TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG & XÃ HỘI
LỚP CĐ07NL
MÔN HỌC : CHUYÊN ĐỀ CHUYÊN SÂU
BÀI CHUYÊN ĐỀ CUỐI KHÓA
TÊN ĐỀ TÀI
NGHIÊN CỨU VÀ PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG
CỦA HOẠT ĐỘNG TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI
TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN MAY SÀI GÒN 3
GVHD : NGUYỄN NGỌC TUẤN
SVTH : PHẠM THỊ LAN HƯƠNG
LỚP CĐ07NL
Cảm ơn thầy Nguyễn Ngọc Tuấn đã tận tình giúp chúng
em hoàn thành tốt bài chuyên đề này. Xin cảm ơn thầy!
MỤC LỤC
Phần I:
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3. Phương pháp nghiên cứu
Phần II: NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH
NGHIỆP
1. Một số khái niệm
a. Trách nhiệm xã hội ở doanh nghiệp.
b. Tiêu chuẩn SA8000.
2. Tình hình thực hiện trách nhiệm xã hội ở nước ta.
c. Áp dụng ở Việt Nam
d. Áp dụng ở Doanh nghiệp
II. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG TIÊU CHUẨN SA8000 Ở CÔNG TY CỔ
PHẦN MAY SÀI GÒN 3
1. Thực trạng áp dụng tại công ty.
a. Quy trình áp dụng
b. Phân tích thực trạng
c. Các bước triển khai của SA8000.
d. Kinh phí thực hiện.
e. Lợi ích đem lại
f. Khó khăn, trở ngại.
2. So sánh các bộ tiêu chuẩn với quy định của Pháp luật ở Việt Nam.
3. Nhận xét.
III. GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ
1. Một số điểm cần lưu ý
2. Kiến nghị
Phần III:
KẾT LUẬN
PHẦN I : MỞ ĐẦU
I.
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Ngày nay, khi đất nước trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước thì buộc nước ta phải có nhiều thay đổi về các mặt như: kinh tế,
chính trị, văn hóa, an ninh… để hòa nhập với sự phát triển của thế giới.
Toàn cầu hoá kinh tế là một xu hướng khách quan tạo nhiều cơ hội
phát triển cho các quốc gia, nhất là duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao,
sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, trước hết là nguồn nhân lực, tạo nhiều
công ăn việc làm, giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội, cải thiện đời sống
nhân dân. Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình hợp tác, đấu tranh và cạnh
tranh, tạo ra nhiều cơ hội và thách thức.
Với chính sách đổi mới và mở cửa, chủ động gia nhập vào nền kinh tế
quốc tế của Đảng và Nhà nước đã đưa lại những thành tựu lớn trong việc
phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta, làm thay đổi bộ mặt của nước ta trên
thị trường quốc tế.
Cùng với việc ban hành Luật Khuyến khích đầu tư nước ngoài và một loạt
các văn bản pháp luật hỗ trợ quá trình hội nhập, Việt Nam đã thực hiện
AFTA trong khối ASEAN, gia nhập diễn đàn APEC, mở rộng quan hệ
thương mạivà đầu tư với EU, Nhật Bản, kí hiệp định Thương mại Việt
Nam - Hoa kỳ và đang trong quá trình đàm phán gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO). Điều này đã mang lại cho các doanh nghiệp
Việt Nam nhiều cơ hội cũng như thách thứcmới cùng với những "luật
chơi" mới. Một trong những luật chơi mới đó là thực hiện "Trách nhiệm
của Xã hội của Doanh nghiệp" liên quan đến một số nội dung chủ yếu
thuộc lĩnh vực lao động và môi trường, thông qua những "Bộ Quy tắc ứng
xử" (Code of Conduct).
Thời gian gần đây, dư luận đang quan tâm chặt chẽ và bức xúc đối với
hàng
loạt vụ vi phạm đạo đức kinh doanh, xâm hại môi trường và sức khỏe con
người ở mức độ nghiêm trọng; đặc biệt là vụ xả trực tiếp chất thải không
qua xử lý ra sông Thị Vải của công ty Vedan ở Việt Nam. Sự đúng – sai
trong những vụ việc trên là rõ ràng. Tuy nhiên, đối với xã hội và hàng
ngàn doanh nghiệp đang hoạt động khác, bài toán về. Trách nhiệm xã hội
của doanh nghiệp (CSR) lại được đặt ra và cần được thảo luận nghiêm túc
cả về mặt lý luận chính sách và thực tiễn.
Hiện nay, ở Việt Nam đã có 25 doanh nghiệp được cấp chứng nhận đạt
tiêu
chuẩn SA 8000, như: Công ty Dệt may Việt Thắng, Công ty dệt may
Thành Công, Công ty Xuất nhập khẩu dệt may Việt Tiến, Castrol
Vietnam, Legamex...Chính vì vậy nên em muốn tìm hiểu xem thực trạng
của các công ty trên đã áp dụng tiêu chuẩn SA8000 này ra sao nhằm tìm
hiểu những kết quả tích cực trong thời gian qua cũng như những mặt hạn
chế, những điểm khó khăn cần giải quyết trong lĩnh vực này.
II.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Bộ tiêu chuẩn thực hiện Trách Nhiệm Xã Hội (TNXH).
- Quy định Pháp luật ở Việt Nam.
2. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Không gian : ở tại Công ty cổ phần may Sài Gòn 3.
- Thời gian : 9/4 đến 15/5/2010.
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Sưu tầm, thống kê tài liệu trên internet.
- Phỏng vấn giám đốc công ty.
- Phỏng vấn người lao động.
- Phỏng vấn công ty dịch vụ cung ứng.
- Hỏi ý kiến chuyên gia.
PHẦN II. NỘI DUNG
I.
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA
DOANH NGHIỆP
i.
MỘT SỐ KHÁI NIỆM
a. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
Năm 1973 Keith Davis đã đưa ra một khái niệm khá
rộng: “CSR là sự quan tâm và phản ứng của doanh nghiệp
với các vấn đề vượt ra ngoài việc thoả mãn những yêu cầu
pháp lý, kinh tế, công nghệ”.
Archie Carroll (1999) còn cho rằng CSR có phạm vi
rộng lớn hơn: “CRS bao gồm sự mong đợi của xã hội về
kinh tế, luật pháp, đạo đức và lòng từ thiện đối với các tổ
chức tại một thời điểm nhất định”.
Theo Matten và Moon (2004) lại cho rằng: “CSR là
một khái niệm chùm bao gồm nhiều khái niệm khác nhau
như đạo đức kinh doanh, doanh nghiệp là từ thiện, công dân
doanh nghiệp, tính bền vững và trách nhiệm môi trường. Đó
là một khái niệm động và luôn được thử thách trong từng
bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội đặc thù”…
Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp là điều kiện ràng
buộc đối với các hợp đồng xuất khẩu sang các nền kinh tế
phát triển, buộc phải tuân thủ khi ký kết hợp đồng.
Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp thể hiện qua các yêu
cầu về tuân thủ chế độ lao động tốt, an toàn vệ sinh thực
phẩm, sản phẩm sạch và bảo vệ môi trường.
Hội đồng Doanh nghiệp thế giới vì sự phát triển bền
vững: "CRS là sự cam kết trong việc ứng xử hợp đạo lý và
đóng góp vào sự phát triển kinh tế, đồng thời cải thiện chất
lượng cuộc sống của lực lượng lao động và gia đình họ,
cũng như của cộng đồng địa phương và của toàn xã hội nói
chung”
Phát triển kinh tế tư nhân của Ngân hàng Thế giới
(WB): “CRS là sự cam kết của doanh nghiệp đóng góp cho
việc phát triển kinh tế bền vững, thông qua những việc làm
nâng cao chất lượng đời sống của người lao động và các
thành viên trong gia đình họ; cho cộng đồng và toàn xã hội,
theo cách có lợi cho cả doanh nghiệp cũng như phát triển
chung của xã hội”…
Diễn giải cụ thể tất cả nội dung trên về CSR trong thời
hội nhập toàn cầu hoá kinh tế hiện nay có thể hiểu như sau
về nội hàm yêu cầu của nó:
1. Trách nhiệm với thị trường và người tiêu dùng
2. Trách nhiệm về bảo vệ môi trường
3. Trách nhiệm với người lao động
4. Trách nhiệm chung với cộng đồng.
Một số chứng chỉ quốc tế về trách nhiệm xã hội của DN
+ SA 8000: tiêu chuẩn lao động trong các nhà máy sản xuất.
+ WRAP: trách nhiệm toàn cầu trong ngành sản xuất may mặc.
+ ISO 9001: hệ thống quản lý chất lượng.
+ ISO 14001: hệ thống quản lý môi trường trong DN.
+CSR: cam kết của DN đóng góp cho sự phát triển bền vững,
thông qua những việc làm nâng cao chất lượng đời sống người lao động và các
thành viên gia đình họ.
Ngoài ra, những tập đoàn lớn như: Nike, Timberland, Gap, IKEA... đều có các
bộ quy tắc ứng xử (COC) riêng.
b. Khái niệm về SA8000
Trong tình hình các vụ tai tiếng ở một số công ty chưa phai
nhòa từ nhiều năm qua, một luồng gió thay đổi bền bĩ đang buộc các công ty
phải xem xét lại tác động toàn diện từ các chính sách và hoạt động của công ty
mình, đặc biệt là từ quan điểm của khách hàng / người tiêu dùng.
Công ty nào muốn giữ cho diện mạo công ty mình được đánh
giá cao thì không những phải xem xét lại ảnh hưởng về mặt xã hội từ các hoạt
động của chính công ty mình mà còn phải xem xét lại ảnh hưởng toàn diện về
mặt xã hội của điều kiện làm việc cho các nhà cung cấp và các đối tác kinh
doanh của mình. Thực chất, điều này có nghĩa là kiểm soát và thực hiện việc
tôn trọng cũng như đẩy mạnh nhân quyền của toàn thể nhân viên trong suốt
chuỗi cung cấp, sản xuất và phân phối.
Vậy, SA8000 là gì?
SA 8000 là tiêu chuẩn quốc tê ban hành năm 1997, đưa các yêu cầu về
Quản lý Trách nhiê êm Xã hô êi nhằm cải thiê nê điều kiê nê làm viê êc trên toàn cầu. SA
8000 được Hô êi đồng Công nhâ nê Quyền ưu tiên Kinh tế thuô êc Hô êi đồng Ưu tiên
kinh tế (CEP) xây dựng dựa trên các Công ước của Tổ chức lao đô nê g Quốc tế,
Công ước của Liên Hiê êp Quốc về Quyền Trẻ em và Tuyên bố Toàn cầu về Nhân
quyền. Hô êi đồng Công nhâ nê Quyền ưu tiên Kinh tế là mô êt tổ chức Phi chính phủ,
chuyên hoạt đô nê g về các lĩnh vực hợp tác trách nhiê êm xã hô iê , được thành lâ pê
năm 1969, có trụ sở đă êt tại New York.
SA 8000 có 9 điều khoản gồm:
1. Lao động trẻ em : Không có công nhân làm việc dưới 15 tuổi, tuổi tối thiểu cho
các nước đang thực hiện công ước 138 của ILO là 14 tuổi, ngoại trừ các nước đang
phát triển; cần có hành động khắc phục khi phát hiện bất cứ trường hợp lao động
trẻ em nào.
2. Lao động cưỡng bức : Không có bất kỳ hình thức lao đông bắt buộc, bao gồm
các hình thức lao động trả nợ hoặc lao động nhà tù, không yêu cầu đặt cọc giấy tờ
tuỳ thân hoặc bằng tiền khi được tuyển dụng;
3. Sức khỏe và sự an toàn : Môi trường làm việc phải đảm bảo an toàn và lành
mạnh, đưa ra những biện pháp phòng ngừa tai nạn và tổn hại đến sức khoẻ, tiến
hành các khóa đào tạo thường xuyên cho công nhân viên về an toàn lao động và
sức khỏe, các hệ thống nhằm bảo vệ những mối nguy hại đối với sức khỏe và sự an
toàn;
4. Tự do đoàn thể và quyền thương lượng tập thể : Người làm việc có quyền
thành lập và tham gia công đoàn theo sự lựa chọn và có quyền thương lượng tập
thể theo sự lựa chon của người lao động;
5. Phân biệt đối xử : Không phân biệt đối xử về các vấn đề chủng tộc, địa vị xã
hội, nguồn gốc, tôn giáo, người khuyết tật, giới tính, quan niệm về giới tính, thành
viên công đoàn hay quan điểm chính trị, hay tuổi tác, không quấy rối tình dục...
6. Hình thức kỉ luật : Không áp dụng các hình phạt về thể xác, tinh thần, không
lăng mạ, sỉ nhục;
7. Thời giờ làm việc : Phải tuân thủ theo luật pháp hiện hành, trong mọi trường
hợp- thời gian làm việc không vượt quá 48 giờ/tuần, có ít nhất một ngày nghỉ trong
bảy ngày; làm thêm ngoài giờ phải được ưu đãi và không vượt quá 12 giờ/tuần
trong ngày thường; làm ngoài giờ có thể bắt buộc nếu trong hợp đồng có thỏa
thuận.
8. Tiền lương : Lương của người lao động phải đáp ứng các tiêu chuẩn và quy
định của pháp luật và phải đáp ứng được nhu cầu cơ bản của người lao động và gia
đình của họ; không trừ lương do bị kỷ luật;
9. Các hệ thống quản lý : Tạo điều kiện thuận lợi để áp dụng và duy trì chứng
nhận nhằm hoà hợp với tiêu chuẩn trong hệ thống quản lý và thực hành của họ.
Điều 9 đưa ra yêu cầu về hệ thống quản lý các vấn đề liên quan tới
trách nhiệm xã hội của cơ sỏ. Hệ thống quản lý này được xây dựng
tương thích với hệ thống quản lý chất lượng, nghĩa là cũng có các
yêu cầu về hoạch định chính sách, xem xét của lãnh đạo, hành động
khắc phục, kiểm soát người cung ứng, trao đổi thông tin...
Tiêu chuẩn này có thể áp dụng cho các Công ty ở mọi qui mô lớn,
nhỏ ở cả các nước công nghiê êp phát triển và các nước đang phát
triển. Tiêu chuẩn SA 8000 là cơ sở cho các công ty cải thiê ên được
điều kiê nê làm viê êc.
Mục đích của SA 8000 không phải để khuyến khích hay chấm dứt
hợp đồng với các nhà cung cấp, mà cung cấp hỗ trợ về kỹ thuâ tê và
nâng cao nhâ nê thức nhằm nâng cao điều kiê ên sống và làm viê êc.
SA 8000 giúp các doanh nghiê êp đạt được mục tiêu đă êt ra và đảm
bảo lợi nhuâ nê liên tục. Công viê êc chỉ có thể được thực hiê ên tốt khi
có mô êt môi trường thuâ nê lợi, và sự ra đời của tiêu chuẩn quốc tế SA
8000 chính là để tạo ra môi trường đó.
SA 8000 là một tiêu chuẩn quốc tế khuyến khích các công ty sản
xuất và các tổ chức khác xây dựng, duy trì và áp dụng các việc thực
hành tại nơi làm việc mà xã hội có thể chấp nhận. Tiêu chuẩn SA
8000 do Tổ chức Trách nhiệm Xã hội Quốc tế (SAI) - là một thành
viên của Hội đồng về Quyền ưu tiên Kinh tế- xây dựng năm 1998.
Tiêu chuẩn này được xem là tiêu chuẩn về nơi làm việc có thể được
chấp nhận toàn cầu nhất và có thể được đánh giá ở mọi quy mô công
ty, ở bất kỳ nơi đâu và cho bất kỳ ngành công nghiệp nào.
Cùng với việc thiết lập các tiêu chuẩn liên quan đến quyền của người
lao động, SA 8000 tuân theo các thõa ước quốc tế hiện hành, bao gồm các
công ước của Tổ chức Lao động Quốc tế, bản Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân
quyền, và Công ước của Liên hiệp quốc về Quyền trẻ em.
Thực hiện lập trường phù hợp với đạo đức và minh bạch thông qua việc
chứng nhận công ty và các đối tác kinh doanh của bạn đang hoạt động theo
các yêu cầu của tiêu chuẩn SA 8000 sẽ mang lại các lợi ích lâu dài:
Việc thực hiện quản lý theo tiêu chuẩn SA 8000 mang lại lợi ích cho từ người lao
động đến công ty và các bên hữu quan khác có thể phân loại như sau:
a. Lợi ích đứng trên quan điểm của người lao động, các tổ chức công đoàn và
tổ chức phi chính phủ
Tạo cơ hội để thành lập tổ chức công đoàn và thương lượng tập thể.
Là công cụ đào tạo cho người lao động về quyền lao động.
Nhận thức của công ty về cam kết đảm bảo cho người lao động được làm việc
trong môi trường lành mạnh về an toàn, sức khoẻ và môi trường.
b. Lợi ích đứng trên quan điểm của khách hàng:
• Có niềm tin về sản phẩm được tạo ra trong mô êt môi trường làm viê êc an toàn và
công bằng
• Giảm thiểu chi phí giám sát
• Các hành động cải tiến liên tục và đánh giá định kỳ của bên Thứ Ba là cơ sở để
chứng tỏ uy tín của công ty
c. Lợi ích đứng trên quan điểm của chính doanh nghiệp:
• Cơ hô êi để đạt được lợi thế cạnh tranh, thu hút nhiều khách hàng hơn và xâm
nhâ pê được vào thị trường mới có yêu cầu cao
• Nâng cao hình ảnh công ty, tạo niềm tin cho các bên trong “Sự yên tâm về mă tê
trách nhiê êm xã hô êi”
• Giảm chi phí quản lý các yêu cầu xã hô êi khác nhau.
• Có vị thế tốt hơn trong thị trường lao đô êng và thể hiện cam kết rõ ràng về các
chuẩn mực đạo đức và xã hô êi giúp cho công ty dễ dàng thu hút được các nhân
viên giỏi, có kỹ năng. Đây là yếu tố được xem là “Chìa khoá cho sự thành công”
trong thời đại mới.
• Tăng lòng trung thành và cam kết của người lao động đối với công ty.
• Tăng năng suất, tối ưu hiệu quả quản lý
• Có được mối quan hê ê tốt hơn với khách hàng và có được các khách hàng trung
thành.
Nhưng cho đến đây kinh doanh vẫn chưa có ý nghĩa xấu và cử chỉ xấu khi
xuất hiện mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân của nhà doanh nghiệp với các lợi ích
chung của cộng đồng, xã hội, và nhà doanh nghiệp quyết định đánh đổi lợi ích
chung để tối đa hóa lợi ích cá nhân. Mâu thuẫn loại này khá phổ biến trong đời
sống xã hội, biểu hiện ở các hình thức như trốn thuế, sản xuất gây ô nhiễm môi
trường, sản xuất sản phẩm kém chất lượng, hối lộ nhằm chiếm đoạt các lợi ích
chung thành của riêng mình, lừa gạt khách hàng, người tiêu dùng…
Thật ra, không chỉ ở Việt Nam, các vấn đề này thu hút sự chú ý và tranh luận
của hầu hết quốc gia trên thế giới, nó dẫn đến các nghiên cứu lý luận và thực
nghiệm ở nhiều quốc gia về vấn đề này. Từ đây hình thành một trào lưu trong khoa
học quản trị và tiếp thị - trào lưu trách nhiệm xã hội trong kinh doanh. Nội hàm
chính của trào lưu này là để có thể phát triển lâu dài và thịnh vượng, các doanh
nghiệp không chỉ hướng đến phục vụ thật tốt khách hàng - mục tiêu của mình - mà
còn phải tuân thủ tốt các giá trị, qui định (tập quán, luật pháp) của cộng đồng/xã
hội, đồng thời đóng góp cho sự phát triển lành mạnh của cộng đồng/xã hội mà
doanh nghiệp đang là thành viên. Rất nhiều quan sát và nghiên cứu đều chỉ ra mối
quan hệ dương tính giữa trách nhiệm xã hội và lợi nhuận, mức độ phát triển của
doanh nghiệp.
Tuy nhiên, cách đặt vấn đề của các nhà kinh doanh thành đạt lại không phải
là liệu chúng ta có thể dung hòa lợi ích doanh nghiệp với lợi ích xã hội (như cách
đặt vấn đề ở trên) mà là chỉ khi các doanh nghiệp cam kết và thực hiện tốt trách
nhiệm với khách hàng và cộng đồng thì khi đó doanh nghiệp phát triển và thịnh
vượng. Nghĩa là trách nhiệm xã hội đã không còn là trách nhiệm, nó trở thành sứ
mệnh (mission) và mục tiêu định hướng cho các hoạt động của doanh nghiệp. Đến
đây rất nhiều doanh nghiệp băn khoăn, đành rằng các giá trị cộng đồng/xã hội là
điều tốt, nên làm, nhưng thực hiện chúng liệu có cải thiện kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp hay chỉ làm gia tăng các chi phí cho doanh nghiệp? Kinh nghiệm
của các doanh nghiệp cho thấy trong ngắn hạn chi phí có thể gia tăng, nhưng về
lâu dài chi phí giảm xuống đi kèm theo sự gia tăng của các lợi ích.
Doanh nghiệp nhận được lợi ích gì từ việc thực hiện các trách
nhiệm
xã
hội?
Đầu tiên và quan trọng nhất là xây dựng một hình
ảnh tốt về doanh nghiệp trong cộng đồng - một nền tảng quan
trọng của lợi thế cạnh tranh. Một hình ảnh tốt chính là cơ sở để
hình thành và xây dựng các thương hiệu mạnh. Thực hiện
nghiêm túc các giá trị, qui định của xã hội giúp doanh nghiệp
có được một môi trường kinh doanh (bên trong và bên ngoài)
lành mạnh, một đội ngũ nhân viên tận tụy, cam kết và đạo đức yêu cầu tất yếu của phát triển. Các yêu cầu về trách nhiệm xã
hội hiện nay đã trở thành các tiêu chuẩn phải có trong kinh
doanh chẳng hạn như SA8000 của dệt may. Thực hiện các tiêu
chuẩn này là điều kiện để tham gia các thị trường lớn như EU,
Nhật, Mỹ. Thực tiễn ở các doanh nghiệp ban đầu khi chưa quen
các tiêu chuẩn thì còn nhiều khó chịu và khúc mắc, nhưng khi
đi vào vận hành thì các tiêu chuẩn này còn giúp gia tăng năng
suất lao động và cải tiến chất lượng sản phẩm, vì các tiêu chuẩn
này liên quan rất nhiều đến quyền lợi người lao động, vệ sinh
môi trường làm việc, an toàn lao động…
(1) nền kinh tế thị trường chưa phát triển một cách hoàn chỉnh với đầy đủ
cơ chế, thể chế, tác nhân và nguồn lực của nó (luật pháp chưa đầy đủ, đồng bộ, thị
trường còn phân tán, qui mô nhỏ, thông tin thị trường chưa minh bạch, can thiệp
quá sâu của chính phủ vào thị trường thông qua các mệnh lệnh hành chính…).
(2) đi kèm với sự non trẻ của cơ chế thị trường là nhận thức chưa chính xác và
đầy đủ (một số trường hợp thì cố tình lợi dụng để trục lợi) của các nhà kinh doanh
và cả xã hội về chức năng và trách nhiệm kinh doanh.
Vậy để giải quyết các hiện tượng không lành mạnh hiện nay, yêu cầu đầu tiên
là đầu tư phát triển đồng bộ nền kinh tế thị trường. Một thị trường lành mạnh,
khỏe khoắn chính là một cơ chế hoàn thiện để nhận diện các khối u và loại trừ
chúng.
Thực tế chúng ta có thể tự hào và tự tin về những đóng góp của các doanh
nghiệp cho các hoạt động xã hội. Rõ ràng chúng ta không thiếu những tấm lòng.
Nhưng trách nhiệm xã hội không đơn thuần là lòng từ thiện. Trách nhiệm xã hội
phải gắn với một tầm nhìn xa để tạo ra những cơ hội phát triển.
2. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI Ở NƯỚC TA.
a. Áp dụng ở Việt Nam
Những năm gần đây, ở nước ta đã có một số doanh nghiệp chủ động thực hiện
CSR và nhờ đó thương hiệu của họ càng được xã hội biết đến như các tập đoàn
Mai Linh, Tân Tạo, Duy Lợi, ACB, Sacombank, Kinh Đô…
Từ năm 2005, nước ta đã có giải thưởng "CSR hướng tới sự phát triển bền
vững" được tổ chức bởi Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Bộ
Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ Công Thương cùng các hiệp hội Da giày,
Dệt may tổ chức, nhằm tôn vinh các doanh nghiệp thực hiện tốt công tác CSR
trong bối cảnh hội nhập. Cho đến năm 2006 đã có 50 doanh nghiệp ngành dệt may
và da giày tham dự hoạt động này vì đã nhận thấy tính thiết thực của nó. Khảo sát
do Viện Khoa học Lao động và Xã hội tiến hành gần đây trên 24 doanh nghiệp
thuộc hai ngành dệt may và da giầy đã chỉ ra rằng nhờ thực hiện các chương trình
CSR, doanh thu của các doanh nghiệp này đã tăng 25%, năng suất lao động cũng
tăng từ 34,2 lên 35,8 triệu đồng/lao động/năm, tỷ lệ hàng xuất khẩu tăng từ 94%
lên 97%.4 Ngoài hiệu quả kinh tế, các doanh nghiệp còn có lợi từ việc tạo dựng
hình ảnh với khách hàng, sự gắn bó và hài lòng của người lao động, thu hút lao
động có chuyên môn cao…
Gần đây, Hội nghị Doanh nhân tiêu biểu toàn quốc năm 2008 diễn ra trong hai
ngày 11 và 12/10/2008, đã có 100 doanh nhân Việt Nam tiêu biểu được trao tặng
Cúp Thánh Gióng - biểu tượng cho tinh thần, sức mạnh của doanh nhân Việt Nam
trong thời kỳ hội nhập. Đồng thời, tại Lễ kỷ niệm Ngày Doanh nhân Việt Nam
(13/10/2008) cũng đã có 100 doanh nhân được trao tặng danh hiệu Doanh nhân
Việt Nam tiêu biểu năm 2008. Các doanh nhân này cùng với các doanh nghiệp của
họ bên cạnh các thành tích xuất sắc trong sản xuất - kinh doanh, đồng thời cũng
đều là các điển hình thực hiện CSR đối với cộng đồng xã hội. Trước các doanh
nhân đại diện cho gần 300.000 doanh nghiệp cả nước tham dự Hội nghị Doanh
nhân tiêu biểu toàn quốc 2008, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã lưu ý
các doanh nhân, doanh nghiệp phải nâng cao hơn nữa trách nhiệm xã hội, coi đó là
một mục tiêu phấn đấu văn hóa kinh doanh, tăng cường sức cạnh tranh, từ đó
đóng góp nhiều hơn nữa cho đất nước.
Theo chỉ đạo của Thủ tướng, các doanh nghiệp hãy thể hiện trách nhiệm xã
hội, thể hiện văn hóa kinh doanh, đạo đức kinh doanh bằng việc tuân thủ đúng quy
định pháp luật. “Văn hóa kinh doanh không chấp nhận sự gian lận, không chấp
nhận việc gây ô nhiễm môi trường…”. Như vậy, có thể thấy CSR có sự gắn kết
chặt chẽ với văn hoá kinh doanh, văn hoá doanh nghiệp, và cũng chính là văn hoá
doanh nhân của tất cả các doanh nhân khi tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh trên thương trường.
Thực tiễn cho thấy, thực hiện trách nhiệm xã hội của các doanh Việt Nam thời
kỳ hội nhập toàn cầu hoá kinh tế hiện nay và nhiều năm tới ngày càng được các
doanh nhân nước ta nhận thức sâu sắc chính là những đóng góp của các doanh
nghiệp, doanh nhân vào việc phát triển kinh tế bền vững, thông qua những hoạt
động nhằm nâng cao chất lượng đời sống của người lao động và gia đình họ, có lợi
cho cả doanh nghiệp cũng như phát triển chung của cộng đồng xã hội.
Thực tiễn cũng đã cho thấy, trong tiến trình hội nhập kinh tế toàn cầu, CSR đã
trở thành một trong những yêu cầu đối với các doanh nghiệp Việt Nam, nếu doanh
nghiệp nào đó không tuân thủ CSR sẽ không thể tiếp cận được với thị trường thế
giới…
Như đã nêu trên, thực hiện tốt trách nhiệm xã hội sẽ giúp nâng cao uy tín của
doanh nghiệp, doanh nhân, từ đó sẽ mang lại nhiều lợi nhuận kinh tế và lợi ích
chính trị - xã hội cho họ. Tuy nhiên, cũng không nên đồng nhất việc cứ làm từ
thiện giỏi đã là thực hiện tốt trách nhiệm xã hội, cho dù làm từ thiện là một hoạt
động thể hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Thực tế là đã có doanh nghiệp
tích cực làm từ thiện nhưng vẫn vì chạy theo lợi nhuận mà vi phạm pháp luật, vi
phạm sự phát triển bền vững của cộng đồng xã hội. “Sự kiện Vê Đan” cùng một số
doanh nghiệp khác ở Đồng Nai đã “đầu độc” sông Thị Vải làm huỷ hoại môi
trường mới đây là một minh chứng điển hình cho trường hợp này.
Đó là chưa thể kể hết còn biết bao trường hợp khác nữa “đã bị lộ” thì sự đã rồi,
và chắc rằng còn nhiều trường hợp “chưa bị lộ” đã và đang vẫn xảy ra trên đất
nước này… Người dân TP. Hồ Chí Minh đến nay vẫn đang bức xúc, lo ngại về
tình trạng ô nhiễm môi trường ở các khu công nghiệp của thành phố như các khu
công nghiệp Lê Minh Xuân, Tân Tạo… và còn nhiều địa phương khác nữa trong
cả nước cũng đang lâm vào tình trạng như vậy. Đến nay, chưa có cơ quan chức
năng nào có thể thống kê đầy đủ con số các doanh nghiệp thiếu trách nhiệm xã
hội, thiếu văn hoá kinh doanh, đạo đức kinh doanh như vậy. Từ đó, càng cho thấy
tính cấp thiết của việc cần tăng cường đề cao hơn nữa tính tự giác, thậm chí đã đến
lúc không chỉ dừng lại ở ý thức tự giác trong nhận thức và hoạt động của mỗi
doanh nghiệp mà cần luật pháp hoá vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
theo đúng các yêu cầu đã phản ánh trong nội hàm của nó như đã nêu ở bài viết của
tác giả đã đăng ngày 10/4/2009.
Tuy nhiên cũng cần thấy rằng, khái niệm CSR vì còn tương đối mới ở Việt
Nam nên việc thực hiện nó cho đến nay vẫn còn hạn chế. Theo nghiên cứu mới
đây của Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam, rào cản và thách thức cho việc
thực hiện CSR bao gồm: 1) Nhận thức về khái niệm CSR còn hạn chế; 2) Năng
suất bị ảnh hưởng khi phải thực hiện đồng thời nhiều bộ quy tắc ứng xử COC
(Code of Conduct); 3) Thiếu nguồn tài chính và kỹ thuật để thực hiện các chuẩn
mực CSR (đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa); 4) Sự nhầm lẫn do
khác biệt giữa qui định của CSR và Bộ luật Lao động; 5) Những quy định trong
nước ảnh hưởng tới việc thực hiện các COC. Diễn giải cụ thể hơn về một số rào
cản, thách thức đó như sau:
- Trước hết, đó là sự hiểu biết của không ít các doanh nghiệp về CSR chưa đầy đủ.
Nhiều doanh nghiệp chỉ hiểu đơn thuần là làm từ thiện mà chưa hiểu rằng việc
thực hiện CSR là phải thể hiện trực tiếp trong toàn bộ các hoạt động sản xuất –
kinh doanh của các doanh nghiệp. Vì thế, trên thực tế đã có những doanh nghiệp
một mặt vẫn tham gia tích cực các hoạt động nhân đạo, từ thiện nhưng mặt khác
vẫn lao vào vòng quay lợi nhuận kinh doanh không lành mạnh theo kiểu buôn bán
lòng vòng, chụp giật, tranh thủ các khe hở của cơ chế, chính sách thị trường do
Nhà nước ban hành để kiếm lời. Tình trạng lợi dụng thương hiệu của nhau để làm
hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng vẫn phổ biến ở nước ta. Đó là chưa kể
đến tình trạng đã có nhiều doanh nghiệp lớn, kể cả một số các tập đoàn nhà nước
đã không chỉ lợi dụng thương hiệu nhà nước mà còn lợi dụng ngân sách nhà nước
(thực chất là chiếm dụng vốn nhà nước) để kinh doanh buôn bán lòng vòng cả
những mặt hàng không đúng chức năng được giao để khi thu lời lớn thì đem chia
chác nội bộ, còn khi bị lỗ thì ngân sách nhà nước phải gánh chịu…
- Thứ hai, một rào cản khác tác động bất lợi đến việc thực hiện CSR là do nhiều
doanh nghiệp hiện nay bị thiếu hụt nguồn tài chính và kỹ thuật để thực hiện các
chuẩn mực CSR, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, mà phần lớn doanh
nghiệp Việt Nam hiện đều là doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Thứ ba, tính pháp lý của việc đánh giá thực hiện CSR ở nước ta hiện nay còn
nhiều hạn chế, bất cập. Trên thực tế, mặc dù đã được quy định theo các quy tắc
của các bộ quy tắc ứng xử COC và các tiêu chuẩn chế định khác như SA8000,
WRAP, ISO 14000, GRI..., tuy nhiên các tiêu chuẩn này lại không phải là thoả
thuận giữa các chính phủ hay quy định của các công ước quốc tế mà thường vẫn
chỉ là ràng buộc giữa các nhà xuất nhập khẩu hoặc do chính các doanh nghiệp tự
đặt ra, vì thế còn thiếu tính pháp định quốc gia và càng thiếu tính pháp định thông
lệ quốc tế. Từ đó, nếu xảy ra các vi phạm dù sơ ý hay chủ ý đáng tiếc nào đó mà
dẫn đến khiếu kiện nhau thì rất khó phân xử.
Cho đến nay, chúng ta đã có các doanh nghiệp sản xuất sạch: sản xuất rau
sạch, nuôi trồng thủy sản sạch, sản xuất than sạch... Nhưng những việc làm này
hầu như mang nhiều tính bắt buộc hoặc là tự phát hơn là một việc làm tự nguyện
gắn liền với hoạt động kinh doanh và hình ảnh của doanh nghiệp. Điều lưu ý nữa,
do thói quen tiêu dùng và nhất là do “túi tiền” còn hạn hẹp của đa số người tiêu
dùng Việt Nam nên thường sản phẩm sạch của các doanh nghiệp này chủ yếu chỉ
phục vụ cho các đối tượng khách hàng từ tầng lớp trung lưu, khá giả trở lên. Lợi
nhuận và vòng quay lợi nhuận thu được cho các doanh nghiệp này vì thế cũng
chưa phải là hấp dẫn khiến cho không phải bất cứ doanh nghiệp nào cũng có thể
chuyên tâm vào sản xuất, kinh doanh các sản phẩm này. Đó là còn chưa kể cá biệt
đã có doanh nghiệp sản xuất hoặc siêu thị kinh doanh đã lợi dụng uy tín thương
hiệu để đưa cả hàng “bẩn”, hàng nhái, hàng giả vào để bán lẫn cùng hàng sạch cho
người tiêu dùng.
Biểu hiện rõ nhất gần đây ở nước ta về tình trạng thiếu trách nhiệm xã hội,
thiếu đạo đức, văn hoá trong sản xuất - kinh doanh của không ít các doanh nghiệp
là đã để xảy ra hàng loạt các sự kiện liên quan đến các mặt hàng nông sản thực
phẩm không bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, như nước tương đen chứa 3MCPD (một chất có thể gây ung thư), thực phẩm bảo quản bằng foocmon, hàn the,
rau được tưới các chất kích thích tăng trưởng, cá nuôi trong môi trường bị ô
nhiễm, nông sản thực phẩm chế biến sử dụng các chất bảo quản độc hại, dư lượng
kháng sinh hay thuốc bảo vệ thực vật vượt quá tiêu chuẩn cho phép và gần đây
nhất là việc hàng loạt các sản phẩm sữa nhiễm melamine - một chất độc hại gây ra
sạn thận ở trẻ em, có thể dẫn tới tử vong. Theo kết quả kiểm tra của Vụ Khoa học
và Công nghệ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: năm 2007, tỷ lệ dư lượng
thuốc trừ sâu trong các sản phẩm rau muống, cải, đậu... tại Hà Nội, Hải Phòng, Đà
Nẵng mức thấp nhất là 15%, cao nhất 30%; đặc biệt, đối với sản phẩm nho, có nơi
phun tới 30 lần và tỷ lệ thuốc trừ sâu vượt ngưỡng cho phép lên tới trên 60%; có
tới khoảng 32,54% tổng số mẫu nông sản phân tích phát hiện thấy dư lượng thuốc
bảo vệ thực vật, trong đó gần 70% đã vượt quá ngưỡng giới hạn tối đa cho phép
trong thực phẩm (tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế thế giới - WHO). Đó là những con
số đáng báo động và cũng chính là nguyên nhân gây ảnh hưởng không nhỏ tới sức
khỏe, thậm chí là tính mạng của người tiêu dùng.
Cần thấy rằng, trong thời gian qua, mặc dù công luận và các phương tiện thông
tin đại chúng đã thường xuyên đưa tin về những vi phạm gây ô nhiễm môi trường
của nhiều doanh nghiệp, nhưng dường như là đa số các cơ quan chức năng của các
địa phương đều chưa có những biện pháp đủ mạnh để xử lý các trường hợp đó,
trong khi phần lớn các doanh nghiệp thì tìm mọi biện pháp để né tránh trách
nhiệm. Nhiều người cho rằng, nói về ý thức tự giác của doanh nghiệp trong việc
bảo vệ môi trường trong thời điểm hiện nay dường như là một câu chuyện xa vời
và không thực tế! Nhưng rõ ràng ô nhiễm môi trường từ hoạt động sản xuất, chế
biến các sản phẩm của các doanh nghiệp hiện nay đã lên tới mức báo động, thể
hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp nói chung, các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh hàng nông sản thực phẩm nói riêng đối với việc bảo vệ môi trường còn
rất hạn chế.
Từ đó cho thấy tính cấp thiết của việc có một hệ thống các giải pháp đồng bộ
khả thi, hiệu quả cao giữa các cấp, các ngành, các địa phương, cơ sở (bao gồm cả
các giải pháp chế định được luật pháp hoá) nhằm giúp các doanh nghiệp Việt Nam
và cả các doanh nghiệp nước ngoài đã và đang liên doanh đầu tư dưới mọi hình
thức với các doanh nghiệp Việt Nam cần thực hiện tốt hơn nữa trách nhiệm xã hội
của mình.
SA 8000 do tổ chức Trách nhiệm xã hội quốc tế (Social Accountability
International - SAI) công bố là tiêu chuẩn đưa ra các yêu cầu đối với các điều kiện
làm việc mà một tổ chức phải cung cấp cho các nhân viên của mình. Tiêu chuẩn
được xây dựng dựa trên các nguyên tắc chung về quyền con người. Các yêu cầu
của tiêu chuẩn phù hợp với những qui định trong các công ước của Tổ chức lao
động thế giới (ILO), Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em và Tuyên bố
chung về nhân quyền.
Trước khi tiêu chuẩn SA 8000 ra đời, rất nhiều hãng lớn trên thế giới đã xây
dựng các qui phạm đạo đức, một hình thức qui định nội bộ trong việc cung cấp các
điều kiện làm việc cho nhân viên cũng như các cách thức đối xử với nhân viên.
Hội đồng ưu đãi kinh tế - một viện nghiên cứu các vấn đề về trách nhiệm xã hội
của công ty, một cơ quan trực thuộc SAI, đã nghiên cứu rất nhiều qui phạm đạo
đức như vậy. Kết quả các cuộc nghiên cứu cho thấy, các qui phạm kiểu đó rất khác
nhau, thiếu tính nhất quán, đặc biệt là khi so sánh với những qui định pháp luật sở
tại và khó đánh giá vì không có chuẩn mực cụ thể.
Về phía xã hội, người tiêu dùng ngày càng quan tâm hơn tới những yếu tố
xã hội của sản phẩm như môi trường, lao động... Các nhà sản xuất gặp phải một
sức ép xã hội trong vấn đề đối xử với người lao động. Nhu cầu chứng tỏ một nền
sản xuất sạch, cả về góc độ môi trường và xã hội, lớn lên, đòi hỏi một sự thống
nhất trong các nhà sản xuất, các nhà quản lý và giới chủ về các dạng qui định
chung về trách nhiệm xã hội.
SA 8000 được xây dựng trên mô hình quản lý chất lượng theo ISO 9000
phục vụ cho việc đánh giá theo tinh thần ISO: phát hiện và tiến hành các hành
động khắc phục phòng ngừa, khuyến khích cải tiến thường xuyên, tập trung vào hệ
thống quản lý, cung cấp các tài liệu làm bằng chứng cho hiệu lực của hệ thống
quản lý đó. Ngoài ra SA 8000 bao gồm 3 yếu tố bắt buộc cho việc đánh giá về mặt
xã hội:
· Bộ các tiêu chuẩn áp dụng trong các lĩnh vực đặc thù với các yêu cầu tối thiểu;
· Các chuyên gia đánh giá phải tham khảo ý kiến của các bên quan tâm như các tổ
chức phi chính phủ, nghiệp đoàn và người lao động;
· Cơ chế phàn nàn và khiếu nại cho phép các cá nhân người lao động, các tổ chức
và các bên quan tâm khác phản ánh các vấn đề không phù hợp tới tổ chức chứng
nhận.
2. Áp dụng ở Doanh nghiệp ( Công ty cổ phần may Sài Gòn 3)
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và cạnh tranh toàn cầu, trách nhiệm xã
hội doanh nghiệp đang trở thành một trong những điều kiện ràng buộc đối với các
hợp đồng xuất khẩu sang các nền kinh tế phát triển, buộc các doanh nghiệp xuất
khẩu phải tuân thủ khi ký kết hợp đồng. Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp thể hiện
qua các yêu cầu về tuân thủ chế độ lao động tốt, an toàn vệ sinh thực phẩm, sản
phẩm sạch và bảo vệ môi trường.
Theo TS Nguyễn Đình Cung - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế
TƯ, thực hiện trách nhiệm xã hội doanh nghiệp không chỉ giúp doanh nghiệp giảm
chi phí, tăng doanh thu, tăng giá trị thương hiệu, giảm tỷ lệ nhân viên thôi việc, cải
thiện năng suất và tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Bên cạnh đó, việc
thực hiện trách nhiệm xã hội doanh nghiệp cũng có thể tăng thu nhập, nâng cao
chất lượng cuộc sống và sức khỏe cho người lao động và gia đình họ.
Hiểu được giá trị của việc thực hiện tốt trách nhiệm xã hội công ty cổ phần may
Sài Gòn 3 đã chủ động đưa trách nhiệm xã hội doanh nghiệp vào trong chiến lược
phát triển của mình. Doanh nghiệp cũng đã tham gia tích cực vào các hoạt động từ
thiện. Việc ủng hộ nạn nhân bão lụt, thiên tai, đóng góp cho Quỹ Vì Người nghèo
hay các đợt phát động ủng hộ từ thiện của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam đều có sự ủng hộ tích cực và thực chất của doanh nghiệp.
Dù còn có nhiều đánh giá khác nhau về động cơ của việc đóng góp này và liệu
có thể đồng nhất sự đóng góp với trách nhiệm xã hội hay không, nhưng những
đóng góp tài chính của khu vực kinh tế tư nhân cho cộng đồng có thể xem là một
nguồn lực đáng kể góp phần “đồng cam cộng khổ” với Nhà nước thực hiện mục
tiêu xóa đói giảm nghèo trên cả nước.
Vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp cũng phải được đặt và giải quyết
theo cùng một logic. Xã hội, tức là người tiêu dùng, đòi hỏi doanh nghiệp cung
ứng sản phẩm, dịch vụ có chất lượng, an toàn và với giá cả hợp lý; về phần
mình, doanh nghiệp xác định mục tiêu tối hậu là lợi nhuận. Đòi hỏi của xã hội sẽ
được doanh nghiệp đáp ứng thoả đáng, nếu việc đó đồng thời cho phép doanh
nghiệp giải được bài toán lợi nhuận.
Chiến lược thực hiện dự án trách nhiệm xã hội cần linh hoạt nhưng đảm bảo
một nguyên tắc quan trọng là cân bằng lợi ích xã hội và doanh nghiệp. Các nhu
cầu của cộng đồng như phát triển giáo dục, tạo công ăn việc làm, bảo vệ môi
trường ... phải song hành với các nhu cầu của doanh nghiệp như tạo động cơ cho
nhân viên, phát triển quan hệ đối tác, tạo danh tiếng và thương hiệu ... Ngoài ra,
các yêu cầu về năng lực điều hành, tính minh bạch và sự tham gia của các bên liên
quan cũng là những yêu cầu cho việc đảm bảo sự bền vững của dự án trách nhiệm
xã hội của doanh nghiệp.
Hầu hết doanh nghiệp cho rằng họ sẵn sàng thực hiện các chương trình trách
nhiệm xã hội nhưng làm thế nào cho có hiệu quả lại là câu trả lời đang bị bỏ ngỏ.
Như vậy, vấn đề mục đích là đã rõ ràng nhưng để tạo ra phương tiện tốt cần có
những đơn vị tiên phong thử nghiệm để xây dựng những mô hình khả dụng, hiệu
quả và có thể nhân ra trên diện rộng đáp ứng nhu cầu của xã hội. Và công ty cổ
phần may Sài Gòn 3 đang áp dụng các chỉ tiêu về trách nhiệm xã hội vào doanh
nghiệp, góp phần thực hiện muc đích vì lợi ích chung cho người lao động, người
sử dụng lao động, và Nhà nước ta.
III.
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG TIÊU CHUẨN SA 8000 Ở CÔNG TY
CỔ PHÀN MAY SÀI GÒN 3.
1. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG TẠI CÔNG TY
a. Quy trình áp dụng
Trong bối cảnh toàn cầu hoá, các doanh nghiệp luôn phải quan tâm đến môi
trường xã hội trong công việc sản xuất kinh doanh của mình. Ngày nay xu hướng
trên toàn thế giới là người ta ngày càng chú ý nhiều hơn tới những nhân tố khuyến
khích doanh nghiệp đối xử có trách nhiệm, nhất là trách nhiệm trong cải thiện
quan hệ xã hội, môi trường và đạo đức, văn hoá ở doanh nghiệp.
Công ty cổ phần may Sài Gòn 3 là một trong những công ty sản xuất hàng
may mặc hàng đầu Việt Nam, đặc biệt chuyên về nhiều chuẩn loại quần khác
nhau, sản phẩm chủ yếu là hàng quần jeans, quần kaki với tổng sản lượng hơn 9
triệu chiếc mỗi năm.
Sài Gòn 3 đã phát triển và ổn định hơn 20 năm nhờ vào tinh thần đoàn kết
của tập thể năng động và không ngừng học hỏi cùng với
sự đầu tư công nghệ mới trong thiết kế và quản lý tổ
chức sản xuất. Chính điều này đã giúp Sài Gòn 3 trở
thành một trong những đơn vị sản xuất hàng may mặc
uy tín của cả nước.
Sự phát triển công nghệ và duy trì chất lượng sản phẩm
theo tiêu chuẩn quốc tế luôn là nền tảng cho hoạt động của công ty vì Sài Gòn 3
luôn coi đó là sự thuận lợi cho những cơ hội phát triển và thành công hơn nữa.
Thông qua đội ngũ quản lý trong công ty và sự động viên nhân viên của mình,
công ty đã có được cam kết chắc chắn cho chương trình phát triển nhằm tới sự
gia tăng và cải thiện văn hóa doanh nghiệp, thúc đẩy thành nơi làm việc sáng tạo
và hiệu quả, tạo ra một nơi làm việc với tinh thần đoàn kết của 2800 công nhân
viên với sự hỗ trợ của các đoàn thể nhằm đến mục tiêu chung của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp duy trì các phong trào thi đua lao động sản xuất, phong trào phát
huy ý kiến, phong trào bàn tay vàng, phong trào tiết kiệm,… thật sự đã phát huy
và có hiệu quả giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn và phát triển. từ đó phong
trào thi đua trở thành một hoạt động truyền thống lâu dài của công ty được tổ
chức liên tục hàng năm dưới nhiều hình thức và nội dung phong phú.
Doanh nghiệp áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng :
-
ISO 9001: 2000
SA 8000
Hệ thống quản lý 5S, Kaizen Nhật Bản
Factoty Improvement Program
“Tất cả cho chất lựợng sản phẩm vì sự phát triển bền vững của công ty.”
- Xem thêm -