ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC
....................................
NGUYỄN VĂN HẢI
NGHIÊN CỨU VĂN BIA HUYỆN VĨNH LỘC
TỈNH THANH HÓA
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Hán Nôm
Hà nội 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC
....................................
NGUYỄN VĂN HẢI
NGHIÊN CỨU VĂN BIA HUYỆN VĨNH LỘC
TỈNH THANH HÓA
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Hán Nôm
Mã số: 60 22 40
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trịnh Khắc Mạnh
2
Hà Nội 2012
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
5
PHẦN NỘI DUNG
12
CHƯƠNG 1 KHẢO SÁT HỆ THỐNG VĂN BIA HUYỆN VĨNH LỘC
1.1. Tìm hiểu lịch sử - địa lý huyện Vĩnh Lộc.
12
1.1.1. Lịch sử hình thành tên gọi Vĩnh Lộc.
12
1.1. 2. Địa hình, núi sông.
13
1.1. 3. Giới thiệu một số nhân vật tiêu biểu huyện Vĩnh Lộc.
Thượng tướng quân Trần Khát Chân.
18
1.2. Hệ thống các di tích trên địa bàn huyện Vĩnh Lộc.
34
1.2.1. Vài nét về văn bia Thanh Hoá
42
1.2.2. Khảo sát văn bia huyện Vĩnh Lộc.
49
1.2.3. Phân bố của văn bia huyện Vĩnh Lộc.
52
CHƯƠNG II
TÌM HIỂU ĐẶC ĐIỂM VÀ GIÁ TRỊ CỦA VĂN BIA
HUYỆN VĨNH LỘC TỈNH THANH HOÁ.
2.1. Đặc điểm văn bia huyện Vĩnh Lộc
2.1.1. Tác giả soạn văn bia.
65
65
66
2.1.2. Kích cỡ, độ dài văn bia huyện Vĩnh Lộc
71
2.1.3. Trang trí hoa văn trên bia huyện Vĩnh Lộc
73
2. 2. Giá trị của văn bia huyện Vĩnh Lộc.
82
2.2.1. Văn bia huyện Vĩnh Lộc góp phần nghiên cứu lịch sử.
2.2.2. Văn bia huyện Vĩnh Lộc góp phần nghiên cứu văn hoá.
82
87
KẾT LUẬN
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
PHỤ LỤC
99
103
104
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Thanh Hoá là một tỉnh nằm ở cực bắc của miền Trung, vùng đất có lịch sử
văn hoá lâu đời; trải dài trong lịch trình phát triển của dân tộc, người Thanh Hoá đã
sáng tạo ra nhiều di sản văn hoá Hán Nôm đáng quí, đáng tự hào, trong đó có mảng
tư liệu văn bia. Văn bia ở Thanh Hoá có lịch sử lâu đời, tấm bia sớm nhất ở Việt
Nam hiện nay là Đại Tuỳ Cửu Chân quận, Bảo An đạo tràng chi bi văn 大隋九真
郡寶安道場之碑文 dựng ngày 7 tháng 5 niên hiệu Đại Nghiệp thứ 14 (618)
nhà Tuỳ được phát hiện tại làng Trường Xuân xã Đông Ninh, huyện Đông Sơn là
cứ liệu chứng minh cho sự phát triển lâu đời của văn bia Thanh Hoá. Hơn nữa
Thanh Hoá lại là vùng đất được thiên nhiên ưu đãi cho một hệ thống núi đá vôi có
thể sử dụng làm khánh, làm bia, và sử dụng vào nhiều các công trình kiến trúc đá,
các đồ khí cụ khác. Chính vì vậy mà ngay vào những giai đoạn đầu khi đất nước
mới giành được quyền tự chủ, người xưa đã tạo ra nhiều văn bia ca ngợi về Phật
giáo cũng như quê hương đất nước con người xứ Thanh như: Minh Tịnh tự bi văn
明靖寺碑文 dựng niên hiệu Quảng Hựu thứ 6 (1090) ở xã Hoằng Phúc, huyện
Hoằng Hóa. An Hoạch sơn Báo Ân tự bi kí 安獲山報恩寺碑記 dựng niên hiệu
Hội Phong thứ 9 (1100) ở chùa Báo Ân, núi An Hoạch, huyện Đông Sơn…
Huyện Vĩnh Lộc là một trong những địa phương còn lưu giữ được số lượng
bia đá tương đối dồi dào, đa dạng về kiểu dáng, phong phú về nội dung, hình thức
trang trí. Đi đến xã nào của huyện cũng có văn bia, bia được dựng ở Thành trì,
đình, đền, chùa, phủ, cầu cống, lăng mộ, từ đường, cả những nơi danh lam thắng
5
cảnh hang động. Nội dung ghi chép lịch sử, văn hóa của quê hương, cũng như tâm
tư nguyện vọng của người dân Vĩnh Lộc.
So với các địa phương khác trong tỉnh Thanh Hoá, văn bia huyện Vĩnh Lộc
có lịch sử văn hoá khá lâu đời. Xưa kia bia có niên đại sớm nhất là Ngưỡng Sơn
linh xứng tự bi minh 仰山靈稱寺碑銘 ở chùa Linh Xứng, làng Ngọ Xá (nay
chia tách về xã Hà Sơn, huyện Hà Trung). Bia khắc năm thứ 7 (1126) niên hiệu
Thiên Phù Duệ Vũ đời Lý Nhân Tông Càn Đức, ghi về lịch sử phát triển của Phật
giáo và công lao sự nghiệp của Thái uý Lý Thường Kiệt. Bia hiện nay đang còn
nguyên vẹn, dựng trên tượng rùa, chữ còn khá đẹp, (hiện đang được bảo quản
trong nhà trưng bày của Bảo tàng Lịch sử Việt Nam). Bia muộn nhất là Nguyễn
Cao tộc thụ đức đường chi đệ nhất đại
阮高族樹德堂支第一代 khắc niên
hiệu Bảo Đại 18(1943). Qua lịch sử tồn tại gần 10 thế kỷ, với hình thức trang trí,
nội dung ghi chép, văn bia huyện Vĩnh Lộc góp phần quan trọng vào việc nghiên
cứu văn bản, niên đại, lịch sử tôn giáo và tín ngưỡng của đất huyện Vĩnh Lộc nói
riêng, tỉnh Thanh Hoá nói chung.
Huyện Vĩnh Lộc tỉnh Thanh Hoá là địa phương có nhiều văn bia ma nhai và
văn bia nhà thờ các dòng họ, do vậy từ lâu đã có một số nhà nghiên cứu Hán Nôm
lưu tâm, biên dịch, công bố. Song chỉ dừng lại giới thiệu, công bố lẻ tẻ, chưa có
công trình nghiên cứu một cách có hệ thống về những thông tin chính xác về số
lượng văn bia tại địa phương, các thác bản văn bia hiện lưu giữ trong các kho tư
liệu ở trung ương và địa phương, điều đó gây khó khăn cho các nhà nghiên cứu khi
muốn sử dụng khai thác để tìm hiểu về quê hương, đất nước, con người của huyện
Vĩnh Lộc.
Huyện Vĩnh Lộc còn là một vùng đất cổ, từ thời tiền sử đã có con người đến
cư trú, những dấu vết thời đại đá cũ (cách ngày nay vài chục vạn năm) được các
6
nhà khảo cổ học tìm thấy ở di chỉ núi Nổ (xã Vĩnh An). Thời đại đá mới với di chỉ
khảo cổ học Đa Bút (xã Vĩnh Tân), di chỉ Bản Thủy (xã Vĩnh Thịnh), di chỉ làng
Còng xã (Vĩnh Hưng)…Tất cả những di tích ấy tạo nên một nền văn hóa nổi tiếng
văn hóa Đa Bút. Thời kỳ Văn hóa Đông Sơn, đất Vĩnh Lộc là vùng đất quan trọng
của của bộ Cửu Chân, đất nước của các vua Hùng. Trong giai đoạn nhà nước
phong kiến tự chủ, Vĩnh Lộc từng một lần được vinh hạnh là kinh đô của nhà nước
Đại Ngu dưới vương triều Hồ (1400-1407), đồng thời là đất tổ của dòng họ Trịnh,
nổi tiếng nối nhau điều hành đất nước suốt 2 thế kỷ. Đất Vĩnh Lộc còn là cái nôi
sinh ra các văn thần, võ tướng như Kim ngô Long hổ Lưỡng vệ Thượng Tướng
quân Trần Khát Chân (triều Trần), Liệt Quốc công Trịnh Khả ( triều Lê Sơ), Bảng
nhãn Lưu Hưng Hiếu (người Thanh Hóa duy nhất được coi là ngôi sao sáng trong
Hội Tao Đàn thời Lê sơ), Thái sư Lạng Quốc công Trịnh Kiểm (thời Lê - Trịnh),
Vinh Quốc công Hoàng Đình Ái (thời Lê - Trịnh), Tĩnh Quốc công Phạm Đốc
(thời Lê -Trịnh), Trạng Nguyên Trịnh Tuệ (người trạng nguyên cuối cùng của lịch
sử khoa bảng Việt Nam), Nữ học giả Trịnh Thị Ngọc Trúc vợ vua Lê Thần Tông,
quan nghè Tống Duy Tân, một thủ lĩnh của phong trào Cần vương chống Pháp
v.v…
Vĩnh Lộc là huyện có vị trí địa lý khá đặc biệt, nơi hợp giao của hai đường
tỉnh lộ 217 và 47, đồng thời cũng là nơi hợp lưu của sông Mã và sông Bưởi. Từ xa
xưa đất này là nơi chuyển tiếp đồng bằng và miền núi nên có hội tụ dân cư với sự
giao thoa giữa các vùng miền văn hóa khác nhau. Đất Vĩnh Lộc có đầy đủ hệ thống
di tích như: thành trì, lăng mộ, đình, đền, chùa, phủ, nhà thờ họ và những di tích
danh thắng nổi tiếng. Thành Tây Đô, không những là công trình kiến trúc đặc sắc
của Việt Nam mà còn được đánh giá là tòa thành đá đẹp và lớn nhất Đông Nam Á.
Phủ Trịnh - nghè Vẹt, nơi là dinh thự của chúa Trịnh đặt bản doanh cơ quan đầu
não chỉ huy cuộc kháng chiến chống Mạc, trung hưng nhà Lê. Chùa Du Anh động
7
Hồ Công di tích danh lam thắng cảnh nổi tiếng, từng thu hút nhiều các bậc tao
nhân mặc khách đến tham quan du lãm…
Chính vì thế, việc nghiên cứu văn bia huyện Vĩnh Lộc là một việc thiết thực,
hết sức có ý nghĩa. Việc tập hợp đầy đủ chính xác về số lượng văn bia thông qua
khảo sát thực tế tại các địa phương và tra cứu thác bản, các tài liệu thư tịch cổ hiện
có tại các kho tư liệu ở trung ương và địa phương. Từ đó đánh giá, tìm hiểu đặc
điểm, giá trị nội dung, tiến hành phiên âm dịch nghĩa một số văn bia tiêu biểu phục
vụ cho công tác nghiên cứu là công việc thiết thực, nằm trong chuyên môn của
chuyên ngành Hán Nôm.
Từ lý do vừa nêu trên, tôi xin chọn đề tài “Nghiên cứu văn bia huyện Vĩnh
Lộc tỉnh Thanh Hoá” làm đề tài luận văn Thạc sĩ Ngữ văn chuyên ngành Hán Nôm.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Văn bia huyện Vĩnh Lộc tỉnh Thanh Hoá, đã từ lâu đã thu hút nhiều nhà
nghiên cứu đến khảo sát và tìm hiểu, các tập sách như: Văn khắc Hán Nôm Việt
Nam, Nxb. KHXH, 1993 do Nguyễn Quang Hồng chủ biên, giới thiệu thư mục 3
văn bia ma nhai của huyện Vĩnh Lộc. Những bút tích Hán Nôm ghi chép về một số
hang động ở Thanh Hoá của tác giả Hồng Phi- Hương Nao, Nxb. Giáo dục 2007
giới thiệu một số văn bia Ma nhai hiện khắc trên vách đá ở hai động Kim Sơn xã
Vĩnh An và Hồ Công xã Vĩnh Ninh. Tập sách Thắng tích Vĩnh Lộc của Ban
Nghiên cứu và Biên soạn Lịch sử Thanh Hoá, Nxb Thanh Hoá, 1992 chép ghi lại 3
văn bia ma nhai khắc trên vách đá hang động Kim Sơn, Hồ Công huyện Vĩnh Lộc.
Tập sách Những bia ký điển hình Thanh hoá của tác giả Lê Tạo - Nguyễn Văn Hải,
Nxb Thanh Hoá 2008 giới thiệu 3 văn bia hiện còn trên địa bàn huyện. Tập sách
Danh sĩ Thanh Hoá và việc học thời xưa, Nxb Thanh Hóa, 1995, giới thiệu 02 văn
bia trên địa bàn huyện. Ba bản sách chữ Hán hiện lưu giữ tại Viện nghiên cứu Hán
Nôm: Vĩnh Lộc huyện chí 永祿縣志,Kí hiệu VHv.1371/AB của Tri huyện Lưu
Công Đạo biên tập năm Gia Long thứ 15(1816) được đời sau sao lại viết thêm hai
8
bản mang tên Vĩnh Lộc phong thổ chí 永祿風土志, kí hiệu A.2537, biên tập
năm Tự Đức thứ 14(1867) và Thanh Hoá tỉnh Vĩnh Lộc huyện chí 清化省永祿縣
誌, kí hiệu VHv.137/AB, biên tập năm Duy Tân thứ 4(1911). Sách được Nguyễn
Văn Hải biên dịch, Nxb Thanh Hoá 2010, tái bản lần 1 năm 2012. Trong nội dung,
liệt ghi tất cả 14 bài văn bia trong toàn huyện, (trong đó có 2 văn bia nay đã chia
cắt về huyện giới huyện Hà Trung)…Ngoài ra còn một số bài viết đáng chú ý liên
quan đến văn bia huyện Vĩnh Lộc như:“Về tiểu sử tác phẩm của Cúc Pha Nguyễn
Mộng Tuân” của tác giả Nguyễn Kim Măng đăng trên tạp chí Hán Nôm số 1(80)
2007 v.v…
Như vậy những tác phẩm và bài viết nêu trên mới chỉ dừng lại nghiên cứu
một di tích, hoặc mục đích công bố một số văn bia tiêu biểu của huyện Vĩnh Lộc,
tỉnh Thanh Hoá, thực chất chưa nghiên cứu một cách hệ thống về văn bia của
huyện Vĩnh Lộc.
3. Đối tượng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu.
3.1 Đối tượng nghiên cứu.
Nghiên cứu thực tế các văn bia hiện còn trên 15 xã và 01 thị trấn thuộc
huyện Vĩnh Lộc và các thác bản văn bia, các văn bia sao chép trong thư tịch cổ
tính theo địa danh hành chính ngày nay.
3.2 Phạm vi nghiên cứu.
Nghiên cứu lịch sử - địa lý huyện Vĩnh Lộc, tập trung tiến hành điều tra,
điền dã ở địa phương, khảo sát, nghiên cứu các thác bản đối chiếu với các địa danh
tương xứng với đơn vị hành chính ngày nay. Nghiên cứu nội dung, hình thức văn
bia qua các thời, thống kê phân loại, đánh giá giá trị của văn bia huyện Vĩnh Lộc
tỉnh Thanh Hoá.
3. 3. Phương pháp nghiên cứu.
9
Để hoàn thành luận văn, chúng tôi sử dụng một số phương pháp cơ bản sau:
3.3.1. Điều tra điền dã
Đi điền dã xuống từng thôn, làng, xã, khảo sát trực tiếp, dập thác bản, đo vẽ
kích cỡ, đặc điểm trang trí trên bia, đặc điểm chữ viết, tổng hợp số liệu, đưa ra một
số nhận định về đặc điểm của văn bia huyện Vĩnh Lộc.
3.3.2. So sánh đối chiếu.
Sau khi tổng hợp số liệu văn bia huyện Vĩnh Lộc hiện còn theo thực tế, tiến
hành tra cứu thác bản lưu trữ tại Trung ương, so sánh đối chiếu xác định còn hoặc
mất theo thực tế hiện nay.
3.3.3. Thống kê định lượng.
Thao tác thống kê định lượng dựa theo các tiêu chí: Sự phân bố theo không
gian và thời gian, niên đại, tác giả biên soạn…Thông qua đó đưa ra những nhận xét
tổng quát về tình hình và đặc điểm của văn bia huyện Vĩnh Lộc.
3.3.4 Tổng hợp liên ngành.
Phương pháp tổng hợp liên ngành là phương pháp quan trọng trong quá trình
tiến hành nghiên cứu, chúng tôi dựa vào phương pháp này để phân tích, đánh giá,
đưa ra những nhận định khoa hoc về văn bia huyện Vĩnh Lộc.
4. Đóng góp mới của luận văn.
Đề tài tiến hành khảo sát, nghiên cứu toàn bộ hệ thống văn bia huyện Vĩnh
Lộc trên địa danh tương ứng ngày nay. Từ đó xác định được chính xác vị trí đặt bia,
thống kê đầy đủ về mặt số lượng ở ba nguồn khai thác khảo sát thống kê thực tế và
số lượng văn bia dựa trên các thác bản sưu tầm hiện lưu giữ tại Viện Nghiên cứu
Hán Nôm, cộng với việc thu thập những văn bia được sao chép trong các văn bản
thư tịch cổ.
Lần đầu tiên văn bia huyện Vĩnh Lộc được trình bày một cách có hệ thống
và tương đối đầy đủ về tình trạng và đặc điểm.
10
Luận văn đưa ra những nhận xét đánh giá khoa học và khách quan nhất về
những điểm nổi bật của văn bia huyện Vĩnh Lộc, giúp cho độc giả và những nhà
nghiên cứu hiểu thêm về những di tích, những danh lam thắng cảnh cũng như về
mặt lịch sử văn hoá của vùng đất xưa kia đã từng là kinh đô của nhà nước Đại Ngu
dưới vương triều Hồ, đồng thời là nơi phát tích của chúa Trịnh.
Phần phụ lục giới thiệu những bài văn bia tiêu biểu bao gồm nguyên văn chữ
Hán, phiên âm, dịch nghĩa.
Lập danh mục toàn bộ văn bia đã sưu tầm và tra cứu được dựa trên 7 tiêu chí.
5. Bố cục của luận văn.
Luận văn được chia làm 3 phần, mở đầu, nội dung, phần kết luận và phụ lục.
- Phần nội dung được chia làm 2 chương:
+ Chương 1: Khảo sát hệ thống văn bia huyện Vĩnh Lộc.
+ Chương 2: Tìm hiểu đặc điểm và giá trị của văn bia huyện Vĩnh Lộc .
- Phụ lục 1. Phiên âm, dịch nghĩa giới thiệu một số văn bia huyện Vĩnh Lộc
- Phụ lục 2. Danh mục văn bia huyện Vĩnh Lộc.
- Phụ lục 3. Bảng thống kê toàn bộ di tích huyện Vĩnh Lộc chưa xếp hạng.
11
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
KHẢO SÁT HỆ THỐNG VĂN BIA HUYỆN VĨNH LỘC
1.1. Tìm hiểu lịch sử - địa lý huyện Vĩnh Lộc.
1.1.1. Lịch sử hình thành tên gọi Vĩnh Lộc.
Vĩnh Lộc là huyện trung du của tỉnh Thanh Hoá, phía bắc giáp huyện Cẩm
Thuỷ và Thạch Thành, nam giáp huyện Yên Định, đông giáp huyện Hà Trung, tây
giáp huyện Cẩm Thuỷ. Thời Bắc thuộc, Vĩnh Lộc thuộc huyện Tư Phố bộ Cửu
Chân. Thời Đinh - Lê - thuộc huyện Nhật Nam của Châu Ái; thời Lý do Tổng trấn
Lý Thường Kiệt quản giáo, thời Trần - Hồ thuộc huyện Vĩnh Ninh trấn Thanh Đô;
thời Lê Trung hưng vì tránh tên huý của vua Lê Trang Tông huý là Duy Ninh đổi
là huyện Vĩnh Phúc và cho lệ vào phủ Thiệu Thiên. Thời Tây Sơn đổi thành huyện
Vĩnh Lộc. Giai đoạn triều Nguyễn, năm Minh Mệnh thứ 16 (1935) tách huyện
Vĩnh Lộc khỏi phủ Thiệu Hóa cho lệ vào phủ Quảng Hoá. Sau Cách mạng tháng 8,
năm 1977 nhập hai huyện Vĩnh Lộc và Thạch Thành đổi tên là huyện Vĩnh Thạch.
Năm 1982 tách hai huyện như trước, lấy tên cũ là huyện Vĩnh Lộc.
Từ thời tiền sử đã có con người đến cư trú, những dấu vết thời đại đá cũ
(cách ngày nay vài chục vạn năm) được các nhà khảo cổ học tìm thấy ở di chỉ núi
Nổ (xã Vĩnh An). Thời đại đá mới người nguyên thủy chủ nhân của văn hóa Hòa
12
Bình- Bắc Sơn, dời hang động mái đá ở vùng cao, chuyển dần xuống vùng núi thấp,
dọc theo sông Mã, vùng đồng bằng nhiều sản vật như Đa Bút (xã Vĩnh Tân ngày
nay), Bản Thuỷ (xã Vĩnh Thịnh ngày nay), làng Còng (xã Vĩnh Hưng ngày nay)
của huyện Vĩnh Lộc. Từ thực tế trên, năm 1926, các nhà khảo học của Viện Viễn
đông Bác cổ đã phát hiện và khai quật di chỉ Đa Bút, (nằm sát chân núi Mông Cù
liền kề với đồng chiêm trũng làng Bồng Thượng xã Vĩnh Tân, cách sông Mã 2km
và tồn tại dưới dạng cồn hến ven sông dài 50km), đã phát hiện nhiều bộ xương
người ở Đa Bút. Qua nghiên cứu, các nhà khoa học đã xác định xương của người
Indoxesien và người Ménanéssien. Các phân tích khoa học bằng phương pháp các
bon phóng xạ, đã cho biết gần 7.000 năm. Từ đó di chỉ Đa Bút đã tạo thành nền
văn hoá nổi tiếng: Văn hoá Đa Bút ở khu vực Đông Nam Á.
Dưới thời nhà nước phong kiến tự chủ, Vĩnh Lộc từng là kinh đô của nhà
nước Đại Ngu dưới vương triều Hồ (1400-1407) đồng thời cũng là nơi phát tích
của chúa Trịnh phò tá nhà Lê điều hành đất nước. Hơn thế nữa đất Vĩnh Lộc còn là
cái nôi sinh ra những anh tài kiệt xuất đóng góp công sức vào sự nghiệp dựng nước
và giữ nước của dân tộc như Kim ngô Long hổ Lưỡng vệ Thượng Tướng quân
Trần Khát Chân (triều Trần), Liệt Quốc công Trịnh Khả ( triều Lê Sơ), Bảng nhãn
Lưu Hưng Hiếu, (người Thanh Hóa duy nhất được coi là ngôi sao sáng trong Hội
Tao Đàn thời Lê sơ), Thái sư Lạng Quốc công Trịnh Kiểm (thời Lê - Trịnh), Vinh
Quốc công Hoàng Đình Ái (thời Lê - Trịnh), Tĩnh Quốc công Phạm Đốc (thời Lê Trịnh), Trạng Nguyên Trịnh Tuệ (người trạng nguyên cuối cùng của lịch sử khoa
bảng Việt Nam), Nữ học giả Trịnh Thị Ngọc Trúc vợ vua Lê Thần Tông, quan
nghè Tống Duy Tân, một thủ lĩnh của phong trào Cần Vương chống Pháp
v.v…Ngày nay huyện Vĩnh Lộc có 15 xã và 1 thị trấn với 136 thôn, làng, và 01
khu phố.
1.1. 2. Địa hình, núi sông.
13
Vĩnh Lộc là vùng đất cổ, nằm trong khu vực chuyển tiếp từ vùng núi và
đồng bằng, với những dãy núi đá vôi nhấp nhô nằm xen kẻ giữa những cánh đồng
phù sa do sông Mã và sông Bưởi bồi đắp. Đất Vĩnh Lộc địa hình đa dạng và phức
tạp, là trung tâm nơi hợp giao của tỉnh lộ 217 và 47 về phố Giáng thị trấn huyện,
chạy lên các huyện miền Tây, đến cửa khẩu Quốc tế Na Mèo sang Lào. Nhiều dãy
núi ghi đậm những chứng tích lịch sử gắn với nhiều giai thoại, truyền thuyết đã
thấm sâu vào tiềm thức của người dân Vĩnh Lộc như núi An Tôn ở xã Vĩnh Yên,
trong núi có Hang Nàng là nơi Hồ Quí Ly giam giữ các cung tần nhà Trần, cũng tại
núi này khi Hồ Quí Ly tiến hành xây thành Tây Đô, đã lấy đá núi và sử dụng núi
này là khu bãi khai thác đá giúp cho việc xây thành Tây Đô. Núi Đốn Sơn ở địa
phận xã Vĩnh Thành, tích xưa truyền lại, dưới triều Trần, tướng quân Trần Khát
Chân âm mưu giết Hồ Qúy Ly nhưng không thành, sau đó phải chết ở đấy. Ở phía
Đông núi có đàn tế Nam Giao, có giếng Ngự Dục (Duyên), xếp đá làm thành, bệ
cấp uy nghiêm, đều là di tích của Hồ Hán Thương xây dựng năm (1402). Núi Mã
Hí (hay còn có tên gọi khác là núi Hí Mã) ở xã Vĩnh Ninh, núi này vách đá cheo
leo nhìn giống như "quần Mã" vờn "trường thi", cho nên thời trước khi khảo hạch
các bậc nhân sĩ hàng huyện thường đặt trường ở đấy. Núi Mông Cù nằm ở xã Vĩnh
Tân, trên đỉnh có một cái ao thiên tạo uốn lượn quanh co mà đổ nước xuống, xưa
kia là nơi đặt mộ tổ Thái Quận công người họ Hà. Núi Hùng Lĩnh (còn có tên là
núi Tác Hùng) ở xã Vĩnh Hùng và Vĩnh Tân, núi này nối liền với núi Mông Cù,
đời xưa truyền lại trên núi có hai cây cổ thụ, có thần tích trú, ban đêm cứ ẩn hiện
trong chốc lát. Bên tả ngọn núi là mộ cũ họ Trịnh, có phủ từ ở đấy, dưới chân núi
có bia mộ (phủ từ nay đã bị phá, bia mộ thất lạc chúng tôi chưa tìm ra?). Núi Cô
Sơn ở xã Vĩnh Thịnh, trên núi có một đỉnh gọi là Hoàng Sơn, đứng cheo leo bên
bờ, phía trên khắc tám chữ Hán lớn Thanh tri điền trí, Thanh trí điền tri 清知田
智清智田知(nay dòng chữ này không còn). Núi Phú Thịnh ở xã Vĩnh Minh, núi
14
này xưa kia là nơi dân cư của xã Khắc Kiệm ở, (nay xã này không còn tồn tại trong
đơn vị hành chính huyện), các bậc danh hiền Thám hoa, Tiến sĩ, đều từ ấy ra, thật
là một làng quê nổi tiếng. Trong núi ấy kéo xuống một đồi đất, rất là tròn chĩnh, là
nơi mộ tổ của Quận công họ Tống. Núi Nham Sơn ở xã Vĩnh An, nơi có chùa Liên
Hoa, được di chuyển từ ngoài đê vào từ thời gian năm Kỹ Mão đời vua Tự Đức thứ
32(1879), trên núi ngày nay vẫn còn hai văn bia Liên Hoa tự bi 蓮花寺碑 và Liên
Hoa tự trùng tu bi kí 蓮花寺重修碑記.
Trong số các núi vừa nêu trên, ở Vĩnh Lộc còn có 2 ngọn núi Xuân Đài ở xã
Vĩnh Ninh, núi Biện Lĩnh ở xã Vĩnh An và Vĩnh Minh có số lượng văn bia ma nhai
nhiều nhất. Xưa kia là điểm đến hấp dẫn được các bậc tao nhân mặc khác đến du
lãm, khắc bia lưu đề.
Núi Xuân Đài, nơi có chùa Du Anh và động Hồ Công. Ở khu vực núi và chùa
có tổng số 18 văn bia ma nhai và 2 văn bia chùa. Núi có nham thạch chồng chất,
tầng lớp cao vọt như một lâu đài ôm lấy nhau tựa như chiếc thuyền, cho nên tên là
Xuân Đài. Dưới chân núi có chùa Du Anh, hai bên nách chùa lại có hai hồ nước
“Nhật Nguyệt” do thiên nhiên tạo thành, bốn mùa nước trong vắt, nhìn xuống tận
đáy. Phía trước chùa có một tượng hổ phục, một tượng voi qùy, đều làm bằng đá.
Từ xa nhìn lại như một bức họa vẽ. Bên phải chùa có am công chúa, bên trái có gác
Ngọc Hoàng, bên ngoài lên phía Bắc khoảng vài chục bước, dưới chân núi có một
phiến đá dựng đứng, nhân đó làm thành bia đặt tên Trùng tu Xuân Đường sơn Hồ
Công động Du Anh tự bi 重修春棠山壺公洞遊英寺碑 do Trạng Bùng Phùng
Khắc Khoan soạn niên hiệu Hoằng Định thứ 6 (1606) đời vua Lê Kính Tông. Góc
phía sau chùa có con đường mòn, chếch hướng Đông Nam, cheo leo trên vách núi
theo cấp bậc mà lên, ước độ sáu - bảy trăm bậc là động Hồ Công. Đi hơi chếch về
hướng Tây, bên trái đường lên có phiến đá to khắc 4 chữ lớn Thanh kỳ khả ái 青奇
15
可愛 là chữ của chúa Trịnh Sâm đề. Lại theo hướng Tây lên khoảng bốn năm
mươi bước, bên trái đường có phiến đá to bằng phẳng, là nơi vua chúa các triều lên
đó nghỉ ngơi ngắm cảnh. Lại vẫn theo hướng Tây đến vài bước, ngoặt về hướng
Nam các bậc đá đều bằng phẳng, không còn gập ghềnh. Đến đó, vách đá dựng
đứng, trông ra phía trước là đồng bằng, bèn mở ra một động khum khum như
miệng hang, rộng rãi thoáng đãng, rất cao và trống. Ngoài cửa hơi chếch về bên
trái, bên trên khắc 4 chữ Hán Sơn bất tại cao 山不在高 là chữ của Hồng Ngư Cư
sỹ (Nguyễn Nghiễm) đề. Phía trước cửa động là bài thơ của Nhật Nam Nguyên chủ
Trịnh Sâm, bên trong cửa, hai bên có hai tượng người đá, đó là tượng Hồ Công và
Phí Trường Công. Hai bên vách đá cao vút, có rất nhiều các văn bia ma nhai của
các vua chúa và các bậc túc nho xưa kia đến thăm lưu đề như Đề Hồ Công động
tịnh dẫn 題壺公洞並 của Thiên Nam Động Chủ Lê Thánh Tông khắc niên hiệu
Hồng Đức thứ 9 (1478), Ngự chế đề Hồ Công động 御製題壺公洞 của Thượng
Dương Động Chủ Lê Hiến Tông đề niên hiệu Cảnh Thống thứ 4 (1504), bài thơ
của Hồng Ngư Cư sĩ Nguyễn Nghiễm khắc năm Quí Dậu (1753) đời Lê Hiển Tông,
bài thơ của Đông các hiệu thư kiêm Bí thư các sự Ngô Thì Sĩ khắc năm Bính Tuất
(1767) đời vua Lê Hiển Tông và 14 các bài thơ khác của nhiều các bậc túc nho,
xưa kia đã đến thăm động tức cảnh làm thơ, khắc vào vách đá… Bên trên chỗ
thạch nhũ rỏ xuống khắc thành hai chữ lớn Ngọc Hồ 玉壺 đó là thiên nhiên ban
tặng cho bức hoành phi không phải người thường tạo nên. Bên trái lại có một động,
mở ra một hang nhỏ, tăm tối trống không, trên có nhũ đá rũ xuống tạo thành chiếc
đỉnh, có gian bếp đá, do thần qủy khắc nên, người thường không thể làm được. Bên
trái đỉnh đá có con đường đá ngoằn ngoèo, trèo lên đến chỗ cao nhất có giếng tối
om, lấy đuốc soi vào kín bưng. Sâu không thể lường được, thử lấy đá ném xuống
16
để dò nhưng không đến được đáy. Tòa bên phải lại có một hang trống thông phía
bắc trời, nuốt mây uốn móc, bên trong có con cóc đá dòm lên mặt trăng, khi dong
chơi đến độ trưa, ngồi trên lưng nó nghỉ ngơi, được hóng gió bắc, cho nên gọi đây
là nơi kỳ tích bậc nhất vậy. Lên trên động ấy sẽ nhìn thấy sông gấm như đai lụa,
núi biếc như bình phong, ruộng đồng lờ mờ, khói mây man mác, khiến bồi hồi
rung động lòng người, không thể ngắm hết được, thực là một bầu thế giới mà vạn
dặm thanh phong đều có thể thu hết vào lòng, khiến con người muốn bay lên cõi
tiên.
Núi Biện Lĩnh, thuộc hai xã Vĩnh Minh và Vĩnh An. Trong các hang động của
núi này, ngày nay còn lại 14 văn bia ma nhai khắc trên vách đá các hang động
thuộc quần thể động Kim Sơn. Núi từ Hùng Lĩnh, men theo sông Mã mà chảy
xuống; xưa kia họ Trịnh lúc đầu lệnh cho Huyện Doãn cho dân xã 20 suất canh giữ
trông coi hai núi, mỗi tháng dựa vào suất để cấp lương bổng, nhân đó gọi là Biện
Lĩnh, là đất cấm địa gồm 29 ngọn. Núi ấy nham thạch lăng tằng, nhọn như răng
chó, đỉnh núi ấy nhọn như chiếc kích, xa mà nhìn lại có người cho là cái tán, có
người cho là tòa lâu đài, có người cho là tinh, là kỳ, là phượng, là ngựa, là bức gấm
thêu, là bức họa vẽ. Mỗi bước lại một hình trạng lạ, không hình nào giống hình
nào, đầy đủ cả, hâm mộ cảnh sắc kỳ dị đều cho là đẹp đẽ. Cho dù có người vẽ giỏi
thì cũng không thể vẽ được. Bên trong có hai cái động, một là Tiên Kiều động, thứ
hai là Tân Tạo động, (gọi chung là động Ngọc Sơn hoặc Kim Sơn) và Tiên Phàn
động. Trong động có nhũ thạch sắc ánh kim ngân, nếu lấy đèn đuốc quan sát thì tất
cả tựa như Cành quỳnh cây ngọc. Xưa kia, chúa Trịnh (Sâm) đến du chơi, thưởng
ngoạn ở núi này, khi trở về dùng một thuyền rồng nhỏ du chơi ở đây. Hẳn nhiên có
chuyện uống rượu, ngâm nga thơ phú lưu đề (nay chúng tôi vẫn chưa rõ thơ của
Trịnh Sâm đề ở vị trí nào?). Triều Nguyễn có các bậc tao nhân mặc khách vui cảnh
núi sông, bầu rượu túi thơ cùng nhau đến ngâm vịnh đề thơ trên vách đá như: Kinh
lược Thanh Hóa Trương Đăng Quế, Thiện Lan Nguyễn Xuân Tiêu, Châu Giang
17
Bùi Ân Niên, Hà Đình Nguyễn Thuật, Kinh Lược Nguyễn Vĩnh Tu, Thanh Phiên
Lê Lượng Bạt, La Châu Hoàng Kế Viên…
Bên cạnh những núi non hang động, đất Vĩnh Lộc còn có hai con sông, sông
Mã ở phía Tây, như chiếc đai bạc khổng lồ ôm suối một vòng cung rộng lớn từ đầu
huyện xã Vĩnh Quang đến cuối huyện xã Vĩnh An. Sông Bưởi ở phía Đông như dải
lụa mềm tuôn chảy từ xã Vĩnh Phúc rồi hợp lưu với sông Mã, chảy ra Ngã Ba Phà
Công. Với lợi thế của hai con sông, đã chuyển tải cho Vĩnh Lộc một lượng phù sa
màu mở, góp phần tạo nên những cánh bãi bên sông, rất thuận lợi cho phát triển
nông nghiệp và tạo điều kiện cho huyện có một mạng lưới giao thông đường thủy
khá thuận lợi.
1.1. 3. Giới thiệu một số nhân vật tiêu biểu huyện Vĩnh Lộc.
Thượng tướng quân Trần Khát Chân.
Ông là người làng Hà Lương nhân dân quen gọi là Hà Lãng (Hà Lưỡng), xã
Vĩnh Thành. Cha là Trần Hữu Nhân, mẹ là Đặng Thị Ngọc Thục, quê ở làng Nột,
xã Kim Động, phủ Kiến Xương, trấn Nam Sơn (nay thuộc huyện Kiến Xương, tỉnh
Thái Bình). Suốt năm đời là khanh tướng có công rất lớn với nhà Trần trong việc
tiêu diệt quân Nguyên Mông nên được mang quốc tích họ Trần.
Năm 1390 đích thân vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga đem quân sang
xâm lược nước ta. Thực tế vua Chế Bồng Nga đã vào thành Thăng Long nhiều lần,
quan quân nhà Trần đi đón đánh đều thất bại. Mỗi lần như vậy, vua Chiêm lại vơ
vét của cải, bắt con gái đẹp đem về nước.
Chính Hồ Qúy Ly đi dẹp quân Chiêm đã thất bại. Lúc này Trần Khát Chân
tình nguyện xin đi và được vua Trần Nghệ Tông cấp quân mã thống lĩnh quân thủy
bộ đón đánh quân Chiêm trên sông Hải Triều (tức sông Luộc thuộc ba tỉnh Hưng
Yên, Hải Dương và Thái Bình ngày nay). Ông đã dũng cảm mưu trí đánh bại kẻ
thù chém được đầu Chế Bồng Nga đem dâng vua ở bến Bình Than (thuộc tỉnh Hải
Dương ngày nay). Do chiến công lẫy lừng Trần Khát Chân được vua Trần Nghệ
18
Tông phong Kim ngô Long hổ Lưỡng vệ Thượng tướng quân Tổng quản hai vệ
Kim ngô và Long hổ, đó là hai vệ quân tinh nhuệ nhất bảo vệ Kinh đô nhà Trần.
Ngoài ra ông còn được phân phong thái ấp tại Hoàng Mai- Hà Nội.
Từ lâu Trần Khát Chân một trung quân ái quốc của triều Trần đã biết Hồ
Qúy Ly có âm mưu đoạt ngôi nhà Trần nên khi Hồ Qúy Ly cho khảo sát xây thành
Tây Đô tháng giêng năm Đinh Sửu 1397, Trần Khát Chân đã cho dựng quân doanh
của mình tại núi Đún đắp đường Hoa Nhai chạy thẳng từ núi Đún đến cửa Nam
thành đá như như một mũi tên, đắp bờ thành ngoại bằng đất (thành Đại La), bờ
thành trồng tre gai từ cửa Đông thành đá ven theo dòng sông Bưởi xuôi về phía
Nam vòng quanh núi Đún chạy suốt đến bờ sông Mã bảo vệ kinh đô thành nhà
Trần chờ cơ hội.
Sau khi dời kinh đô từ Thăng Long về Tây Đô, Hồ Qúy Ly đã ép vua Trần
Thuận Tông nhường ngôi cho con là thái tử Trần Án mới 3 tuổi, đó là ngày 15
tháng 3 năm Mậu Dần (1398).
Trần Khát Chân đã bày cách dựng một “Vọng lâu đài” để Hồ Qúy Ly tế trời
đất trong dịp lễ đăng quang nhằm cơ hội giết Hồ Qúy Ly.
Ngày 4 tháng 4 năm Kỷ Mão (1399) nhân ngày lễ Minh thệ ở Đốn Sơn (núi
Đún) Hồ Qúy Ly với tư cách là ông ngoại vua đến dự lễ, việc mưu giết không
thành, Trụ quốc Trần Nhật Đôn, Tướng quân Trần Khát Chân, Phạm Khả Vĩnh,
Lương Nguyên Bửu, Phạm Ngưu Tất… cùng người thân liên quan 372 người đều
bị hành quyết tịch thu tài sản, con gái bắt về làm tỳ thiếp, con trai từ một tuổi trở
lên bị chôn sống hoặc dìm xuống nước đến chết mới thôi.
Vùng này còn lưu truyền một huyền thoại rằng: Khi bị đưa đi hành hình,
chặt đầu ở núi Đún, ngài nhặt đầu lắp vào cổ, nhảy lên ngựa, đến đền Tam Tổng thì
đầu mới rơi. Còn con ngựa cứ thế chạy đến bến quân gần đấy còn có tên là Bến
Ngự (tức là bến tắm của vua) thuộc làng Phú Lĩnh ngày nay. Ngựa lao xuống dòng
19
sông Mã uống nước và chết, đầu ngựa ở giữa sông, thân ngựa hóa thành dọi đất
hướng về đền Tam Tổng- dọi đất này là: Dọi cổ ngựa.
Vào triều Lê Thánh Tông, niên hiệu Hồng Đức thứ 5 (1474), định ban khuyến
khích dùng người trung nghĩa, đã cho tìm con cháu của ngài khắp các phủ huyện,
nếu không có con cháu thì tìm một người thân thuộc cho quản lý thuế quân để
phụng thờ hương hỏa. Trải các triều bao phong là Thượng đẳng phúc thần.
Hồ Quí Ly .
Hồ Qúy Ly tên tự là Lý Nguyên, tự suy tôn tổ tiên thời trước là Hồ Hưng Dật,
vốn người Chiết Giang. Thời hậu Hán, đến giữ đất Diễn Châu, sau làm nhà tại làng
Bào Đột thuộc bản châu, nhân đó là trại chủ. Thời Lý, lấy công chúa Nguyệt Đích,
sinh ra Nguyệt Đoan Công chúa, đến đời cháu thứ 12 là Hồ Liêm bỏ đất Diễn Châu
di cư đến hương Đại Lại, xã Ngọ Xá, tỉnh Thanh Hóa (trước năm 1982 hương Đại
Lại là đất thuộc huyện Vĩnh Lộc, nay tách về thuộc xã Hà Đông huyện Hà Trung),
làm con nuôi gia môn Tuyên úy họ Lê (tức Tuyên úy Lê Huấn) bèn đổi sang họ Lê,
Qúy Ly là cháu bốn đời (của Hồ Liêm).
Bấy giờ là thời gian vua Trần Nghệ Tông, tự phong cho nắm giữ chức: Tri hầu
Tứ cục chánh, thăng là Khu mật viện đại sứ, lại đến Tiểu Tư không, tiến phong
Đồng bình chương sự. Lấy con gái gả cho vua Thuận Tông làm Hoàng hậu, sinh ra
vua nhỏ (tức Trần Thiếu Đế). Ông được nhiều lần gia phong là Phụ chính Thái sư,
nhiếp chính; Khâm thánh Hưng liệt Đại vương; Quốc Tổ Chương Hoàng, mặc áo
mầu Bồ hoàng. Lúc bấy giờ, có Nguyễn Dụng Phủ người huyện Cổ Đằng, Thanh
Hóa tâu lên: Chương Hoàng là hiệu như thế nào? Bồ Hoàng là mầu sắc ra sao?
Như các bậc tiên đế nào? Ngôn ngữ của thời nào? Thời ấy, người ta cho rằng tiếng
phượng hót chầu mặt trời. Niên hiệu Trần Kiến Tân thứ 2 (1399), ngầm giết Thuận
Tông, phế Thiếu Đế, di dời quốc tộ nhà Trần, đặt quốc hiệu là Đại Ngu, khôi phục
lại họ Hồ, đổi niên hiệu đầu là Thánh Nguyên(1400), căn cứ kinh thành ở khu vực
thành Tây Đô. Chưa được một năm, nhường ngôi cho con mình là Hán Thương, tự
20
xưng là Thái Thượng hoàng, cùng lắng nghe việc triều chính. Hán Thương đổi làm
năm đầu niên hiệu Thiệu Thành(1401), hai năm sau lại đổi là Khai Đại chiếm ngôi
được hơn 6 năm. Vào đời Minh Thành Tổ, niên hiệu là Vĩnh Lạc thứ 4, sai Chinh
Di tướng quân Trương Phụ sang xâm lược nước Nam, cho quân tiến vào đất Vĩnh
Ninh bắt Qúy Ly ở cửa biển Kỳ La, bắt Hán Thương trên đầu núi Cao Vọng, nhà
Hồ mất.
Thái úy Trịnh Khả.
Ông người xã Kim Bôi, huyện Vĩnh Ninh (Nay là lang Giang Biểu xã Vĩnh
Hòa), tên húy là Khả, là bậc khai quốc, làm quan dưới ba triều vua: Lê Thái Tổ,
Thái Tông, Nhân Tông. Trải được nhận các chức Tá lý Dương vũ, Bảo chính Hiệp
gián, Đồng đức, Suy trung, Tán trị Tịnh nạn công thần, Thượng tướng quân Phiêu
kỵ trấn Thái Nguyên. Đặc tiến Khai phủ, Kim tử Vinh lộc Đại phu, Nghi đồng
Tam ty, Nhập nội Kiểm hiệu Thái úy Bình chương Quân quốc trọng sự, Thái giám
nội ngoại chư dịch, Thượng trụ quốc. Ban cho túi vàng, phù hiệu bạc, tước Huyện
Thượng hầu, tặng là Liệt Quốc công, vâng tặng cho quốc tính.
Tổ tiên đời trước làm quan triều Trần, có công bình dẹp giặc Nguyên, đến đời
cha giữ chức Tổng chính. Sinh 4 con trai, ông là con út vậy. Thuở thiếu thời, cần
mẫn học hành, thường nằm nghỉ ngơi ở chùa Kiều Sơn, dưới bóng cây đại thụ
ngâm vịnh. Khi nhà Minh sai Trương Phụ sang xâm lược nước Nam, tiến quân vào
vây thành Tây Đô, bắt hai cha con họ Hồ. Tương truyền: Trương Phụ đi khắp các
quận huyện nước ta xem phong thủy. Một hôm, đến xã Kim Bôi, ngắm kỹ non
nước xứ này, hướng Càn có đồn binh, hướng Tốn có chỗ lên ngựa, Càn Tốn tương
ứng, binh mã trận bày, trong đất ấy ắt sẽ sinh ra tướng giỏi.
Năm Mậu Tuất (1418), người Minh cùng Thái Tổ đánh nhau, trận chiến nhiều
lần thất bại, liền đào lấy hài cốt tổ tiên Lăng Chiêu Hoàng (tổ tiên họ Lê), treo ở
sau thuyền để mong ước vua đầu hàng. Vua vô cùng tức giận, không thể nào thực
thi được kế hoạch. Ông đến trước mặt vua, xin được làm việc lớn, nhà vua đồng ý.
21
- Xem thêm -