Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu văn bản hương ước cổ truyền huyện văn lâm - tỉnh hưng yên...

Tài liệu Nghiên cứu văn bản hương ước cổ truyền huyện văn lâm - tỉnh hưng yên

.PDF
164
286
57

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------- NGUYỄN THỊ MINH QUÝ NGHIÊN CỨU VĂN BẢN HƯƠNG ƯỚC CỔ TRUYỀN HUYỆN VĂN LÂM - TỈNH HƯNG YÊN LUẬN VĂN THẠC SĨ HÁN NÔM Mã Số : 60 22 40 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐINH KHẮC THUÂN Hà Nội - 2011 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ............................................................................................................1 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ .....................................................................................................................2 3. NGUỒN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU..................................................................................3 4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU .............................................................3 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .......................................................................................4 6. MỤC ĐÍCH VÀ ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN ......................................................4 7. CẤU TRÚC LUẬN VĂN .......................................................................................................4 Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN VĂN LÂM VÀ HƯƠNG ƯỚC CỔ TRUYỀN HUYỆN VĂN LÂM, TỈNH HƯNG YÊN .............................................. 6 1.1. Hệ thống làng xã huyện Văn Lâm - nơi lưu giữ hương ước cổ truyền .........6 1.1.1. Huyện Văn Lâm ngày nay............................................................... 6 1.1.2. Hệ thống làng xã huyện Văn Lâm ................................................. 10 1.2. Đôi nét về hương ước và hương ước huyện Văn Lâm ........................................12 1.2.1 Khái niệm ...................................................................................... 12 1.2.2. Hương ước cổ truyền huyện Văn Lâm ......................................... 16 Chương 2: VĂN BẢN HƯƠNG ƯỚC CỔ TRUYỀN HUYỆN VĂN LÂM, TỈNH HƯNG YÊN ..................................................................................................... 22 2.1. Văn bản hương ước cổ truyền huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên ....................22 2.1.1. Văn bản......................................................................................... 22 2.1.2. Kết cấu.......................................................................................... 29 2.2. Phân loại hương ước cổ truyền huyện Văn Lâm ....................................................34 Chương 3: NỘI DUNG VÀ GIÁ TRỊ VĂN BẢN HƯƠNG ƯỚC CỔ TRUYỀN HUYỆN VĂN LÂM, TỈNH HƯNG YÊN ........................................... 38 3.1. Nội dung .....................................................................................................................................38 3.1.1. Những quy ước về việc bảo vệ an ninh làng xã ............................. 38 3.1.2. Những quy ước nhằm bảo đảm đời sống tâm linh của cộng đồng . 39 3.1.3. Những quy ước về việc bảo đảm các nghĩa vụ với nhà nước ......... 42 3.1.4. Những quy định về thưởng phạt .................................................... 42 3.1.5. Những quy ước về khuyến nông ................................................... 45 3.1.6. Những quy ước về việc khuyến học ............................................. 46 3.1.7. Những quy định về việc cưới xin .................................................. 47 3.1.8. Những quy định về việc ma chay .................................................. 48 3.1.9. Những quy định về việc lên lão, mừng thọ.................................... 50 3.1.10. Những quy ước về việc giữ gìn thuần phong mĩ tục .................... 51 3.2. Giá trị sử liệu văn bản hương ước cổ truyền ............................................................55 3.2.1 Về dấu ấn Nho giáo nơi làng xã ..................................................... 55 3.2.2. Về tổ chức và sinh hoạt làng xã..................................................... 58 3.3. Những mặt tích cực và hạn chế của hương ước cổ truyền ...............................62 KIẾN NGHỊ................................................................................................................. 65 KẾT LUẬN.................................................................................................................. 68 TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................... 72 Tài liệu Hán Nôm ........................................................................................................ 74 PHỤ LỤC..................................................................................................................... 75 MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1. Mỗi làng xã người Việt ở đồng bằng Bắc bộ đều có phong tục tập quán riêng, được hình thành hương ước. Trải qua các thời kỳ lịch sử, làng xã đều có Hương ước cổ truyền, Hương ước cải lương và Quy ước làng văn hoá. Hương ước cổ truyền là hương ước cổ trước thời kì Cải lương hương chính, Hương ước cải lương ra đời trong thời kỳ Cải lương hương chính vào đầu thế kỉ XX, còn Quy ước xây dựng làng văn hoá hay còn gọi là Tái tạo hương ước được xuất hiện từ khi nông thôn Việt Nam bước vào công cuộc hiện đại hoá nông thôn. Cũng như các làng quê người Việt khác, làng xã huyện Văn Lâm thuộc tỉnh Hưng Yên hiện còn lưu giữ một di sản hương ước đồ sộ, trong đó có một lượng lớn tài liệu hương ước cổ truyền, hương ước cải lương và quy ước xây dựng làng văn hoá, phản ánh các mặt sinh hoạt văn hoá xã hội, tín ngưỡng của cộng đồng người Việt. Tư liệu hương ước này là kho tàng tư liệu quý giá về làng xã cổ truyền huyện Văn Lâm nói riêng, hương ước Hưng Yên nói chung, từng được nhiều nhà nghiên cứu trong tỉnh và cả nước quan tâm. 2. Bản thân cá nhân tôi, vừa làm công tác giảng dạy và vừa làm công tác nghiên cứu văn hóa địa phương, tôi thực sự hào hứng đi sâu nghiên cứu về tư liệu Hán Nôm làng xã cổ truyền huyện Văn Lâm tỉnh Hưng Yên. Làm tốt đề tài nghiên cứu này nhằm góp phần bảo tồn kho di sản Hán Nôm quý giá, cũng như góp phần phát huy và xây dựng quy ước văn hóa hiện nay ở địa phương. Vì lí do trên tôi chọn đề tài luận văn này. 1 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Vấn đề nghiên cứu tục lệ làng xã cổ truyền Việt Nam đã có một số học giả trong và ngoài nước quan tâm. Đó là một số ấn phẩm khoa học đã được xuất bản, mà tiêu biểu là Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở đồng bằng Bắc Bộ của Trần Từ (Nxb. KHXH, Hà Nội, 1984), Hương ước và quản lí làng xã của Bùi Xuân Đính (Nxb. KHXH, Hà Nội, 1998); Hương ước làng xã Bắc bộ Việt Nam với luật làng Kan to Nhật Bản (thế kỷ XVII-XIX) của Vũ Duy Mền & Hoàng Minh Lợi, Viện Sử học, H. 2001. Đáng kể hơn cả là Chuyên đề hương ước của Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lí (1996), Một số giá trị văn hoá truyền thống với đời sống văn hoá ở cơ sở nông thôn hiện nay của Bộ Văn hoá thông tin (1997), Xây dựng quy ước làng văn hoá ở Hà Bắc (Sở Văn hoá thông tin Hà Bắc, xuất bản 1993). Các công trình trên đã chỉ ra những nét cơ bản về di sản văn hoá làng xã người Việt qua nguồn hương ước, có tác dụng định hướng cho việc kế thừa các giá trị của hương ước cổ đối với việc soạn thảo hương ước mới, xây dựng làng văn hoá và quản lí xã hội ở nông thôn ngày nay. Đối với các văn bản tục lệ hay hương ước hiện đang được lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, chúng đã được giới thiệu qua một số nghiên cứu gần đây. Trong đó, một số đã được chọn dịch trong các sách Hương ước ở địa phương, như Hương ước cổ Hà Tây, Hương ước tỉnh Thanh Hóa, Tục lệ Lạng Sơn... Đặc biệt là công trình nghiên cứu gần đây của PGS. TS. Đinh Khắc Thuân trong sách Tục lệ cổ truyền làng xã người Việt, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2006, đã khảo cứu, giới thiệu và tuyển dịch khoảng 100 văn bản hương ước cổ truyền, trong đó giới thiệu một số văn bản hương ước huyện Văn Lâm tỉnh Hưng Yên. Hương ước Hưng Yên và hương ước huyện Văn Lâm cũng đã được một số nhà nghiên cứu quan tâm, khai thác tư liệu như một số công trình nghiên cứu liên quan đến văn hóa làng xã, địa chí Hưng Yên. 2 Đây là nguồn tài liệu có giá trị nghiên cứu nhiều mặt, liên quan đến phong tục tập quán, tổ chức và hoạt động làng xã huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. Qua đó, góp phần tìm hiểu văn hoá và lịch sử làng xã trong các triều đại phong kiến, cũng như có cơ sở khoa học giúp việc quản lí xã hội nông thôn trong điều kiện hiện nay. Công trình này của chúng tôi cố gắng sưu tập đầy đủ thông tin về văn bản hương ước cổ truyền ở các làng xã huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. 3. NGUỒN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU Hương ước cổ truyền huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên có niên đại chủ yếu từ thế kỉ XVII thời Lê đến thời Nguyễn. Phần lớn đã được sưu tập tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu từ AF.a3/62 đến AF.a3/86, nghĩa là có trên 20 đầu sách bao gồm hương ước của các xã trong tổng Đại Từ, Thái Lạc, Lạc Đạo, Như Quỳnh, Nghĩa Trai, Đồng Xá, Lương Tài, Nghĩa Trai huyện Văn Lâm. Mỗi tổng có vài xã, mỗi xã có một vài thôn có hương ước. Hương ước có thể là của riêng từng thôn, hoặc của chung xã, thậm chí của riêng hội Tư văn, hay của giáp Hương ẩm... Luận văn chủ yếu dựa vào nguồn tài liệu này, kết hợp với điều tra thực địa làng xã huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên để xây dựng bộ sưu tập đầy đủ tư liệu hương ước của huyện. 4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Luận văn lấy đối tượng nghiên cứu chính là các văn bản hương ước cổ truyền của các làng xã thuộc huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, theo đơn vị hành chính đầu thế kỷ XX, được lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Vì số lượng tư liệu nhiều, nên chúng tôi tập trung lập thư mục tóm tắt tất cả văn bản hương ước cổ truyền của huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, trên cơ sở đó, phân loại và đi sâu phân tích văn bản và giá trị nội dung một số văn bản có niên đại 3 sớm mang tính đặc thù tiêu biểu cho mỗi loại hình văn bản hương ước, mỗi địa phương. 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu văn bản học Hán Nôm, nhằm xác định niên đại văn bản, bao gồm niên đại xuất hiện hương ước và niên đại sao chép ương ước. Bên cạnh đó là phương pháp thống kê, phân tích rất có ý nghĩa quan trong trong quá trình xử lý tư liệu. Ngoài ra, chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành vì hương ước là loại tư liệu Hán Nôm mang tính chất đa ngành.Nhằm khai thác tư liệu liên quan đến phong tục truyền thống làng xã, truyền thống văn hóa nơi làng xã chúng tôi đã vận dụng tri thức của nhiều ngành khoa học khác nhau như sử học, văn hóa dân gian, dân tộc học… 6. MỤC ĐÍCH VÀ ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN Trước hết luận văn đưa ra một sưu tập tương đối đầy đủ về hương ước cổ truyền làng xã huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. Đồng thời lập các bảng thống kê chi tiết, cụ thể, cho phép đánh giá đầy đủ về số lượng văn bản hương ước ở các làng xã trong huyện Văn Lâm. Qua đó, luận văn xác định những văn bản có niên đại sớm, cũng như những văn bản có giá trị nội dung tiêu biểu cho các loại hình hương ước tiêu biểu, làng xã cổ truyền tiêu biểu. Luận văn bước đầu phân tích giá trị hương ước trong bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa nơi làng xã ở huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. 7. CẤU TRÚC LUẬN VĂN Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn bao gồm ba chương: Chương 1: Khái quát về huyện Văn Lâm và hương ước cổ truyền huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên Chương 2: Văn bản hương ước cổ truyền huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên 4 Chương 3: Nội dung và giá trị văn bản hương ước cổ truyền huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên KIẾN NGHỊ TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 5 Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN VĂN LÂM VÀ HƯƠNG ƯỚC CỔ TRUYỀN HUYỆN VĂN LÂM, TỈNH HƯNG YÊN 1.1. Hệ thống làng xã huyện Văn Lâm - nơi lưu giữ hương ước cổ truyền 1.1.1. Huyện Văn Lâm ngày nay Tỉnh Hưng Yên nằm ở trung tâm của đồng bằng sông Hồng, được thành lập vào năm 1831 gồm 2 phủ (Khoái Châu và Tiên Hưng). Phủ Khoái Châu có 5 huyện: Đông An (Khoái Châu), Kim Động, Thiên Thi (Ân Thi), Phù Dung (Phù Cừ), Tiên Lữ; Phủ Tiên Hưng có 3 huyện: Thần Khê, Diên Hà, Hưng Nhân. Đến cuối thế kỉ, 3 huyện của phủ Tiên Hưng cắt về tỉnh Thái Bình và nhập thêm 3 huyện của tỉnh Hải Dương, Bắc Ninh là Yên Mĩ, Mĩ Hào, Văn Lâm. Đến năm 1947, nhập thêm huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh. Sau nhiều lần chia tách, sáp nhập địa giới trong lịch sử, tỉnh Hưng Yên ngày nay có 09 đơn vị hành chính cấp huyện và 01 thành phố trực thuộc tỉnh gồm: thành phố Hưng Yên, huyện Kim Động, Tiên Lữ, Phù Cừ, Ân Thi, Khoái Châu, Văn Giang, Yên Mĩ, Văn Lâm, Mĩ Hào. Trong đó, Văn Lâm là huyện nằm ở phía bắc tỉnh Hưng Yên, phía bắc và đông bắc giáp tỉnh Bắc Ninh, phía tây giáp thủ đô Hà Nội, phía nam giáp các huyện Văn Giang, Yên Mỹ và Mỹ Hào, phía đông giáp tỉnh Hải Dương. Cũng như các địa phương thuộc đồng bằng sông Hồng khác, huyện Văn Lâm có địa hình bằng phẳng, điều kiện khí hậu thủy văn thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, có điều kiện thâm canh gối vụ, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi… Ngoài ra, huyện có Quốc lộ 5A và đường sắt Hà Nội - Hải Phòng chạy từ đông sang tây, hai trục giao thông này là điều kiện thuận lợi để Văn Lâm có thể giao lưu trực tiếp với hai trung tâm kinh tế, văn hóa lớn, quan trọng của 6 các tỉnh phía Bắc là Hà Nội và Hải Phòng. Hiện nay, Văn Lâm là trung tâm công nghiệp, thương mại quan trọng của tỉnh Hưng Yên. Bên cạnh đó, nhiều khu đô thị mới đang được xây dựng tại đây góp phần tạo nên diện mạo mới cho khu vực năng động này. Văn Lâm là vùng đất giàu tính văn hiến - văn hóa - anh hùng, chịu ảnh hưởng của văn hóa Kinh Bắc, có nhiều di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh tầm cỡ vùng, quốc gia như: chùa Nôm, cầu đá, chùa Thái Lạc, đền Nguyên phi Ỷ Lan, Từ Vũ họ Trương...hấp dẫn du khách. Hàng năm, lễ hội cổ truyền diễn ra tại các di tích trên thu hút hàng ngàn lượt người trong và ngoài tỉnh tham gia. Lạc Đạo là một trong xã của tỉnh Hưng Yên nổi tiếng trong cả nước về truyền thống hiếu học. Xã có một trạng nguyên, 2 hoàng giáp và 8 tiến sĩ. Huyện Văn Lâm có lịch sử phát triển lâu đời gắn liền với các làng nghề truyền thống nổi tiếng như làng nghề đúc đồng tại làng Nôm đã đi vào ca dao xưa: Đồng nát thì về cầu Nôm/ Con gái nỏ mồm về ở với cha. Thời Lê trung hưng, người dân nơi đây về Thăng Long lập phường đúc tiền cho triều đình, tạo nên phố Lò Đúc ngày nay. Lạc Đạo và Nghĩa Trai nổi tiếng trong cả nước không chỉ với danh đất học, đất làm thầy mà còn nổi tiếng bởi các nghề truyền thống. Lạc Đạo gạo trắng, nước trong cất nên rượu nồng men say: Đất Lạc Đạo lưu linh say ngất/ Rượu Nam bang đệ nhất là đây. Để chưng cất được mẻ rượu theo cổ truyền đạt tiêu chuẩn, người dân Lạc Đạo phải cẩn trọng từ khâu chọn lựa gạo nếp, đồ xôi, đến khâu ủ men, nấu rượu. Cách nấu rượu của người dân nơi đây theo phương pháp “ba tòa” truyền thống. Nhưng có lẽ vì có bí truyền “Men Lạc Đạo, gạo đồng Bừng”nên từ bậc tao nhân mặc khách đến người dân thường khi uống rượu Lạc Đạo đều “tửu lạc vong bần tại đạo” (uống rượu vui quên nghéo yên ở đạo). 7 Theo truyền thuyết, nghề thuốc ở Nghĩa Trai, xã Tân Quang có từ thời vua Lí Thần Tông (1128-1138), đến thời Trần đã phát triển thành trung tâm trồng và chế biến thuốc: Dù ai buôn đâu bán đâu/ Thuốc Nam thuốc Bắc thì về Nghĩa Trai. Người dân địa phương đã giữ gìn và phát triển nghề cho đến ngày hôm nay. Huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên hiện có 11 đơn vị hành chính cấp xã gồm thị trấn Như Quỳnh và 10 xã: Lạc Đạo, Chỉ Đạo, Đại Đồng, Việt Hưng, Lương Tài, Minh Hải, Lạc Hồng, Đình Dù, Trưng Trắc, Tân Quang. Các cơ quan công quyền của huyện chủ yếu nằm tại thị trấn Như Quỳnh. Thị trấn Như Quỳnh diện tích hành chính là 7,07 km2 gồm 6 thôn phố: Hành Lạc, Ngô Xuyên, Như Quỳnh, Ngọc Quỳnh, Minh Khai, phố Như Quỳnh. Xã Lạc Đạo diện tích hành chính là 8,58 km2 gồm 12 thôn: thôn Giữa, Cầu, Trình, Ngọc, Cự, Mụ, Hoằng, Đoan Khê, Hùng Trì, Tân Nhuế, Đồng Xá, Hướng Đạo. Xã Chỉ Đạo diện tích hành chính là 5,97 km2 gồm 4 thôn: Trình Xá, Cát Lư, Nghĩa Lộ, Đông Mai. Xã Đại Đồng diện tích hành chính là 8,03 km2 gồm 9 thôn: Đại Đồng, Đồng Xá, Đại Bi, Đại Từ, Xuân Phao, Văn Ổ, Lộng Thượng, Bùng Đông, Đình Tổ. Xã Việt Hưng diện tích hành chính là 7,55 km2 gồm 8 thôn: Đồng Chung, Mễ Đậu, Thục Cầu, Phả Lê, Sầm Khúc, Thanh Miếu, Cự Đình, thôn Ga. Xã Tân Quang diện tích hành chính là 6,02 km2 gồm 8 thôn: Nghĩa Trai, Thọ Khang, Bình Lương, Ngọc Đà, Cự Dũng, Ngọc Loan, Tăng Bảo, Chí Trung. 8 Xã Đình Dù diện tích hành chính là 4,48 km2 gồm 5 thôn ấp: Thị Trung, Đình Dù, Ngải Dương, Xuân Lôi, ấp Đồng Xá. Xã Minh Hải diện tích hành chính là 7,73 km2 gồm 6 thôn: Thanh Khê, Hoàng Nha, Thanh Đặng, thôn Chùa, thôn Ao, thôn Khách. Xã Lương Tài diện tích hành chính là 8,89 km2 gồm 14 thôn: Xuân Đào, Khuyến Thiện, Tuấn Lương, Phú Nhuận, Mậu Lương, Nghi Cốc, Lương Tài, Đông Trại, thôn Bến, Tân ấp, Tảo A-B, Tảo C, Dinh Khuốc. Xã Trưng Trắc diện tích hành chính là 4,90 km2 gồm 6 thôn: An Lạc, Tuần Dị, Nhạc Lộc, Trai Túc, Ngọc Lịch, Mộc Ti. Xã Lạc Hồng diện tích hành chính là 5,20 km2 gồm 7 thôn: Bình Minh, Nhạc Miếu, Hồng Thái, Phạm Kham, Minh Hải, Quang Trung, Hồng Cầu. Bản đồ hành chính huyện Văn Lâm ngày nay 9 1.1.2. Hệ thống làng xã huyện Văn Lâm Huyện Văn Lâm được thành lập từ năm 1890, gồm đất đai của các huyện Văn Giang (tổng Đại Từ, Thái Lạc), huyện Gia Lâm (tổng Lạc Đạo, Nghĩa Trai, Như Kinh), huyện Siêu Loại (tổng Đồng Xá), huyện Lang Tài (tổng Lang Tài), tỉnh Bắc Ninh. Theo số liệu lưu trữ qua tập sách Địa danh và tài liệu lưu trữ về tên làng xã Bắc Kỳ (Viễn Đông bác cổ Pháp tại Hà Nội, Hà Nội 1999, trang 440441), huyện Văn Lâm có 7 tổng là: Nghĩa Trai gồm 7 xã: Tam Dị (Tuấn Dị), Nhạc Lộc, Trai Túc, Nghĩa Trai, Đình Luân (Đình Loan), Cự Sưu (Cự Dũ), Chí Trung. Thái Lạc gồm 11 xã: Thái Lạc, Nhạc Miếu, Ôn Xá, Thị Trung, Đình Dù, Ngải Dương, Thanh Khê, Hoàng Nha, Thanh Đặng, Hương Lãng, An Lạc. Như Quỳnh gồm 5 xã: Hành Lạc, Ngô Xuyên, Như Quỳnh, An Xuyên, Ngọ Cầu. Lạc Đạo gồm 5 xã: Lạc Đạo, Đoan Khê, Hùng Trì, Ngu Nhuế, Hướng Đạo. Đại Từ gồm 6 xã: Đại Từ, Lộng Đình, Trình Xá, Cát Lư, Nghĩa Lộ, Đông Mai. Lương Tài gồm 9 xã: Cận Duyệt, Mậu Duyệt, Nhuận Trạch, Đồng Xuyên, Xuân Đào, Khuyến Thiện, Tuấn Lương, Mậu Lương, Lương Tài. Đồng Xá gồm 5 xã: Mĩ Xá, Thục Cầu, Sầm Khúc, Đồng Xá, Đại Đồng. Theo tài liệu kê khai Thần tích sắc phong của các địa phương trong huyện Văn Lâm năm 1938 (hiện lưu giữ tại Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội), huyện Văn Lâm khi đó có 8 tổng, gồm tổng Đại Lâm, Đại Từ, Đồng Xá, Lạc Đạo, Lương Tài, Nghĩa Trai, Như Quỳnh và Thái Lạc. 10 Năm 1977, Hội đồng Chính phủ hợp nhất huyện Văn Lâm và Mĩ Hào thành một huyện lấy tên là Văn Mĩ. Năm 1979, Hội đồng chính phủ hợp nhất huyện Văn Yên và Văn Mĩ (trừ 14 xã cắt sang huyện Khoái Châu) thành một huyện lấy tên là Mĩ Văn. Năm 1999, huyện Mĩ Văn được chia thành 3 huyện: Văn Lâm, Yên Mĩ và Mĩ Hào. Sau nhiều lần sáp nhập, chia tách, về cơ bản, địa giới huyện Văn Lâm ngày nay tương đương huyện Văn Lâm trước khi nhập thành huyện Mĩ Văn. Có nghĩa là tương đương huyện Văn Lâm vào những năm đầu trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945. So sánh các địa danh hành chính thuộc các xã phường ngày nay, địa danh địa giới xã hầu như không thay đổi. Chính vì vậy văn bản hương ước ở các làng xã trong huyện Văn Lâm lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm được sưu tập vào những năm đầu thế kỷ trước, bao gồm cơ bản hương ước làng xã huyện Văn Lâm xưa và nay. So với các địa phương khác trong tỉnh, huyện Văn Lâm ngày nay có nguồn lực khá tiềm năng trong việc phát triển kinh tế địa phương. Sự phát triển kinh tế nhanh, thúc đẩy quá trình hiện đại hóa nông thôn, góp phần biến đổi nhanh chóng cảnh quan nông thôn đồng thời tác động mạnh mẽ, sâu sắc đến lối sống, tập tục của người dân nơi đây đặc biệt là đối với giới trẻ. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống bị mai một, nhiều giá trị văn hóa mới không phù hợp với thuần phong mĩ tục xuất hiện. Những hệ lụy do chúng gây ra tác động xấu đến môi trường văn hóa xã hội của địa phương. Vì vậy vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị tục lệ cổ truyền như thế nào cho phù hợp với xu hướng xây dựng nông thôn mới ngày nay ở huyện Văn Lâm cũng như các địa phương khác, được đặt ra hết sức cấp bách. Muốn giải đáp được điều đó trước hết cần hiểu rõ đặc điểm và nội dung tục lệ cổ truyền ở Văn Lâm. 11 1.2. Đôi nét về hương ước và hương ước huyện Văn Lâm 1.2.1 Khái niệm Hương ước là một loại hình văn bản đã từ rất lâu được các nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau. Để đi sâu tìm hiểu về hương ước trong làng xã, trước hết chúng ta tìm hiểu về thuật ngữ hương ước. Hương ước, về nghĩa chữ Hán hương là làng, còn ước là quy ước, tức là chỉ quy ước ở hương. Thuật ngữ này xuất hiện ở Trung Quốc và ở các nước trong khu vực sử dụng chữ Hán và ảnh hưởng văn hóa Hán như Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản. Tuy nhiên, quy mô, phạm vi của hương ở mỗi nước một khác. Nhìn chung hương ở Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên trước đây thường lớn hơn hương ở Việt Nam. Từ điển “Tân Từ Hải” giải thích: Hương (鄉) là khu vực phía ngoài thành phố (Thời Chu một hương bao gồm 12.000 nhà), còn ước (約) là điều kiện ấn định, đặt ra [23]. Vì thế số lượng hương ước ở Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên bao gồm một vùng dân cư rộng lớn hơn nhiều so với ở Việt Nam. Khái niệm về hương ước, ở Việt Nam được một số nhà nghiên cứu đã đề cập đến. Theo GS. Phan Đại Doãn, hương ước là luật lệ làng, bắt buộc các thành viên phải tuân thủ. Hương ước gắn bó các thành viên trong trong một cộng đồng tương đối chặt chẽ và tự nguyện, lệ thuộc lẫn nhau, phục tùng làng xã. [2, tr.87] GS. Ninh Viết Giao cho rằng: “Hương ước là văn bản pháp lý của mỗi làng, trong đó bao gồm các điều ước về dân sự, hình sự, các điều ước về giữ gìn đạo lý, về phong tục tập quán v.v… có liên quan đến tổ chức xã hội cũng như đời sống nhân dân trong làng. Hương ước dùng để điều hoà quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với tập thể, hoặc giữa tập thể này với tập thể khác. Do đó cần phải xây dựng những quy ước chung. Đồng thời 12 hương ước còn là tấm gương phản chiếu bộ mặt xã hội cũng như đời sống văn hoá của mỗi làng.” [7, tr.521] Trên thực tế, hương ước có nhiều tên gọi khác nhau. Theo PGS.TS Vũ Duy Mền trong cuốn Hương ước làng xã bắc bộ Việt Nam với luật làng Kanto Nhật Bản, khái niệm hương ước có khoảng 50 tên gọi khác nhau, như: hương tục, hương lệ, hương biên, hương khoán, lệ tục, phe khoán, phiên khoán, sự lệ, tục lệ, ước lập, văn ước, khoán ước, khoán lệ, khoán bạ ..v.v… Các văn bản Hán Nôm liên quan đến hương ước hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm chủ yếu được gọi là tục lệ. Vì thế khi sưu tập và giới thiệu các văn bản này, PGS.TS Đinh Khắc Thuân gọi là tục lệ, “Tục lệ làng xã cổ truyền Việt Nam” [22]. Những văn bản hương ước, tục lệ hay khoán lệ này có thể được gọi chung là hương ước làng xã truyền thống, hay tục lệ cổ truyền. Hương ước được truyền khẩu từ rất sớm trước khi được văn bản hóa trên các chất liệu như đá, đồng, gỗ, giấy…Cho đến nay, các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa vẫn chưa xác định được chính xác thời điểm ra đời của hương ước. Hương ước ra đời sớm nhất hiện tìm thấy là bản sao “Hương ước làng Tri Lễ” thuộc huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An. Theo nhà nghiên cứu Trần Thanh Tâm, hương ước này được thể hiện trên loại giấy bản khổ rộng 43 x 36 đã vàng ố và mục nát bốn góc. Tờ thứ nhất và mặt trước của tờ thứ hai ghi niên hiệu, chức vụ viên tiểu ti (chức quan xã thời Lê sơ), chữ kí (thủ bút) và con dấu của viên quan đó. Nội dung của văn bản yêu cầu về việc sắm sửa áo mũ để đón xa loan của Bình Định hoàng đế đi tuần qua. Các quan viên, chức sắc đã lập ra tờ giao ước quy định về việc cắt đặt các viên quan tế, cách ăn mặc của dân, nói năng phải theo phép nước. Người nào dung tục, mọi rợ, sơ xuất phải chịu trọng tội. 13 Về hình thức, nội dung của các văn bản hương ước xuất hiện sớm đều sơ lược, chưa đầy đủ, phong phú như các bản sau này. Đến thời Lê Thánh Tông (1460-1496), triều đình đã ra sắc lệnh thể chế hóa hương ước. Điều này khẳng định các làng xã người Việt lập hương ước từ thế kỉ XV. Thời Lê Trung hưng, cuốn Lê triều giáo hóa điều luật ra đời gồm 47 điều nhằm khuyên bảo dân chúng sống trung hiếu, tiết nghĩa, giữ luân lí đạo đức và các truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Sang thời Nguyễn, vua Minh Mệnh đã ban hành các điều luật nhằm răn đe tệ về ăn uống, cưới xin, ma chay, thờ thần, thờ Phật …thông qua sách Chấn chỉnh hương phong. Như vậy, trải qua các thời kì từ Lê sơ đến triều Nguyễn, nhà nước phong kiến luôn có các điều luật nhằm quản lí và chấn chỉnh các hoạt động làng xã. Hương ước đã tồn tại song song với pháp luật của nhà nước, từng giữ vai trò là công cụ để điều chỉnh các mối quan hệ trong cộng đồng và để quản lí làng xã. Hương ước được người xưa tạo ra để đưa pháp luật của nhà nước phong kiến về làng xã, nơi mà người dân trình độ văn hóa thấp, cả đời chưa ra khỏi lũy tre làng. Hương ước của làng xã góp phần cùng với luật pháp của nhà nước để quản lí xã hội. Đồng thời, nhà nước cũng dùng các chính sách để chỉnh đốn phong tục mà chủ yếu là các hủ tục, không để hương ước thoát li khỏi luật pháp, làng xã nằm ngoài sự bảo hộ của nhà nước. Hương ước cải lương Từ đầu thế kỉ XX, nhất là từ sau chiến tranh Thế giới lần thứ nhất (1914-1918), chính quyền Đông Dương cải tổ bộ máy hành chính làng xã (Réorganisation d"Administration communale) được mở đầu từ Nam Kỳ vào năm 1904. Đến tháng 8 năm 1921 cải lương hương chính mới bắt đầu ở Bắc Kỳ với trọng tâm là thay thế Hội đồng kỳ mục (Hội đồng của các chức dịch là lão làng) bằng Hội đồng tộc biểu (Hội đồng với các đại diện là tộc họ). Hội đồng tộc biểu này được gọi là Hội đồng hương chính. Nghị định số 1949 kí 14 ngày 12 tháng 8 năm 1921 do Thống sứ Bắc kì quy định thành lập ở mỗi làng một Hội đồng tộc biểu với số lượng thành viên tuỳ thuộc số dòng họ và nhân khẩu trong làng; các tộc biểu phải từ 25 tuổi trở lên, biết chữ quốc ngữ và có tài sản. Nhiệm vụ của Hội đồng tộc biểu là quản lý, điều hành công việc làng xã, thực thi các chỉ thị và nghĩa vụ với Nhà nước. Bên cạnh việc thiết lập Hội đồng tộc biểu, chính quyền thuộc địa cho văn bản hoá việc cải cách làng xã này qua các điều khoản của Hương ước cải lương. Về hình thức, văn bản hương ước cải lương giống như văn bản hương ước truyền thống. Nội dung hương ước cải lương cũng giống như nội dung của hương ước truyền thống đều bao gồm các quy ước liên quan đến bộ máy hành chính và các tổ chức xã hội trong làng xã, quy ước về các hoạt động văn hóa xã hội, quy ước về việc thờ thần và tế lễ hàng năm, quy ước liên quan đến sản xuất nông nghiệp và hoạt động của một số phường hội thủ công, quy ước về thưởng phạt, quá trình điều chỉnh và bổ sung hương ước…Song, bố cục nội dung của hương ước truyền thống được trình bày theo các điều mục lớn, trong các điều mục lớn đó lại bao gồm nhiều ý nhỏ, còn bố cục nội dung của hương ước cải lương bao gồm hai phần lớn: một là Chính trị - Tổ chức hội đồng tộc biểu; hai là Tục lệ. Về việc tái lập hương ước Việc tái lập hương ước được khởi đầu từ năm 1993, sau Nghị quyết Trung ương V của Ban chấp hành Trung ương khoá VII Khuyến khích xây dựng và thực hiện các hương ước, các quy chế về nếp sống văn minh ở các thôn xã. Tiếp đó nhiều đại phương tổ chức biên soạn hương ước mới mà phần lớn đều gọi là Quy ước làng văn hoá. Nội dung các quy ước xây dựng làng văn hoá ở huyện Văn Lâm tỉnh Hưng Yên, cũng như ở các địa phương khác đều dựa theo quy định chung. So 15 với hương ước cải lương, Quy ước làng văn hoá ngắn gọn, rõ ràng hơn, gồm các chương Quy định chung, Xây dựng gia đình văn hoá, Thực hiện nếp sống văn minh, Chấp hành pháp luật, Trưởng thôn và hội nghị làng, Xây dựng cơ sở hạ tầng, Khuyến học khuyến nông, Khen thưởng kỷ luật và chương Tổ chức thực hiện. Hương ước cổ truyền hay Hương ước cải lương hoặc Quy ước làng văn hoá ở Văn Lâm tỉnh Hưng Yên là vô cùng phong phú, có vai trò nhất định trong việc xây dựng và phát huy truyền thống văn hoá nơi làng xã, góp phần quản lý và phát triển làng xã trong tiến trình lịch sử. Trong luận văn này, chúng tôi đặt vấn đề nghiên cứu hương ước cổ truyền ở Văn Lâm. 1.2.2. Hương ước cổ truyền huyện Văn Lâm Chúng tôi giới thiệu ở đây, hương ước cổ truyền hay tục lệ làng xã cổ truyền huyện Văn Lâm tỉnh Hưng Yên được sưu tập và lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội. Tên gọi văn bản hương ước ở Văn Lâm xuất hiện với các tên gọi khác nhau như hương ước 鄉 約, khoán lệ 券 例, khoán ước 券約, tục lệ 俗 例, trong đó, tục lệ và khoán lệ được sử dụng rộng rãi và phổ biến nhất, chẳng hạn: Hưng Yên tỉnh Văn Lâm huyện các xã hương ước phong thổ tục lệ 興 安 省 文 林 縣 各 社 鄉 約 風 土 俗 例 , kí hiệu AF.a3/62, Hưng Yên tỉnh Văn Lâm huyện các xã khoán lệ 興 安 省 文 林 縣 各 社 券 例, Hưng Yên tỉnh Văn Lâm các xã khoán ước 興 安 省 文 林 縣 各 社 券 約, Hưng Yên tỉnh Văn Lâm huyện các xã tục lệ 興 安 省 文 林 縣 各 社 俗 例,... Số lượng văn bản tục lệ cổ truyền huyện Văn Lâm trong kho tư liệu Hương ước Viện Nghiên cứu Hán Nôm, được tập hợp theo đơn vị làng, xã, 16 tổng trong huyện vào những năm đầu thế kỷ XX, bao gồm các địa phương sau đây [12, tr. 842-868]: 1. Tục lệ 6 xã tổng Đại Từ 大 慈 huyện Văn Lâm 興 安 省 文 林 縣 各 社 鄉 約 俗 例, AF.a3/62, 1 bản viết, 334 trang. 2. Tục lệ 5 xã tổng Lạc Đạo huyện Văn Lâm 興 安 省 文 林 縣 各 社 券 例 第 一 本, AFa3/68, 1 bản viết, 198 trang. 3. Tục lệ 3 thôn của xã Hương Lãng, tổng Thái Lạc, huyện Văn Lâm 興 安 省 文 林 縣 各 社 券 例, AFa3/81, 1 bản viết, 206 trang. 4. Tục lệ 3 thôn xã Hương Lãng, tổng Thái Lạc, huyện Văn Lâm 興 安 省 文 林 縣 各 社 券例, AFa3/82, 1 bản viết, 222 trang. 5. Tục lệ 2 thôn xã Ngải Dương, tổng Thái Lạc, huyện Văn Lâm 興 安 省 文 林 縣 各 社 券例, AFa3/85, 1 bản viết, 170 trang. 6. Tục lệ 1 giáp 3 thôn 3 xã thuộc tổng Thái Lạc, huyện Văn Lâm 興 安 省 文 林 縣 各 社 券 約, AFa3/79, 1 bản viết, 408 trang. 7. Tục lệ 1 thôn 3 xã thuộc tổng Thái Lạc, huyện Văn Lâm 興 安 省 文 林 縣 各 社 俗 例, AFa3/86, 1 bản viết, 390 trang. 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan