Chuyết về trụ trì chùa Phật tích trên núi Tiên Du. Theo văn bia và biển ngạch
(hoành phi) trong chùa ghi lại thì vua Thần Tông và chúa Trịnh Tráng đã cho
tu sửa lại chùa và dựng biển ngạch "Sắc kiến Ninh Phúc thiền tự" cùng "Ngự
chế Đại hùng bảo điện" vào năm Dương Hoà thứ 8 (1642). Điều đó cho thấy
chùa có thể được dựng vào năm 1642 và thời gian Chuyết Chuyết trụ trì chùa
Phật Tích thì chùa Ninh Phúc được vua Lê chúa Trịnh và thập phương tín thí
cho tu sửa. Chuyết Chuyết chuyển sang trụ trì chùa Ninh Phúc được 2 năm thì
mất (năm 1644), đệ tử của ông là thiền sư Minh Hành kế tục làm thủ toà chùa
Bút Tháp. Vào thời gian này, Hoàng thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (Diện
Viên) đã rời bỏ cung thất, về đây tu hành. Thấy chùa bị hư nát nhiều, bà cùng
con gái là công chúa Lê Thị Ngọc Duyên (Diệu Tuệ), xin phép Chúa Trịnh
Tráng, rồi bỏ tiền của, ruộng lộc ra công đức để trùng hưng lại ngôi chùa
thêm khang trang và vững bền tới ngày nay với việc cho dựng hành lang đá,
cầu đá và tháp Báo Nghiêm cũng như soạn dựng các văn bia năm 1647.
Chính Lệnh chỉ của chúa Trịnh Tráng cũng cho "miễn sưu sai tạp dịch" trong
dịp "bản xã có ngôi cổ tích danh lam là chùa Ninh Phúc nay được dựng sửa
lại" (Phụng Lệnh chỉ-1646).
Sang đầu thế kỷ 18, chùa Ninh Phúc lại được tu sửa với quy mô lớn. Bia
"Ninh Phúc thiền tự bi ki" dựng năm Vĩnh Thịnh 10 (1714) chép rằng "trong
xã vốn có danh lam cổ tich là chùa Ninh Phúc, tuy được mở dựng bởi bậc
thánh đời trước, nhưng qua nhiều năm đã hư hoại" và được các quan viên
như Luân Quận công họ Lê, Nhu Thuận quận chúa họ Trịnh, Thể Thái Hầu là
Lê Hội, Dĩnh Quận Công Lê Đĩnh, Ninh Lộc Hầu Lê Vịnh,... cho tu sửa thêm
4
khang trang hơn mà "chẳng tiếc ngàn vàng sắm mua toàn gỗ tốt, lại được dân
làng góp sức mời thợ cất dựng sửa sang, điện thờ nguy nga, chùa chiền rộng
rải, trang điểm một bầu thế giới Lưu ly" (Khánh Lưu bi ki-1714). So với trước
kia thì sau khi chùa được dựng lại thêm "dãy nhà riêng ở phía sau Phật
đường", chùa đã quy mô to lớn hơn trước hơn rất nhiều.
Sau đó hơn 20 năm thì chùa lại được trùng tu một lần nữa, lần này có lẽ là
lần định hình nên kiến trúc và diện mạo của chùa cho đến ngày nay, bao gồm
toàn diện các toà nhà đều được trùng tu lại cho thêm mới. Bia tháp Tôn Đức
dựng năm 1739 cho biết "trụ trì chùa Ninh Phúc là Sa môn Tính Hài hưng
công tu sửa trang hoàng, tu dựng tượng vàng ngày lành tháng 4 năm Kỷ Mùi
niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 5 (1739) triều Lê". Cũng trong lần tu sửa này toà Cửu
phẩm liên hoa cũng được tạo dựng.
Sau bao tan biến của bể dâu, triều chính thay đổi, dân tình nghèo đói tan tác,
dấu cũ chùa xưa thêm tiêu điều, các cao tăng thạc đức của chùa vắng bóng
như hầu hết các chùa trên đất Việt giai đoạn này. Cũng từ đây không còn dấu
sách, văn bia nào ghi chép về các thiền sư của chùa mà chỉ còn lại đôi chút
hình ảnh chùa Bút Tháp trong các thư tịch về một thắng tích còn vang bóng
một thời.
Đầu thời Nguyễn, sau một thời gian đất nước dần trở về sự ổn định và nhân
dân yên ổn làm ăn thì nhu cầu tâm linh của họ được chú trọng. Cùng với thời
gian diện mạo chùa xưa nay đã tiêu điều, chuông cũ tiếng vang không còn
được như xưa, dân tình và các quan viên hương lão đã họp bàn đúc lại
chuông, bài minh trên chuông chùa cho biết chùa xưa rất lớn "vào các năm
Dương Hoà, Phúc Thái tu sửa chùa chiền được 120 gian". Bài minh chỉ ghi
việc đúc lại quả chuông mà thôi.
Sang thế kỷ 20, Tổng đốc Ninh Thái là Hoàng Trọng Phu đi qua vùng
Thuận Thành thấy chùa hoang vắng tàn lụi nên bàn bạc cùng quan lại thu thập
tiền của mà trùng tu "từ ngày 1 tháng 10 năm Quý Mão khởi công tu sửa
chùa, tới ngày 15 tháng 3 năm Giáp Thìn (1905) thì hoàn thành". Từ đó tới
nay đã 100 năm, chùa lại mấy lần được sửa sang, như các năm 1937, 1940,
1957 và gần đây là đợt có quy mô lớn vào các năm 1990-1993.
Ngày nay chùa xưa dấu cũ vẫn trang nghiêm với những dải "ngô khoai
biêng biếc", "những cô hàng xén răng đen" bên làng vùng ven sông Đuống.
Bút Tháp vẫn vút trên trời xanh tâm linh của vùng Kinh Bắc, mang dư hưởng
5
cho khách thập phương và bậc thức giả chút thảnh thơi và hiểu thêm về một
chốn tổ thiền.
II – Quy hoạch và kiến trúc
1. Quy hoạch di tích và mô tả phương hướng, thế đất xây chùa
Quy hoạch di tích.
Chùa Bút Tháp được xây dựng trên vùng thềm Châu Thổ sông Hồng
với diện tích 10.000m2. Chùa kiến trúc theo kiểu "Nội Công Ngoại Quốc". Về
cơ bản, quy mô và cấu trúc của chùa Bút Tháp hiện nay chính là ngôi chùa
được xây dựng trong thời kỳ đó.
Chùa có kiến trúc tổng thể độc đáo, bố cục gọn gàng, chặt chẽ, sinh động- là
một khuôn mẫu về sự kết hợp hài hòa kiến trúc của các chất liệu gạch, gỗ, đá,
của sự hòa nhập giữa kiến trúc và môi trường thiên nhiên bao quanh. Kiến
trúc chùa được bố trí cân xứng, chặt chẽ ở khu vực trung tâm, nhưng lại rất tự
nhiên ở khu vực xung quanh. Người xưa đã biết kết hợp cảnh quan của cả
vùng để tạo nên sự hoà nhập đó. Với cảnh quan hiện có, chúng ta thấy bên
trái chùa có dòng sông Đuống, trước cửa chùa là đồng ruộng mênh mông, xa
xa ở phía trái và phía phải chùa có núi Tam Đảo, núi Phật Tích bao bọc.
Chúng ta có cảm giác rằng người xây dựng chùa như muốn kiến trúc này hoà
nhập vào không gian mênh mông đó.
Cụm kiến trúc trung tâm ở chùa Bút Tháp bao gồm 8 đơn nguyên chạy song
hành được bố trí đăng đối trên một đường "thần đạo" và được bao bọc bởi hai
dãy hành lang chạy suốt dọc chùa ở hai bên đó là tòa Tiền Đường, Thượng
Điện, Cầu Đá, tòa Tích Thiện Am, Trung Đường, Phủ Thờ, tòa Hậu Đường
và hàng tháp đá.
Sau nhà Hậu Đường bố trí đăng đối theo trục chính và phương pháp xử lý
các khối kiến trúc của công trình đã tạo nên vẻ thâm nghiêm, u tịch cho cảnh
chùa. Sự bố trí chặt chẽ ở khu vực trung tâm này thể hiện tư tưởng về giáo lý
của đạo phật, diễn tiến từ nhận thức suy lý đến thự chành chính nghiệm đã đạt
được đến sự giác ngộ và giải thoát.
6
Lối kiến trúc này phổ biến trong các chùa làng thế kỷ 17 như chùa Keo,
chùa Thầy và có lẽ bắt đầu từ chùa Phổ Minh ( thế kỷ 13 ). Gọi là kiến trúc “
nội công ngoại quốc “- trong chữ công ngoài chữ quốc - tức là nhiều lớp nhà
cắt ngang một trục dọc nối liền bởi một nhà cầu, hai bên có hành lang bao
bọc. Cách bố trí như vậy luôn quy gọn các công trình hình chữ nhật có cấu
trúc vì kèo bên trong tạo thành một khối lớn. Các lớp nhà có thể sít nhau, có
thể dãn cách để xen kẽ vào đó sân và vườn cảnh, nhưngc hủ yếu do yêu cầu
phân cắt các thành phần của hệ thống tượng Phật bên trong. Không gian luôn
có tính chất nửa đóng nửa mở, nửa hở nửa kín. Thiên nhiên xen kẻ trong công
trình nhân tạo. Nhìn bên ngoài thì nhỏ, đi vào thấy rộng và mở mãi vào trong
như không cùng làm cho ngôi chùa như rộng hơn thực tế. Giới hạn ngôi chùa
với làng xóm như không quá tách biệt.
Mỗi khi đi qua một công trình kiến trúc là khách hành hương đã bước dần
vào ý đạo. Có thể nói rằng người thiết kế công trình này khi vẽ đồ án xây
dựng đồng thời vạch ra một chương trình tu đạo cho các phật tử. Trong các
kiến trúc của chùa Bút Tháp ta có thể tìm được những bộ phận kiến trúc mang
dấu ấn Trung Hoa một cách đậm nét nhất, đó là hàng lan can bao quanh tòa
Thựợng Điện, lan can cầu đá, rào vây tháp đá Báo Nghiêm, một vài kiến trúc
ở tòa Thượng Điện.
Ngay cả lối bố trí kiến trúc công trình theo kiểu "nội công ngoại quốc" một
cách đăng đối, chặt chẽ. Ảnh hưởng của kiến trúc Trung Hoa có lẽ thể hiện rõ
nét nhất là ở cầu đá và tháp Báo Nghiêm. Cầu được tạo dáng cong vồng lên.
Đường thông thủy phía dưới được xây theo hình vòm cống bằng đá hình múi
bưởi, đó là kỹ thuật xây cất Trung Hoa, giống như kỹ thuật xây mộ cổ Trung
Quốc mà ta thường gọi là mộ Hán.
Mảng kiến trúc ở phần cuối chót lan can của hai bên cầu càng thể hiện rõ nét
hơn, nó hoàn toàn giống với bộ phận có chức năng tương ứng với bộ phận đi
vào Đạt Ma Động trong chùa Thiếu Lâm Tự (Nam Trung Hoa). Hình dáng và
các bộ phận kiến trúc ở tháp đá Báo Nghiêm cũng khiến chúng ta nghĩ đến
Trung Hoa trong kiến trúc tháp.
Nếu đi sâu vào kiến trúc ở tháp đá này, chúng ta sẽ thấy một phần của tháp
là một chiếc "đình" bát giác Trung Hoa với các bộ phận kiến trúc đặc trưng
cho kiến trúc Trung Hoa đó là các "quản lạc" nằm dưới các mái hiên, đỡ các
7
quản lạc này có các "tước thế". Trong kiến trúc Việt thế kỷ XVII chúng ta
chưa gặp các cấu kiện kiến trúc này.
Song rõ ràng, những yếu tố mang đậm dấu ấn Trung Hoa trong kiến trúc đã
kết hợp được một cách hài hòa với các yếu tố văn hóa truyền thống của người
Việt. Sự phối hợp này không tỏ ra khiên cưỡng mà trái lại, nó thể hiện được
sự hòa nhập, ăn ý.
Kiến trúc chùa vẫn dùng khung gỗ chịu lực nhưng nền bệ lan can dùng đá
rất phổ biến, trên có những hình động vật được khắc trông sinh động và độc
đáo.Trang trí được thể hiện ở mọi nơi, trên các chất liệu gỗ và đá, trên kiến
trúc và trên đồ thờ. Trên lan can bao quanh tòa Thượng Điện có 26 bức chạm
khắc trang trí nhiều đề tài. Chúng phân bố cân đối, mặt trước mỗi bên một
bức, hai bên đầu hồi mỗi bên hai bức, mặt sau mười bức không khép kín mà
mở lối đi vào cầu đá.Trên lan can cầu thang đá nối với tòa Tích Thiện Am có
12 bức và ở lan can quanh sân Tháp Báo Nghiêm có 12 bức chạm đá. Như
vậy, tổng cộng số các bức chạm khắc trên đá chùa Bút Tháp là 51 bức chạm
với nhiều đề tài khác nhau, nhưng đều thống nhất với nhau ở mặt chất liệu,
phong cách và như vậy, thống nhất về niên đại.
Hình ảnh chạm khắc ở đây sống động, tươi vui, hàm chứa ý nghĩa đạo phật
và đặc biệt mang đậm tính chất nghệ thuật thiền. Tất cả các bức chạm tập
trung về đề tài cỏ cây hoa lá như: sen, cúc, trúc, lan, tùng, các loại động vật
như: ngựa, dê, trâu, khỉ, hổ, cá, cò và những linh vật: rồng, long mã...
Với một tổng thể hài hòa bởi các tòa nhà được kết hợp giữa gỗ và đá tạo cho
chùa Ninh Phúc một vẻ đẹp vừa hoành tráng cá biệt vừa giản dị mà trang
nghiêm và nổi trội lên trong toàn cục đó là tòa nhà Cửu phẩm liên hoa.
Nhưng xung quanh "cối xay gạo" (tòa Cửu phẩm liên hoa) này còn nhiều điều
cần bàn tới về lịch sử và kiến trúc. Đó là một cây tháp gỗ 9 tầng, 8 mặt, có thể
quay tròn quanh một trục. Tháp đặt nhiều pho tượng Phật, Bồ tát và trang trí
nhiều mảng phù điêu lấy đề tài trong Phật thoại.
Theo Bắc Ninh phong thổ tạp kí được viết dưới thời Nguyễn thì chùa Ninh
Phúc từng được tổ thứ 3 phái Trúc Lâm Yên Tử là Huyền Quang đến thăm và
cho dựng tòa Cửu phẩm liên hoa. Nhưng toàn bộ kiến trúc, mỹ thuật, niên đại
và tôn giáo cho các thức giả nhận đoán chùa được dựng vào thế kỷ XVII, tức
là chùa được xây dựng vào giai đoạn tổ Chuyết Chuyết sang lánh nạn ở nước
8
Nam và được vua Lê chúa Trịnh cùng hoàng thân quốc thích sùng tín mà tòa
Cửu phẩm liên hoa cũng được xây dựng trong các đợt tu tạo.
Cửu phẩm liên hoa là cái tên được dân ta quen gọi theo tên bia là nhà “ Tích
thiện am” .Tòa nhà Cửu phẩm liên hoa cao khoảng 7 mét, với 12 mái cong,
chồng diêm 3 tầng, các hàng cột giữa cao to nâng các tầng trên, cùng với kiểu
thức vì kèo chồng giường tạo nên sự vững chắc, thoáng đãng mà nhẹ nhàng.
Trong nhà là tòa Cửu phẩm liên hoa cao chín tầng, với 32 bức chạm khắc tỉ
mỹ và công phu về nghệ thuật và hàm ý đạo giáo, thể hiện ý nghĩa mỗi tầng là
một cảnh giới siêu thoát. Tín chủ mỗi lần xoay tháp tụng niệm danh Phật thì
vãng sanh tịnh độ, mà được siêu sinh lên thế giới cực lạc, thế giới Di lặc, cõi
vô sinh vô tử siêu thoát Niết bàn. Trong tổng thể kiến trúc, tòa Cửu phẩm liên
hoa mang một vẻ đẹp tượng trưng bởi sự dung hòa các tông giáo, kết hợp
Tông giáo Tịnh độ trong việc thờ Di Lặc, tôn giáo Thiền tông và Tông giáo
Mật tông trong thể nghiệm ý tưởng mà ý nghĩa của nó hiện trên các bức ván
chạm trổ.
Như trên đã nói tòa Cửu phẩm liên hoa được dựng từ thời Trần bởi thiền sư
Huyền Quang, nhưng chứng liệu chỉ là dựa trên một cuốn sách ghi chép vào
thời Nguyễn. Nhưng căn cứ theo văn bia tại tháp Tôn Đức phía sau chùa tạo
năm 1739 thì chùa được Thiền sư Tính Hài "hưng công tu sửa trang hoàng, tô
dựng tượng vàng", đồng thời "việc dựng các tòa điện Phật cùng tòa Cửu
phẩm liên hoa đã hoàn thành viên mãn", với sự trợ duyên của Thái Tôn Thái
Phi Trương Thị Ngọc Chử hiệu là Diệu Khoan và con gái là Phương Hoa
Thân Trưởng Thượng Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Cơ hiệu là Diệu Huy cùng
Tỳ Khưu ni là Diệu Viên và các tín thí cúng dàng công đức. Như vậy tòa Cửu
phẩm liên hoa được dựng lại năm 1739 và có quy mô kiến trúc cho đến ngày
nay.
Từ các cứ liệu trên cho chúng ta biết về niên đại của tòa Cửu phẩm liên hoa
trong tổng thể kiến trúc và lịch sử ngôi chùa.
Sau Tích Thiện am là ba nếp nhà song song. Đó là nhà Trung, nhà Phủ thờ
(có tượng Thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc, Công chúa Lê Thị Ngọc Duyên và
Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Cơ) và nhà hậu đường thờ tượng tổ sư các đời.
Bên trái chùa còn có nhà tổ đệ nhất, thờ Thiền sư Chuyết Chuyết
9
Cảm quan kiến trúc và mỹ thuật với các đường cong mái vút và độ cao tòa
Cửu phẩm liên hoa cũng như sự điểm xuyết của các tháp trong một tổng thể
tạo nên không gian hài hòa đầy sức biểu cảm cho chốn Thiền lâm bảo sái. Bút
Tháp trang nghiêm tĩnh lặng đầm ấm và bao bọc khép kín, mang dư âm của
một vùng văn hóa, một vẻ đẹp còn mãi trong lịch sử và tương lai.
Phương hướng và thế đất
Toàn bộ kiến trúc của chùa quay theo hướng Nam, một hướng truyền thống
của người Việt. Người Việt xưa có câu: "lấy vợ hiền hòa, làm nhà hướng
Nam". Đối với đạo phật, hướng Nam là hướng của trí tuệ, hướng của bát nhã,
nhờ có trí tuệ chúng sinh mới đáo bỉ ngạn (đến bến bờ giải thoát- niết bàn).
Theo sách “ An Tượng Tam Muội Tập” về cách chọn đất đã quan niệm:” Đất
tốt là nơi đất bên trái trống không, hoặc có sông ngòi, hồ ao ôm bọc. Núi hổ
(hay tay hổ) ở bên phải phải cao dày, lớp lớp quay đầu lại hoặc có hình hoa
sen, tràng phướn, lọng báu, hoặc có hình rồng phượng, qui, xà chầu bái. Đó là
đất dương cơ ái hổ (nền dương có tay hổ) vậy. Cũng lại nên cưỡi đảo lại (đảo
kị), như là người cưỡi ngựa thì đầu ở phía trước. Nước thì nên chảy quay sang
trái. Nếu đảo kị, thì mạch nước lại vào ở phái trước. Trước mặt có minh
đường hay không có minh đường đều được cả. Phía sau không nên có núi áp
kề thế là đất tốt…Nếu được như thế mới có thể hưng hiển được đạo pháp,
người trụ trì nảy sinh trí tuệ, người thí chủ có công đức lớn, phúc ấm đến con
cháu. Nếu không làm như thế thì về sau tất mau chóng đổ nát, không có công
đức gì. Cho nên hãy cẩn thận”. Phải chăng thế đất hình hoa sen này là bông
sen nghìn cánh mà khi đạt tới thì con người sẽ đạt được lậu tận thông, trí sáng
suốt vô cùng vô tận, hiểu biết được tất cả sự huyền bí của vũ trụ.
Chùa nằm trên một khoảng đất rộng bên bờ phải sông Đuống, sát cạnh
đê, ngay chố lượn dòng của con sông mà theo quan niệm thì đó là nơi “ tụ
thủy”- chỗ đất lành. Ngay trong tên gọi của chùa là Ninh Phúc cũng đã ẩn
chứa sự yên lành, tốt phúc. Phong thủy của chùa phản ánh sự kế thừa về
truyền thống xây dựng chùa của người Việt, thể hiện ước vọng sao cho Phật
pháp được bền lâu, nhà tu hành được yên nghiệp, tâm linh sáng suốt để mau
chóng đạt được chứng quả.
2. Cảnh quan môi trường
10
Kiến trúc chùa được bố trí cân xứng, chặt chẽ ở khu vực trung tâm, nhưng
lại rất tự nhiên vơí cảnh quan xung quanh.
Ngoài Tháp Bảo Nghiêm, chùa còn có tháp Tôn Ðức 5 tầng, cao 10m là nơi
thờ thiền sư Minh Hành, vị tổ thứ hai của chùa. Điều đặc biệt là trên đỉnh tháp
vẫn có cây cỏ phát triển.
Nối giữa Thượng điện (Thế giới Phật Pháp lòng thành được nhận) và Tích
thiên Am (Nơi cầu mong để được siêu thoát) là chiếc Cầu đá cong (Vượt qua
cầu đã cao xa giữ sạch bụi trần) bắc ngang qua hồ nước tinh khiết.Đây là một
tích của nhà Phật – nơi đi qua cửa Phật rũ sạch bụi trần. Bên dưới cầu là hoa
sen, hoa sung thơm ngát, chen giữa màu xanh cây lá là những nhịp cầu đá
chạm trổ tinh xảo, thần tình và hài hoà những sư tử, nghê, hoa lá. Đứng trên
cầu ta có thế ngắm những nét đẹp riêng của cảnh chùa. Cầu dài 4 m gồm 3
nhịp uốn cong vồng, mặt cầu lát đá xanh trơn nhẵn, hai bên cầu có 12 bức lan
can đã được chạm khắc rất công phu, tinh xảo và bố trí rất hợp lý. Ngồi ở vị
trị này, ta có thể nhìn ngẵm được những nét đẹp rất riêng của chùa. Rất nhiều
bạn trẻ đến với chùa đã chọn chiếc cầu đá làm nơi lưu lại những hình ảnh kỉ
niệm.
Tháp Bảo Nghiêm, tọa lạc ngay giữa khu vườn yên tĩnh ngập tràn bóng cây
với hương bưởi thơm ngát trên đỉnh có hình nậm rượu, 5 tầng, 8 mặt, cao
13m, thờ hòa thượng Chuyết Chuyết, vị sư tổ của chùa. Ngày nay, Bảo
Nghiêm vẫn uy nghi in bóng nên nền trời xanh ngắt đầy uy nghiêm.Đến với
chùa là đến với một điểm du lịch mang tính nhân văn cao. Trong chùa, có
nhiều cổ vật quý giá, nhiều tháp to, nhỏ rất đẹp mà ở những tháp ấy là nơi đặt
xá lị của các thiền sư xưa.Tham quan cảnh chùa như một bức tranh tuyệt mỹ
vẽ lên trong khung cảnh đồng ruộng bao la. Những mái ngói bồng bềnh, nhấp
nhô
giữa
mầu
xanh
của
cây
lá:
Bút Tháp đẹp như một bức tranh bởi phong cảnh làng quê, đồng ruộng và lối
kiến trúc tinh xảo đượm màu cảnh giới. Mái ngói chùa cong rêu phong cổ
kính nhấp nhô giữa màu xanh cây lá. Đến Bút Tháp giữa trưa, du khách sẽ
cảm nhận được một không gian mát mẻ và thanh tĩnh đến lạ kỳ.
Trong chùa nhiều loại cây : hoa đại, hoa sen, mẫu đơn ., đặc biệt là hoa cau những dãy dài hun hút, than cau cao, mốc thếch trải một màu xanh mát giữa
những hàng lan can đá xanh trạm khắc rất hữu tình. Những nghê, rồng, loan,
phượng xen lẫn cỏ cây, hoa lá sinh động phiêu dạt thổi hồn vào đá. Người
11
Việt tâm linh ngắm cảnh chùa lòng thấy tĩnh tại. Nghĩ đến một điều gì đó xa
xăm, phải chăng là tâm linh …
“Mênh mông biển lúa xanh rờn
Tháp cao sừng sững trăng rờn bóng cau
Một vùng phong cảnh trước sau
Bức tranh thiên cổ đượm mầu nước non”.
3. Kết cấu bộ khung gỗ toà nhà chính và chú thích tên gọi( vẽ kiểu nhà
Bái Đường )
3.1
Kết cấu bộ khung gỗ tòa nhà chính.
Tam quan
Có kết cấu ba hàng chân, có bẩy ngang, vì chồng rường cánh .
Gian Bái Đường:
Đây là tòa nhà 5 gian và hai chái. Các bộ vì ở đây có kết cấu bốn hàng chân cột
3.2
Bản vẽ kết cấu bộ khung gỗ gian Bái đường và chú thích
12
4. Mô tả mái ngói, đầu đao, bờ nóc, bờ dải
Trên thực tế không có ai kì công ngồi phân biệt, chia nhóm, sắp xếp cho
các mái đao của chùa bao giờ, cũng không có cái quy chuẩn thống nhất nào
cho các chi tiết của mái đao chùa nhưng có thể tạm phân chia mái đao thành 2
loại dựa vào thời gian là: mái đao cổ và mái đao hiện đại:
Mái đao cổ là mái đao của những ngôi chùa cổ đã được xây dựng từ vài
trăm năm trở lên, những mái đao này có những nét chung tiêu biểu cho kiến
trúc chùa chiền cổ như: được làm bằng chất liệu gỗ, vật liệu xây dựng cổ;
thường có hình cuộn mây hay rồng; đầu mái đao thường quay vào trong; nét
tạo hình thanh thoát, hài hoà...
Mái đao hiện đại là những mái đao của các ngôi chùa được xây mới gần
đây. nét đặc trưng thường thấy là được xây bằng xi măng, vữa; đầu hướng ra
ngoài; có sự học tập, vay mượn nhiều của các công trình trong và ngoài
nước : chi tiết rườm rà ,…..
Phong cách xây dựng đình, chùa ở Việt Nam chịu ảnh hưởng và có lẽ bắt
nguồn từ cách xây dựng các công trình này của Trung Quốc. Trong những thứ
chịu ảnh hưởng đó thì có cả phần xây dựng các đầu đao ở các góc mái đình,
mái chùa. Tuy có sự "sao chép" nhưng các nghệ nhân Việt Nam xưa đã có sự
"cải tiến", cũng chính ở phần đầu đao này.Có thể thấy là đầu đao "Trung
Quốc" rất đơn giản, không được trang trí hoa văn nhiều. Phần mái chùa được
xếp thẳng, khi đến gần góc đầu đao thì hầu như không có sự chuyển tiếp mà
giống như có 1 "nếp gấp" và phần mái ở góc được "gấp" dựng đứng lên.
Chính vì có "nếp gấp" này mà đầu đao Trung Quốc luôn hướng thẳng ra
ngoài. Mái chùa Việt Nam được tạo hình xếp thành một đường cong uốn lượn
ở góc mái, tạo cảm giác mềm mại chứ không "cứng" như mái chùa Trung
Quốc. Cùng với nét uốn mềm mại của mái chùa thì đầu đao theo đó được uốn
cong lượn vào phía trong. Thêm vào đó là những nét trang trí đặc sắc cho đầu
đao Việt Nam mà chùa Trung Quốc không hề chú trọng.
Không chỉ nhằm mục đích thẩm mỹ khi thiết kế mái đình, chùa uốn lượn và
đầu đao uốn vào phía trong, các nghệ nhân Việt Nam xưa còn nhằm đạt tới
nhiều mục đích khác:
- Mái chùa cong lên đều và lượn lên ở góc sẽ tăng khả năng tiếp nhận ánh
sáng từ phía các góc mái. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng ở Việt
13
Nam vì khí hậu nóng ẩm quanh năm, cần có nhiều ánh sáng để các vật dụng
không bị ẩm mốc.
- Cũng vì mái chùa nhô ra và cong lên ở góc nên cần có 1 bộ phận để giữ
phần góc mái. Không thể đưa cột chống, cũng không thể đưa xà ngang để đỡ
phía dưới, các nghệ nhân Việt Nam đã sử dụng chính đầu đao làm "tay kéo"
phía trên mái, vừa trang trí vừa làm vững chắc cho mái chùa. Mái chùa Trung
Quốc không cong lên nên họ cũng không phải quan tâm việc chăm chút góc
mái, và vì vậy bỏ qua đầu đao.
Đi sâu vào nghiên cứu chùa Bút Tháp ta có thể nhận thấy cũng như các chùa
Việt Nam khác,mái ngói của chùa trải rộng ra, bao phủ toàn bộ không gian
tạo cảm giác ngôi chùa rất rộng. Đầu đao cong uốn lượn bồng bềnh duyên
dáng, trên kiến trúc là những bức chạm trổ tinh xảo nghệ thuật.
Kiến trúc chùa vẫn dùng khung gỗ chịu lực nhưng nền bệ lan can dùng đá
rất phổ biến, trên có những hình động vật được khắc trông sinh động. Qua
cửa Tam quan, đến gác chuông hai tầng, tám mái.
Giống như những ngôi chùa đất Bắc khác, mái chùa Bút Tháp không cao,
cửa điện không rộng, khiến người ta phải cúi mình, nhấc chân cẩn thận trong
từng bước đi, cử chỉ, lời nói, ánh mắt. Ở góc, người ta muốn nâng mái cao lên
vì vậy người ta xây thêm cột chốn. Gian Bái Đường rất lớn, tuy có bốn chân
nhưng cột cao vì thế mái dốc nên có thể kéo dài được. Ở giai đọan thế kỷ
XVII, thường cấu trúc vừa có bốn hoặc sáu hàng chân. Còn trước đó thời nhà
Trần, chỉ còn lại bốn hàng chân. Vì chùa Bút Tháp được xây dựng từ thời nhà
Trần nên tất nhiên được xây dựng theo cấu trúc bốn cột trụ. Giữa hai cột cái
có câu đầu. Trên câu đầu có giá chiêng để đỡ thượng lương. Hai bên cột cái là
hai cột quân không có xà nách mà chạy chéo gọi là kẻ.Toàn bộ tam giác trên
đó gọi là vì kèo, do khônh có xà nách nên không có bẩy vì vậy kẻ kéo dài đều
theo đầu mái. Trọng lượng của mái rất nặng vì được lợp ba tầng ngói. Các
viên ngói được xếp đan xen khăng khít.Trọng lượng từ thượng lương chuyển
sang hai cột chốn của giá chiêng chuyển trọng lượng xuống cho tòan bộ câu
đầu. Hai bên câu đầu phải rất cân. Nó sẽ chuyển tiếp trọng lượng vào đầu
những cây cột. Như vậy, cột đóng vai trò công năng đỡ toàn bộ mái này, có
bao nhiêu cột thì phải chia trọng lượng mái ra cho các cột. Cột đỡ phải là cột
đứng sẽ không bị bẻ cong, nếu nằm ngang thì dù là bê tông cốt thép nếu
không đủ thong số kỹ thuật cũng sẽ bị bẻ cong. Cột cái bao giờ phải là cột to
14
nhất vì phải đỡ nặng nhất trọng lượng của mái chùa. Sau đó đến cột quân, cột
con. Cột con chỉ đỡ trọng lượng của mái hiên. Trước đây, những cột chốn này
được làm bằng gỗ, nay được làm bê tông mới đỡ được sức nặng của mái
chùa.
Mái chùa lợp ba lớp ngói, lớp cuối là lớp ngói bản, lớp trên tận cùng là
những miếng ngói có thể bị vỡ, lớp trên cùng là ngói mũi hài. Lối lợp ngói là
lối lợp vảy rồng, lợp so le. Rất thuận lợi khi thời tiết mưa gió vì khi trời mưa
mái không bị nặng và nước mưa có thể chảy theo nhiều hướng.
Đầu đao của chùa được cham khắc các hình con rồng và đầu phượng. Có
bốn đầu đao tạo cho người xem có cảm giác mái chùa nhẹ nhàng hơn.
Bờ dải từ nóc chạy ra đầu đao, có hàng gạch bít kín.Trên bờ dải thường
được chạm khắc hình thù một con vật có bốn chân.
III- NGHỆ THUẬT ĐIÊU KHẮC TƯỢNG THỜ
1. Vị trí các pho tượng thờ trong chùa
2. Nội dung các pho tượng thờ chính trong chùa làng
Ở VN ta các chùa thường hay thờ Phật, thờ Tổ, thờ Thánh. Cách bài trí các
tượng chư Phật, chư Bồ Tát, ở trong chùa tuy cũng có công thức và ý nghĩa rõ
ràng.
•
Bộ tượng Hộ Pháp
Bước chân vào chùa, nhân vật đầu tiên ta gặp không phải là nhân vật quan
trọng,tối thượng nhất của đạo Phật. nhân vật mà mọi người sẽ ( có thể ) gặp
đầu tiên là 2 nhân vật rất quan thuộc, hẳn ai cũng đã từng nghe tên, từng biết,
và đây có lẽ là nhân vật được hầu hết mọi người phân biệt được trong hệ
thống các nhân vật được thờ trong đình chùa đó là 2 ngài hộ pháp : hộ pháp
trừng ác và hộ pháp khuyến thiện , tên dân gian quen gọi là : ông thiện và ông
ác được đặt đối xứng hai bên trong nhà Bái Đường.
Đặc điểm chung của 2 ông: bao giờ cũng được tạc rất to, có thể là to nhất
trong cả hệ thống tượng trong chùa có thể đứng hoặc ngồi, có thể có con lân
hay sư tử kèm theo, tay thường cầm binh khí hoặc linh khí, tượng thường có
những dải lụa xung quanh mình - thể hiện sự thần thông nhưng cũng tạo tính
mỹ thuật và được làm bằng đất sét, giấy bồi, hoặc gỗ. Hơn nữa nhìn rất dễ
15
phân biệt, ông Ác mặt đỏ, cầm binh khí, dáng dữ tợn, ông Thiện cầm linh khí
( binh khí ) mặt trắng ( hồng ) dáng hiền
Có thể thấy hai ngài hộ pháp ở chùa Bút Tháp rất đẹp và sinh động. Nếu
như ở Chùa Dâu, 2 vị hộ pháp ngôi thẳng chân thì ở đây 1 chân thẳng 1 chân
co gác lên đầu con sư tử vì thế hình tượng con sinh động hơn.Tay giơ lên vì
vậy tà áo bay phấp phới. Bàn tay trên dưới có cử động khác nhau trông phong
phú hơn sinh động hơn.Tất cả hộ pháp đều làm bằng đất sét có phủ sơn ta ra
bên ngoài lên giữ được lâu.Tất cả đều làm vào thế kỷ 18 không có pho nào
được làm trước thế kỷ 18 cả.Tượng hộ pháp trừng ác ở chùa Bút Tháp mới
được sơn son thiếp vàng, tu sửa lại cho nên nhìn mới hơn, đẹp hơn. Một tay
cầm quả chuỳ, 1 tay để trên đầu con sư tử tà áo bay phấp phới, sắc mặt và
khuôn mặt dữ tợn.Cả hai ông đều mặc áo giáp trụ.
Ngoài hai ông thiện và ác, ta sẽ được nhìn thấy tượng Đức Ông và Đức
Thánh Hiền . Có thể nhận thấy rất rõ ban thở Đức Ông ở mỗi nơi rất khác
nhau. So với ban thờ Đức Ông ở chùa Dâu, Đức Ông ở chùa Bút Tháp trông
có vẻ oai phong hơn, vị thế xã hội cao hơn, tay cầm con dao trên có ngọn tre.
Theo sử sách ghi lại, Đức ông là người bở tiền ra tậu ruộng tậu đất dâng hiến
cho đức phật để xây chùa làm nơi truyền thụ phật pháp.Vì vậy khi vào chùa ta
lễ bàn thờ này trước có hai ý nghĩa.Thứ nhất là bày tỏ lòng biết ơn ông, nhờ
ông mà ngày nay ta có lơi lễ chùa. Thứ hai đây là tài sản của ông, ta phải vào
đây cám ơn ông ta là người đã mở đầu cho việc cung tiến tiền của tài sản
ruộng nương cho nhà chùa.Vì thế thời Lý nhà chùa rất giàu, thậm chí hoàng
tộc nhà Lý không đi tu vẫn dâng hiến của cải vật chất cho đức phât. Ngày nay
dựa vào những người có lòng mộ phật đi theo phật.Vì thế những người công
đức là tứ phương.Đức Thánh tăng là một vị cao tăng. Cũng như Đức Ông và
hai ngài hộ pháp không có pho nào giống pho nào nên ở đây hai bàn tay giơ
lên làm cho dáng đẹp hơn. Trên thực tế tượng Đức Thánh Hiền ở đây cũng rất
đẹp.
•
Bộ tượng Tam Thế
Bộ tượng Tam Thế chùa Bút Tháp là bộ tượng đẹp nhất bày cao nhất - biểu
tượng cho cõi Niết bàn tuyệt đối bất sinh bất diệt.Bộ tượng này thuộc loại
tượng lớn, riêng tượng cao 175 cm, kể cả đài sen và bệ tới 270 cm.Mặt tượng trở
nên tròn hơn và do đó càng đầy đặn, mình vần mập mạp, đều ngồi bán kiết để
chân phải ngửa lòng trên bắp vế chân trái, áo cà sa mở rộng hai tà để lộ rõ bộ
16
ngực đeo dây anh lạc nhiều chi tiết khá diêm dúa . Ba bức tượng có ba thế tay
khác nhau. Phật ở giữu là phật hiện tại, đang tu hành, tay trái đõ lưng bàn tay
phải, hai đầu ngón tay chụm vào nhau, bàn chân lật ngửa lên đặt trên đùi .
Thế tay gọi là Muđra: thế thiền định. Bên tay phải Phật hiện tại là Phật quá
khứ, bên tay trái là Phật tương lai đều có thế tay khác nhau. Tượng ngồi trên
tòa sen được làm kỹ với những cánh chẳng những viền thành cánh sen cuộn
đầu mà còn có cả cụm mây đao. Đặc biệt phía sau tượng có vòng hào quang
mang hình một lá đề, bên trong có băng diềm trang trí hoa dây, sau gáy tượng
là hình tròn thếp vàng với nhiều điểm vạch ở xung quanh, phía trên đỉnh vòng
sáng có đôi chim liền cánh hay con chim hai đầu, ở vòng hào quang pho giữa
chim có hình đầu người, là loại chim thiêng biết giảng đạo lý nhà Phật, mang
tên là Cọng Mạng, Sanh Sanh hay Mạng Mạng. Cũng cần thấy bệ tượng
vuông chém góc dưới đài sen ngoài những ô hoa trang trí, ở mỗi góc bệ phần
dưới còn có tượng con quỷ nhỏ dáng người vừa dữ tợn vừa hài hước trong thế
dạng chân giơ tay đỡ tầng bệ trên. Bệ tượng này hẳn được làm vào khoảng
giữa thế kỷ XVII.
•
Bộ tượng Tam Thân
Do có thêm một bộ tượng Tam Thế nữa nhưng không thể huỷ pho nào được
cả, không thể vất đi được . Trong đạo Phật rất kiêng việc đốt Tượng phật đi
( gọi là hoá ) vì vậy người ta có thể bầy thêm ở hàng thấp hơn. Ba pho tượng
ở hàng thấp hơn này giống nhau. Vì vậy ta có thể kết luận thời gian cham
muôn vào khoảng thế kỷ XVIII trở đi.Những pho tượng này rất giống nhau vì
vậy không thể phân biệt đâu là phật hiện tại, đâu là phật quá khứ, đâu là phật
tương lai. Chỉ có thể phân biệt qua chỗ ngồi ta có thể đặt ông này vào giữa,
dặt ông giữa sang bên cạnh không sao cả. Tất cả các pho tượng đều được làm
bằng gỗ sơn son thiếp vàng. Chất liệu gỗ được chọn thường là gỗ mít: rất bền,
không bị nứt, không bị mối mọt, mền dễ chạm.
•
Toà Cửu Long
Theo truyền thuyết, khi mới sinh ra, Tất Đạt Đa Cồ Đàm đi 7 bước, dưới
chân nở ra 7 đóa hoa sen đỡ chân, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất,
nói rằng : "Thượng thiên hạ địa, duy ngã độc tôn" (trên trời dưới đất, ta là tôn
quý nhất). khi đó có 9 con rồng phun nước tắm cho Phật sơ sinh, các tầng trời
mở ra và chư thiên cùng mừng rỡ, các cõi Phật trong quá khứ hoan hỉ.
17
Ở Việt Nam, hình tượng này được tạo thành một tòa gọi là Cửu Long, có 9
đầu rồng hiện ra xung quanh tượng Thích Ca Sơ Sinh. Tùy chùa mà tòa Cửu
Long to hay nhỏ, cầu kì hay không. Tòa lớn thì đủ 9 rồng, vô số thần thánh,
chư phật ở xung quanh. Chùa nhỏ thì sơ sài đơn giản hơn.
Cũng như cách bố trí ở tất cả các chùa ở Việt Nam, Tòa Cửu Long của chùa
Bút Tháp được đặt ngay sau hương án chính, ở tầng thấp nhất, bên dưới các bộ
Tam tôn. Phía trước trên cùng là tượng Thích ca sơ sinh. Ở hai bên mỗi một
tượng chỉ có hình tượng Thích Ca Sơ Sinh là quy định giống nhau còn vầng
hào qiang có chin con rồng phun nước cho Phật tắm thì không giống nhau. Mỗi
nơi họ làm một kiểu vì không có sự quy định. Ngoài nguyên tắc là chin cái đầu
rồng với ý nghĩa là chin con rồng phun nước cho phật tắm, thì trên vầng hào
quang ngoài tượng Thích Ca ra ta không thấy các vị tượng khác nữa không như
một số chùa khác.
•
Thị giả :
Là pho tượng được làm từ một cây gỗ mặc yếm, thắt lưng bao xanh. Nếu cây
gỗ to thì tượng to, còn cây gỗ nhỏ thì tượng nhỏ. Cụ thể khi nhìn vào đài sen và
bệ ở bên dưới có thể thấy nó vừa bằng một thân gỗ tròn, cho nên có thế nào
người ta chạm thế đó. Ở pho tượng này ta thấy tính dân gian biểu hiện rất rõ
nét. Vì tính chất dân gian này cho nên hình tượng pho tượng tuy không tỷ lệ
nhưng rất sinh động. Hai pho tượng này đã từng bị mất nhưng sau đó công an
đã tìm lại được chứng tỏ hai pho tượng cũng rất có giá trị.
•
Tượng Quan Âm nghìn tay nghìn mắt
Đáng chú ý nhất ở chùa là tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay nổi tiếng do
nhà điêu khắc họ Trương tạc năm 1656. Nó cho ta biết nhiều nét về quan điểm
thẩm mỹ, nhân sinh quan và vũ trụ quan của người Việt thời Hậu Lê, nửa sau
thế kỷ 17. Trên bệ tượng ghi: Nam Đông Giao, Thọ Nam - Trương tiên sinh phụng khắc (tạm hiểu: Nam Đông Giao là địa chỉ, Thọ Nam là tên hiệu,
Trương là họ, tiên sinh là bậc trí giả, phụng khắc là phụng mệnh trời đất dựng
tượng để thờ). Theo quan niệm của một số nhà nghiên cứu, chữ "phụng khắc"
được dịch là khắc theo ý chỉ của nhà vua (nhưng nếu phụng mệnh vua mà khắc
thì tượng phải để ở kinh đô, trong khi đó pho tượng này lại được thờ ở một
ngôi chùa).
18
Dù thời gian đã làm tróc lớp sơn, thếp vàng trên tượng nhưng không làm mất
đi sự duyên dáng của từng cánh tay, trên nét mặt thanh thản của Phật bà, của
vầng hào quang tạo bởi nghìn cánh tay và nghìn con mắt. Đây là hiện thân của
sự thấu hiểu nỗi khổ và cứu độ chúng sinh trong Phật pháp. Pho tượng có 42
cánh tay lớn và 958 cánh tay nhỏ.Theo kinh Phật và những truyền thuyết dân
gian thì Đức Quan Thế Âm Bồ Tát tu luyện được tất cả các phép thần thông
quảng đại, thường hay biến hiện ra nhiều sắc tướng để trừ khổ ải cho chúng
sinh. Trong các vị Quan Thế Âm Bồ Tát, theo danh hiệu và sắc tướng có một
số danh hiệu sau đây: Quan Thế ÂmVô Úy, Nam Hải Quan Thế Âm Bồ Tát,
Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát, Chuẩn Đề Quan Âm, Phật Bà
Quan Âm. Trong 5 vị trên Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát là vị
Phật thần thông quảng đại hay ra tay cứu độ chúng sinh: không đâu Bà không
thấy, không việc gì Bà không làm được. Do vậy Bà có sắc tướng là vị Phật
nghìn mắt nghìn tay. Vào viếng các ngôi chùa, ta thường thấy các tượng Phật
đứng hay ngồi mà có nhiều tay, nhiều mắt... đó chính là những pho tượng thờ
Bà. Theo truyền thuyết, Quan Thế Âm Bồ Tát muốn mình phổ độ đựơc chúng
sinh, muốn đến được mọi nơi mọi chốn vì thế Bà quyết định đâp vỡ cái đầu của
mình ra chia cho các vùng miền thờ phật. Adiđa thương tình đã nhặt lại những
mảnh vỡ ấy chắp lại thành 11 cái đầu ( tầng mặt lớn nhất là 3, 2 tầng trên mỗi
tầng là 3, 2 mặt nữa trên cùng tổng là 11 )
Pho Quan Âm thiên thủ thiên nhãn được gọi là "Tập đại thành của nền điêu
khắc Việt Nam", vì dường như hội tụ đủ cả trời đất. Đại Bồ Tát ngồi trên tòa
sen do một con rồng đỡ lên từ mặt biển nổi sóng, sâu bên dưới là bốn bức
tượng nhỏ tượng trưng cho tầng địa ngục. Giữa lòng đức Bồ Tát là hình tượng
mặt trăng tròn vẹn, hai tay chắp trước ngực thể hiện hạnh nguyện vô lượng.
Ngang hai bên mặt chính của tượng là hai mặt khác, tượng trưng cho quá khứ,
tương lai. Các đầu tượng đều có khuôn mặt của phụ nữ đôn hậu, tóc chải ngược
lên đỉnh búi thành cuộn, mắt hé mở nhìn xuống, tai tượng lớn và dày, đeo hoa
tai là bong sen nở.Cổ tượng cao ba ngấn.
Theo những nghiên cứu mỹ thuật Việt Nam và lịch sử Phật giáo thì pho
tượng bằng gỗ chạm, sơn son thếp vàng đầu tiên thờ Đức Thiên Thủ Thiên
Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát (dân gian quen gọi là là Quan Âm nghìn mắt nghìn
tay) được nghệ nhân Trương Văn Thọ chạm khắc vào năm Bính Thân (1656),
cao 3,45, đặt thờ tại chùa Bút Tháp . Tượng thể hiện lòng tin tuyệt đối vào sự
toàn năng của Phật Bà Quan Âm: nhìn thấy, xem xét được mọi sự việc, sự vật
ở khắp mọi nơi, cứu vớt, cứu khổ mọi người trong mọi lúc... Nghệ nhân đã
19
thành công trong cách bố cục và diễn tả để pho tượng được tự nhiên, cân đối
giữa thân người và 21 đôi tay mềm mại xung quanh. Các đôi cánh tay lớn như
đang múa, các cánh tay nhỏ được sắp xếp theo vầng hào quang tỏa sáng xung
quanh. Trên mỗi lòng bàn tay đều có hình con mắt thể hiện ''nghìn mắt''. Phần
bệ tượng thể hiện ''bể khổ trần gian'' với nhiều sóng gió. Con ác thú đội tòa sen
và người đội bệ tượng là những kẻ ác bị trừng phạt và được Phật Bà thu phục
làm đệ tử. Riêng hoa văn chạm khắc trên bệ tượng mang nét đặc sắc của hoa
văn trang trí thời Lê như ''Lưỡng long chầu nhật'', ''Song lân chầu nhật'' - trong
đó hình tượng Long (rồng) tượng trưng cho uy quyền của Vua và Lân là biểu
tượng cho sự bền vững của triều đại, của quốc gia... Tượng này được xem là cổ
vật quý của nước ta và là niềm tự hào to lớn của nền mỹ thuật điêu khắc dân
gian Việt Nam trong tiến trình phát triển lịch sử Phật giáo dân tộc.
•
Tượng La Hán
Trong chùa có tất cả 18 pho tượng La Hán . Các pho tượng La Hán chùa Bút
Tháp là những pho tượng rất biến hoá , nét vẽ nét tạc nào cũng rất sống động
và có hồn. Có thể nhận ra một điều là những pho tượng La Hán chùa Bút
Tháp là những tĩnh vật nhưng tượng nào cũng được tả trong những tư thế, cử
chỉ khác nhau, với một tâm linh sâu thẳm .
•
Tượng Văn Thù - Phổ Hiền Bồ Tát
Hai pho tượng này đều là những bức tượng được tạc vào thế kỷ 17.Hầu hết
các chùa có bộ tượng trên và được đặt tương đối đúng chỗ, trong đó bộ tượng
Văn Thù cưỡi thanh sư và Phổ Hiền cưỡi bạch tượng thuộc loại sớm nhất và
cũng đẹp nhất còn lại là ở chùa Bút Tháp.Cặp Bồ Tát Văn Thù và Phổ Hiền là
hai hiệp sĩ của đức Phật Thích Ca Như Lai. Ngài Văn Thù tượng trưng cho trí
- tuệ - chứng, ngài Phổ Hiền tượng trưng cho lý - định - hành. Cặp tượng này
biểu trưng cho lý trí - định tuệ - hành chứng hoàn bị, viên mãn của đức bản
tôn Như Lai. Trên Phật điện, trong bộ tượng Hoa Nghiêm Tam Thánh, ngài
Văn Thù cưỡi sư tử xanh hầu ở bên trái đức Như Lai, ngài Phổ Hiền cưỡi voi
trắng hầu ở bên phải. Cặp Bồ Tát này là hai bậc thượng thủ của hết thảy hàng
Bồ Tát, thường giúp đỡ, tuyên dương cho việc giáo hóa của đức Như Lai.
Chùa Bút Tháp không có tượng Thích Ca Thuyết Pháp (tức Phật Niêm Hoa),
vì thế cặp tượng Văn Thù - Phổ Hiền không dàn hàng ngang ở gian giữa của
Phật điện mà đẩy sang hai gian bên ở vị trí nhìn nhau qua gian giữa. Tượng
Văn Thù ở gian trái, tượng Phổ Hiền ở gian phải. Tượng lớn hơn người thực
20
- Xem thêm -