Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu và phân tích chiến lược maketting của sản phẩm handy fast food...

Tài liệu Nghiên cứu và phân tích chiến lược maketting của sản phẩm handy fast food

.PDF
46
422
141

Mô tả:

Nghiên cứu và phân tích chiến lược maketting của sản phẩm Handy Fast Food
PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài ( tính cấp thiết của đề tài): Ngày nay, khi đời sống kinh tế ngày càng phát triển, nhu cầu người dân cao hơn, hàng hóa đa dạng hơn, tốt hơn thì quảng cáo hàng hóa cũng phát triển, các hãng muốn mọi người biết đến mình, người tiêu dùng thì thông qua các loại hình đồ họa và thông tin đại chúng để tiếp cận các mặt hàng. Đồ họa góp phần quảng cáo cho thương hiệu một cách hiệu quả nhất. Vì vậy, Chuyên ngành Đồ Họa ngày càng chiếm vị trí quan trọng hơn trong xã hội . Với sự phát triển nhanh chóng và đời sống đô thị sôi động như hiện nay, hàng loạt các loại hình dịch vụ xuất hiện với quy mô ngày càng mở rộng đã cho ra đời những phong cách sống mới, hiện đại và tích cực hơn. Thế kỉ 21 hay còn gọi là thời đại tòan cầu hóa với xu hướng chung của thế giới, Việt Nam từng bước hội nhập vào thế giới , trở thành một phần của kinh tế toàn cầu. Vậy hội nhập là gì? Mượn từ “convergence” trong tiếng Anh, tôi cho rằng mục tiêu của hội nhập phải là hội tụ. Nói cách khác là để đẩy Việt Nam lên một tầng văn minh mới thì cần biến Việt Nam thành một môi trường hội tụ những điều hay, đẹp, sáng tạo, nhất của nhân loại, song song đó vẫn phải giữ gìn nét đẹp văn hóa đặc trưng của dân tộc. Việt Nam đang là một bến cảng quốc tế, có xu hướng “mở”, con người Việt Nam năng động, không dừng lại ở sự định hình mà còn tiếp tục hòan thiện và thích ứng. Nhìn nhận về người Việt Nam phải đặt trong trạng thái “động” – không ngừng phát triển. Điều đó thể hiện rõ ở mọi mặt trong đời sống người Việt hiện nay, đặc biệt là những người Việt trẻ. Những người Việt trẻ - lực lượng nòng cốt trong công cuộc phát triển đất nước. Họ thích thử thách, khám phá những cái mới, thích nghi nhanh với cuộc sống công nghiệp, luôn muốn thể hiện cái tôi cá nhân, khẳng định vị trí và vai trò của mình trong xã hội. Trong 2 giai đoạn chuyển mình của đất nước, họ càng tất bật hơn với những công việc nhằm đáp ứng nhu cầu cuộc sống tương lai của bản thân nói riêng và cũng chính là đáp ứng nhu cầu tương lai của cả đất nước nói chung. Dường như 24 tiếng/ngày là quá ít so với nhịp sống nhanh của những người Việt trẻ khi mà cuộc sống đô thị luôn hối hả và xã hội luôn thúc giục đổi mới tư duy, tiếp thu kiến thức mới… Chính vì lí do đó mà tất cả mọi thứ đáp ứng nhu cầu sống giờ đây được gói gọn trong hai từ “nhanh - gọn”. Hàng loạt các sản phẩm, nhãn hàng “nhanh - gọn” tràn ngập thị trường Việt Nam. Đây cũng chính là một đặc trưng cho một xã hội phát triển với nền kinh tế phát triển từng ngày. Cùng với làn sóng đó, loại hình chuỗi cửa hàng bán lẻ bắt đầu trở mình thành một mô hình kinh doanh hiện đại và hiệu quả, trong đó có thể kể tới những nhãn hàng như cà phê Trung Nguyên, phở 24, Kinh Đô Bakery….của Việt Nam hay những KFC, Loteria, Pizza Hut….từ các nước phương tây, phục vụ cho nhu cầu cấp thiết của người tiêu dùng là cần có những giải pháp cho vấn đề thời gian . Mô hình nhà hàng thức ăn nhanh gần như nhanh chóng chiếm được sự quan tâm của người tiêu dùng hiện nay, đáp ứng nhu cầu ăn uống cần thiết của con người trong điều kiện không cho phép về thời gian, bận rộn hay cao hơn là nhu cầu thưởng thức dịch vụ tiện lợi, chu đáo và vệ sinh Để tồn tại và phát triển trong một nền kinh tế thị trường mang tính cạnh tranh đầy khốc liệt thì các doanh nghiệp cần nỗ lực hết sức trong việc xây dựng và bảo vệ thương hiệu của mình. Một trong những động thái tích cực nhất để khuếch trương thương hiệu một cách có hiệu quả là đầu tư đúng cách vào bộ mặt của thương hiệu. Thương hiệu của bạn cũng có thể có được những lợi ích chức năng và lợi ích cảm tính này. Song để làm được như vậy, bạn phải có một mẫu định dạng chuẩn cho thương hiệu. Bộ nhận diện thương hiệu – mang lại hiệu quả về mặt nhận biết thương hiệu sẽ giúp các nhà đầu tư dễ dàng tạo dựng vị trí của mình trong lòng người tiêu dùng. Một thương hiệu 3 mới xây dựng cần được phân biệt dễ dàng với những thương hiệu khác trong cùng lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ. Từ những suy nghĩ và lập luận trên, người viết chọn đề tài xây dựng “ bộ định dạng thương hiệu cho nhà hàng thức ăn nhanh Handy”, tạo dựng một mô hình nhà hàng phục vụ thức ăn nhanh tiện lợi nhưng vẫn đảm bảo dinh dưỡng, vệ sinh và nhất là phù hợp với khẩu vị của người Việt Nam. 2. Mục đích nghiên cứu: Trên thế giới, tất cả các nhãn hàng đều mong muốn sản phẩm hay nhãn hiệu của mình được tất cả mọi người biết đến và lựa chọn, nó không nằm ngoài mục tiêu nhằm mở rộng thị phần hay gia tăng doanh số bán hàng, và để làm được điều đó thì việc trước tiên chính là làm thế nào để trở thành sự lựa chọn hàng đầu trong tâm trí người tiêu dùng. Đây là điều hết sức quan trọng và mang ý nghĩa rất lớn tới sự thành bại của thương hiệu, mỗi thương hiệu thành công đều hiểu rõ tầm quan trọng của việc chiếm lĩnh tâm trí khách hang. Tạo dụng được vị trí nhất định trong long khách hang rõ rang không phải là điều đơn giản khi lượng thông tin mà người tiêu dùng nhận được hàng ngày là rất lớn. chính vì vậy các chủ doanh nghiệp làm thế nào lưu lại thông điệp của mình trong lòng khách hàng? Mọi thương hiệu đều cung cấp đến người tiêu dùng những lợi ích chức năng, vì vậy rất khó để tạo sự khác biệt, dễ gây nhầm lẫn nếu chỉ dựa vào những đặc điểm này. Đó là lý do vì sao dù bạn có muốn hay không, những công ty phải lấy lợi ích cảm xúc làm vũ khí mới để chiến thắng đối thủ của mình. Ngày nay, một công ty muốn thành công thì cần phải giành được sự chú ý của khách hàng. Với một nhãn hàng mới ra đời, không gì quan trọng hơn là phài đưa hình ảnh của mình đến gần với người tiêu dùng, công việc của nhà thiết kế cần làm là tạo dựng hình ảnh, bộ mặt cho thương hiệu, thu hút sự chú ý của người tiêu dùng, cái khó là cần tạo 4 được sự chú ý phù hợp, lien quan đến những đặc điểm, tính chất riêng của sản phẩm thức ăn nhanh Handy. 3. Đối tượng nghiên cứu: 3.1 Sản phẩm handy: Sản phẩm hamburger tại handy cung cấp đầy đủ ngưồn năng lượng cần thiết để duy trì hoạt động cho cơ thể, là giải pháp hữu hiệu cho những người bận rộn. Sản phẩm thức ăn nhanh của handy có đầy đủ các thành phần dinh dưỡng, sử dụng nhiều rau xanh, kết hợp với các thực phẩm tươi được chọn lựa kỹ càng và chế biến phù hợp với khẩu vị của người châu Á nói chung , người Việt Nam nói riêng. 3.2 Nhóm khách hàng của Handy Khi nói chuyện với một người khác, để câu chuyện không tẻ nhạt và hời hợt bạn cần hiểu rõ người đối diện, nắm bắt tâm lý cũng như thói quen và sở thích của họ vv…, để thuyết phục một khách hàng cũng cần những điều đó, thông điệp của bạn sẽ rất hời hợt nếu bạn không có những suy nghĩ tương đồng với người tiêu dùng. Một dòng sản phẩm mới sẽ thất bại nếu nhà sản xuất không ý thức được rõ rang về đối tượng khách hàng của họ là ai. Các công ty thành công đều biết rất rõ về đối tượng người tiêu dùng mà họ nhắm đến, điều này làm cho sản phẩm và dịch vụ của họ mang tính cạnh tranh cao hơn những công ty đối thủ. Công ty thức ăn nhanh Handy xác định rõ nhóm khách hàng thường xuyên mà mình hương tới sẽ là bộ phận thanh niên, sinh viên, công nhân viên chức… những người năng động, bận rộn hoặc không có thời gian…Việc thiết kế quảng cáo từ đó cần mang tính năng động, nhanh nhẹn và thoải mái. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu: 5 "Hệ thống nhận diện thương hiệu" là sự diễn đạt bản sắc của một công ty ...bằng hình ảnh thông qua việc sử dụng văn từ và các biểu tượng. "Hệ thống nhận diện thương hiệu" gồm những yếu tố nhận biết cấu thành thương hiệu được thể hiện một cách đồng bộ, nhất quán tạo nên đặc điểm riêng giúp phân biệt thương hiệu đó với những thương hiệu khác. Bộ nhận diện thương hiệu có tác dụng giúp nhận dạng sản phẩm. Nó tạo ra ấn tượng trong lòng người tiêu dùng về cấp độ của sản phẩm và giúp quảng cáo cho sản phẩm đó. Thương hiệu mới xây dựng cần được phân biệt dễ dàng với những thương hiệu khác trong cùng lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ, vì vậy bộ nhận dạng thương hiệu cần tạo được sự khác biệt và chú ý của người tiêu dùng. Nhà thiết kế có rất nhiều lựa chọn về bố cục kết hợp, để có thể tạo ra mẫu định dạng format chuẩn cho thương hiệu. Để bất kỳ sự lựa chọn kết hợp các yếu tố trên mang lại lợi ích cho thương hiệu, nhà thiết kế không những phải ghi nhớ những yêu cầu về mặt thẩm mỹ, mà còn phải cân nhắc xem liệu hiệu quả mang lại sẽ góp phần thể hiện hay làm lu mờ tính cách của thương hiệu. Hơn nữa, khi định dạng format cho một phương tiện truyền thông nhất định, ví dụ như biểu mẫu giao dịch, thì nhà thiết kế cũng cần cân nhắc xem nó sẽ liên hệ về mặt hình ảnh như thế nào với các phương tiện truyền thông khác, như tài liệu giới thiệu sản phẩm hay bản tin nội bộ. Các mẫu định dạng format cho các phương tiện truyền thông khác nhau cần phải điều chỉnh cho phù hợp với những yêu cầu kỹ thuật đặc thù. Tuy vậy, chúng cần phải có diện mạo tương tự nhau, để cùng giúp thương hiệu tạo được ấn tượng tối đa một cách nhất quán 5. Phương pháp nghiên cứu: Một hệ thống nhận diện thương hiệu thường bao gồm những yếu tố nhận biết cơ bản sau:  Biểu tượng ( Logo) Màu sắc trong các tài liệu truyền thông 6 Kiểu chữ trong các tài liệu giao dịch và truyền thông  Dấu hiệu nhận biết thương hiệu trên các tài liệu văn phòng Danh thiếp Giấy viết thư Bì thư A5 Bì thư A4 Nhãn thư tín Hóa đơn Bản tin nội bộ Thẻ nhân viên Tài liệu thuyết trình Đồng phục  Dấu hiệu nhận biết thương hiệu trên sản phẩm và bao gói Dấu hiệu nhận biết thương hiệu trên sản phẩm Dấu hiệu nhận biết thương hiệu trên tem nhãn dán lên sản phẩm Dấu hiệu nhận biết thương hiệu in trực tiếp lên sản phẩm Dấu hiệu nhận biết thương hiệu trên bao gói sản phẩm Bố cục trình bày dấu hiệu nhận biết thương hiệu trên bao gói sản phẩm Một số minh họa ứng dụng  Dấu hiệu nhận biết thương hiệu trên các biển hiệu Các dạng biển hiệu Biển hiệu Tổng công ty Biển hiệu phòng ban Biển hiệu tại quầy lễ tân và phòng họp Biển quảng cáo Biển hiệu đại lý 7  Dấu hiệu nhận biết thương hiệu trong truyền thông marketing Ấn phẩm quảng cáo Thiết kế gian hàng hội chợ triển lãm Quảng cáo trên truyền hình (tư vấn) Quảng cáo trên các phương tiện vận chuyển Hàng khuyến mại Website và vỏ đĩa CD (Thiết kế giao diện) Một quy trình xây dựng và thiết kế hình ảnh, bản sắc thương hiệu thường được bắt đầu bằng những nghiên cứu khách hàng về: định vị thương hiệu, sản phẩm, khách hàng... . từ đó có thể giúp cho những ý tưởng sáng tạo được hình thành. Phần lớn thời gian của một quy trình xây dựng và thiết kế hệ thống nhận diện thương hiệu dựa trên tầm cỡ, tính phức tạp cũng như số lượng những hạng mục thiết kế của dự án. 5.1 Nghiên cứu và Phân tích (Research & Analysis) Những Dự án xây dựng và thiết kế hệ thống nhận diện thương hiệu dù lớn hay nhỏ luôn cần sự phối hợp nghiên cứu và phân tích giữa nhà thiết kế và khách hàng, đây là cách tốt nhất cho những những định hướng sáng tạo mang tính khác biệt rõ ràng với những thương hiệu khác. Về phía khách hàng, chủ doanh nghiệp bắt buộc phải tham gia ngay từ khâu này. Những cuộc nghiên cứu tùy mức độ sẽ bao gồm các bước cơ bản sau: Kiểm tra nội bộ (Internal audit): Thống nhất những mục tiêu cụ thể của dự án. Những thông tin, tài liệu liên quan có ích cho dự án hay những cuộc trao đổi, thảo luận bàn tròn cũng có những giá trị hữu ích cho những nghiên cứu và phân tích ban đầu. 8 Thấu hiểu người tiêu dùng (Customer insight): Những nghiên cứu mang tính thấu hiểu người tiêu dùng sẽ cho những kết quả khách quan và đúng đắn nhằm giúp nhà thiết kế và khách hàng tìm ra được những định hướng, giải pháp và ý tưởng phù hợp với những suy nghĩ, cảm nhận của họ. Đối thủ cạnh tranh (Competitors): Nghiên cứu kỹ lưỡng đối thủ cạnh tranh sẽ giúp cho nhà thiết kế và khách hàng có những định hướng chiến lược mang tính đúng đắn, điều này sẽ giúp tạo được sự khác biệt và tách biệt với đối thủ. 5.2 Chiến lược (Strategy) Ở bước này những yếu tố định vị và cốt lõi thương hiệu, ý tưởng nền của khách hàng, khái niệm thiết kế cơ bản (Concept), thông điệp chính phải được xác định một cách rõ ràng. Một bảng tóm tắt về dự án (Project brief) bao gồm những giải pháp và ý tưởng, mục tiêu của dự án và những kết quả nghiên cứu được nhà thiết kế thuyết trình cùng khách hàng. Hai đến ba định hướng chiến lược của dự án sẽ được đưa ra, khách hàng chọn một, định hướng được chọn là định hướng chính của dự án, tất cả những ý tưởng, hình ảnh, thông điệp… đều xoay quanh định hướng này cho đến khi hoàn tất dự án. 5.3 Thiết kế (Design) Đây là giai đoạn đã quyết định ý tưởng và định hướng chính của dự án nhằm bước vào triển khai các thiết kế cơ bản. Những thiết kế cơ bản hoàn tất sẽ được thuyết trình với khách hàng và sẽ được điều chỉnh để chọn ra mẫu thích hợp nhất. Mẫu được chọn là xuất phát điểm cho việc triển khai toàn bộ những hạng mục thiết kế của dự án. 5.4 Bảo hộ (Trademark protection) 9 Bảo hộ thương hiệu luôn là nhu cầu cần thiết nhằm bảo đảm an toàn cho thương hiệu tránh những sự sao chép, bắt chước từ đối thủ cạnh tranh. Việc đăng ký bảo hộ cũng là bước an toàn cho giai đoạn tung dự án ra thị trường. 5.5 Ứng dụng (Application) Toàn bộ hạng mục thiết kế của dự án được thiết kế theo từng nhóm cơ bản, khách hàng điều chỉnh và ký duyệt theo từng nhóm cho đến khi hoàn tất. Các thiết kế hoàn tất bao gồm tất cả những yếu tố thiết kế về kiểu dáng, màu sắc, chất liệu và cả những tham vấn cho khách hàng trong việc đưa vào sản xuất thực tế. 5.6 Sản xuất Dự án (Implementation) Tùy vào thỏa thuận ban đầu giữa khách hàng và nhà thiết kế mà một bản thiết kế có những chi tiết hướng dẫn thiết kế theo từng mức độ khác nhau, nó có thể là những lời tư vấn miệng hay những bản hướng dẫn thiết kế chi tiết (manual guide) cho việc sản xuất dự án. Khách hàng cũng có thể yêu cầu nhà thiết kế trong vai trò là một giám sát và tư vấn để làm việc với nhà cung ứng trong suốt quá trình sản xuất dự án với một khoản phí được thỏa thuận giữa hai bên. Vai trò giám sát của nhà thiết kế cho việc sản xuất dự án sẽ rất cần thiết và quan trọng, những kinh nghiệm của nhà thiết kế sẽ giúp cho kết quả sản xuất dự án đạt được độ chính xác cao, hạn chế rủi ro hoặc phát sinh. Ngoài ra còn giúp cho khách hàng chọn được những nhà cung ứng có năng lực và tiết kiệm tối đa ngân sách đầu tư. 10 PHẦN NỘI DUNG 11 \ Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1 Tổng quan lịch sử của đề tài: 1.1.1 Lịch sử đề tài nghiên cứu: Theo dòng xoáy thời gian, mọi vật trong cuộc sống đều phát triển không ngừng, cùng với các bước tiến của xã hội, rất nhiều các lĩnh vực trong đời sống đều có những bước phát triển đánh dấu sự ra đời của nhiều phong cách mới, phong phú và thích hợp hơn, đáp ứng nhiều nhu cầu khác nhau của con người. Thức ăn nhanh là một sản phẩm đánh dấu sự khởi đầu cho phong cách ẩm thực mới, một phương thức phục vụ nhu cầu nhanh, tiện lợi của con người. Thức ăn nhanh ra đời đã nhanh chóng trở thành hình ảnh của một lối sống thời đại, mở đầu cho sự xuất hiện và bành trướng của một nền công nghiệp mới – ngành công nghiệp “fast food” 1.1.1.1 Lịch sử - nguồn gốc Hamburger: Hamburger là một thực phẩm phổ biến cho các cuộc liên hoan ngoài trời được nướng trên vỉ barbecue. Hamburger thường được nướng ở sau vườn để cả gia đình cùng ăn. Thịt hamburger thường được mua sống và có thể có vi khuẩn gây hại, cho nên cần phải được nấu chín kỹ lưỡng. Nhiều nhà hàng fast food dựa vào hamburger để bán. Dãy nhà hàng McDonald's bán một loại hamburger có tên là Big Mac, được bán chạy nhất thế giới, đồng thời được khách hàng ưa thích nhất. Các dãy nhà hàng khác như Burger King, Whataburger, Carl's Jr., Wendy's, Jack-in-the-Box, và Sony cũng dựa vào món hamburger. Fuddruckers là một dãy nhà hàng chuyên bán hamburger "thượng hạng". Nguồn gốc tên gọi “Hamburger” 12 Tên hamburger có nguồn gốc từ tên của thành phố Hamburg, Đức, một người dân từ Hamburg được gọi là "Hamburger"; theo đó, bất cứ vật gì có nguồn gốc từ thành phố này hay được phổ biến đầu tiên tại đây được có tên gọi này. (Tuy nhiên, tên của loại đồ ăn này không được viết hoa). Đầu tiên một loại bánh có thịt bò xay tên là "thịt nướng Hamburg" (Hamburger steak) được nhắc đến trong một sách nấu ăn ở Mỹ năm 1891; món này được đặt giữa hai lát mì, và được gọi là "bánh kẹp Hamburg" (Hamburger sandwich). Đến giữa thế kỷ 20, cả hai tên gọi này đã được đọc ngắn lại thành "hamburger" hay "burger". Tên gọi "burger" nay có nghĩa rộng hơn, có thể chỉ đến các loại bánh kẹp có thịt xay, thịt gà, cá, hay cả các món chay ở giữa, nhưng vẫn có lát mì hình tròn. Tại Hamburg mọi người thường bỏ 1 miếng thịt heo nướng vào giữa 1 cái bánh cuộn gọi là bánh nóng Rundstück, nhưng khi đó nó vẫn thiếu 1 điều cơ bản mà tất cả các hamburger hiện nay đều làm đó là miếng thịt kẹp phải được nấu chính trước khi cho vào miếng bánh. Thời Trung Cổ, thành phổ cảng Hamburg là nơi giao thương quan trọng giữa các lái buôn người Ả Rập và Châu Âu. Một lý thuyết được nhiều người thừa nhận là chính các lái buôn Ả Rập đã du nhập món Kibbeh được kẹp với miếng thịt cừu tẩm nhiều loại gia vị và thường được ăn sống, nhưng người dân bản xứ đã có công chế biến lại món ăn đó bằng cách thay thế thịt cừu bằng thịt heo hay thịt bò, và một điều thay đổi quan trọng nữa là miếng thịt kẹp được nấu hoặc nướng chính, khi đó bánh "Hamburg Steak" hay "Hamburger" đã trở thành một loại bánh nóng Rundstück độc nhất vô nhị và được mọi người tán thưởng. Úc và New Zealand Hamburgers ở Úc và New Zealand thường có cà chua, rau diếp, pho mát và một ít thịt (có tẩm nước sốt BBQ hoặc nước sốt cà chua), và thường có củ cải đường, hành tây, trứng, thịt hun khói và dứa (aka "burger with the lot). "BLT" có nghĩa là hamburger dùng kèm với thịt hun khói, rau diếp, và cà chua. Đông Á 13 Trong một số nước Đông Á như Đài Loan, Nhật Bản hay Hàn Quốc, một số quán ăn nhanh bán một loại "biến thể" của hamburger với miếng bánh kẹp (bun) là cơm thay vì bánh mì. "Bánh kẹp" (The "bun") được làm từ loại một loại gạo nếp có độ kết dính đủ để cho phép tạo ra hình dáng miếng bánh mà không làm nó bị rã ra. 1.1.1.2 Lịch sử phát triển mô hình thức ăn nhanh: Một trong những người sáng lập nên ngành công nghiệp fast-food là Carl Karcher, sinh trưởng tại Ohio (Mỹ). Năm 1939, ông đến California và mua một chiếc xe ngựa để đi bán xúc xích dạo cho khách ngồi trong xe hơi. Công việc rất phát triển, Carl đã mở một quầy ăn di động chuyên phục vụ cho các thực khách ngồi trong ô tô với tên gọi “Quầy thịt nướng lưu động dành cho thực khách xe hơi Carl” (Carl’s Drive-in Barbecue). Cũng trong thời gian đó, hai anh em nhà McDonald, Richard và Maurice, đã rời quê nhà New Hampshire, đến California mở một rạp hát nhưng thất bại. Biết dân Mỹ đang rất thích ăn trong quầy hàng drive-in, họ đã mở một quầy hàng như thế tại Pasadena, California vào năm 1939 với tên gọi “Thịt băm viên nổi tiếng của McDonald” (McDonald’s Famous Hamburgers). Cuối những năm 1940, anh em nhà McDonald cảm thấy mệt mỏi với việc phải thay những đĩa, đồ thủy tinh, đồ bạc nên đã quyết định đóng cửa quầy hàng và mở một quầy hàng McDonald mới với thức ăn được để trong túi, bao nhựa hoặc giấy. Nhiều doanh nghiệp trên khắp nước Mỹ đã tìm đến quầy hàng McDonald ở California để xem quầy hàng hoạt động như thế nào. Sau đó họ đã trở về địa phương và dựng lên những quầy hàng giống McDonald của riêng mình như Burger King, Taco Bell, Wendy’s Old – Fashioned Hamburgers, Dunkin’ Donuts, Kentucky Friend Chicken (KFC)... Ngay cả Carl Karcher, cha đẻ của ngành thức ăn nhanh đã khởi nghiệp bằng việc bán xúc xích trên xe ngựa, cũng mở một loạt các quầy hàng thức ăn nhanh với tên gọi là Carl Jr.’s 14 Câu chuyện của McDonald's bắt đầu ở San Bernadio, bang California. Ray Kroc là một người bán hàng, chuyên cung cấp “milkshake - sữa lắc trước khi uống và thức ăn trộn” cho một cửa hàng thức ăn phục vụ lái xe và khách hàng qua đường của hai anh em Dick và Mac McDonald. Kroc ước tính rằng cửa hàng này chắc chắn bán được trên 2,000 hộp milkshake hàng tháng và từ đó, Kroc tò mò muốn biết nhiều hơn lí do tại sao công việc kinh doanh của 2 anh em nhà McDonald lại phát đạt đến thế. Ông ta tới thăm cửa hàng “phục vụ nhanh” này và cực kỳ kinh ngạc trước tốc độ phục vụ món Hamburger ở đây: 15 giây cho một chiếc bánh hamburger 15 cent với khoai tây và sữa lắc. Kroc nhìn thấy tiềm năng phát triển của công việc kinh doanh này và quyết định tham gia vào. Anh em nhà McDonald đã đồng ý với lời đề nghị của Kroc về việc mua lại bản quyền “quán ăn nhanh”. Và ngày 15 tháng 4 năm 1955, Kroc khai trương cửa hàng McDonald’s phục vụ thức ăn nhanh đầu tiên tại Des Plaines, ngoại ô phía bắc Chicago. Với tốc độ phát triển cực nhanh, hệ thống các cửa hàng McDonald’s bán được hơn 100 triệu chiếc bánh hamburger trong vòng 3 năm đầu tiên và cửa hàng McDonald's thứ 100 được khai trương 4 năm sau đó, năm 1959. Tới năm 1961, Kroc trả 2.7 triệu đô la Mỹ mua hết toàn bộ quyền lợi từ anh em nhà McDonald và năm 1963, việc bán chiếc bánh hamburger thứ một tỉ đã được truyền hình trực tiếp trên tivi vào giờ quảng cáo cao điểm. McDonald’s không chỉ phổ biến ở trong nước Mỹ mà còn nhanh chóng có được những thành công trên thị trường quốc tế như Canada, Nhật Bản, Úc và Đức. Ngày nay, có khoảng 1.5 triệu người làm việc cho McDonald’s trên toàn thế giới. Khởi đầu McDonald’s chỉ là một hiện tượng của nước Mỹ nhưng nay nó đã trở thành một thương hiệu quốc tế đích thực. Từ một cửa hàng gia đình phục vụ đồ ăn rất nhỏ, McDonald’s đã phát triển thành một hệ thống các cửa hàng phục vụ nhanh với giá trị hàng tỉ đôla Mỹ. Khi mà bánh hamburger và khoai tây chiên vẫn là chỗ dựa chính cho hoạt động kinh doanh của McDonald's thì khả 15 năng đoán trước và đáp ứng được nhu cầu thực sự của khách hàng chính là thành công lớn nhất của họ. Một ví dụ rõ nhất là bánh sandwich File-O-Fish, được làm bởi Lou Groen, chủ cửa hàng chi nhánh ở Cincinati, khu vực tập trung phần lớn người theo đạo Thiên Chúa giáo. Groen nhận thấy công việc kinh doanh của mình hoạt động không tốt vào các ngày thứ 6 – ngày mà người theo đạo Thiên Chúa Giáo không ăn các món có thịt. Groen đã đưa ra món bánh sandwich nhân cá, đáp ứng nhu cầu của người dân địa phương. Loại bánh xăng-uých “File-O-Fish” này được bán đầu tiên năm 1963 và đã nhanh chóng trở thành một món trong thực đơn được ưa thích ở tất cả các cửa hàng McDonald’s khắp thế giới. Tiếp theo đó, năm 1968 thì Big Mac, món bánh sandwich thành công nhất của McDonald được làm bởi nhà hàng Jim Deligatti thuộc Pittsburg. Và 9 năm sau, cũng nhà hàng trên, họ phục vụ thực đơn bữa sáng cho những người lái xe. Và điều này đã làm thay đổi thói quen ăn sáng của hàng triệu người Mỹ. McDonald’s thành công vẻ vang nhờ vào óc thực tế, sáng tạo (innovation) cũng như sự linh hoạt, biết thích ứng vào khung cảnh xã hội và của từng quốc gia riêng biệt. Món chủ lực chính của McDonald’s là bánh mì hamburger ăn với khoai Tây chiên (French fries) kèm theo Coke. Để đáp ứng với nhu cầu của thị trường ăn uống, McDonald’s ngày nay đã thêm vào menu nhiều món mới lạ, làm từ cá, thịt gà, gan, thịt cừu, McRib, và họ còn chơi luôn cả món pizza nữa… Đầu tháng 8 năm 2006, McDonald’s cho tung ra món Snack wrap, gồm có thịt gà, salade, sauce, và tất cả được cuốn lại trong một loại bánh mềm tortilla. Theo quảng cáo, thì đây là một món ăn nhanh, rất tiện và rất bổ với giá bán chỉ có 1,29$ Những điều có thể bạn chưa biết về Mc Donald 16 · McDonald’s phục vụ khoảng 45 triệu người mỗi ngày trên toàn thế giới - với doanh thu trên 20 triệu đôla ở nước Mỹ và hơn 25 triệu đôla ở toàn bộ các nước khác. · Cứ cách nhau 8 tiếng lại có thêm một cửa hàng McDonald’s được khai trương ở đâu đó trên thế giới. · Trung bình một ngày có khoảng 8% thanh niên Mỹ đến ăn ở McDonald’s. · Cửa hàng “MeSki” đầu tiên được khai trương ở Lindvallen, Thụy Điển năm 1996, tại đây khách hàng có thể thưởng thức chiếc bánh BigMac, ca cao nóng hay một miếng bánh táo trên con đường dốc trượt mà không cần phải cởi bỏ các dụng cụ trượt tuyết. · Việc đầu tư 2,250 đô la Mỹ cho 100 cổ phiếu của McDonald’s năm 1965 đến ngày 30 tháng 9 năm 1999 đã tăng lên 74,360 cổ phiếu và trị giá là 3.2 triệu đô la Mỹ. · Ronald McDonald có thể nói được hơn 25 thứ tiếng, bao gồm cả tiếng Quảng Đông, Bồ Đào Nha, Hindu, Talalog và tiếng Nga. · Từ năm 1984, các tổ chức nhà từ thiện mang tên Ronald McDonald’s (RMHC) – Ronald McDonald đã đóng góp gần 250 triệu đô la Mỹ với mục đích tài trợ các chương trình vì trẻ em. 17 Nối tiếp thành công đó của nhãn hàng McDonald’s, chuỗi cửa hàng KFC xuất hiện với một thể loại thức ăn nhanh khác là gà rán. KFC (trước đây viết tắt trong tiếng Anh của Kentucky Fried Chicken, còn gọi là Gà rán Kentucky trong tiếng Việt) là nhãn hiệu của loạt cửa hàng ăn nhanh được đánh giá nổi tiếng thứ hai trên thế giới sau McDonald's. KFC chủ yếu kinh doanh các món ăn nhanh làm từ gà và món nổi tiếng nhất là Gà rán Kentucky do ông Harland Sanders sáng chế. Câu chuyện KFC khởi đầu bằng một giấc mơ của một người đáng kính: Ông Harland Sanders, sinh ngày 9/9/1890 tại Henryville, bang Indiana - Mỹ và mất ngày 16/12/1980. Ngay từ thuở nhỏ, ông đã có năng khiếu nấu ăn và có thể nấu được rất nhiều món đặc trưng của vùng. Chính vì niềm đam mê nấu ăn nên ông luôn luôn thử nghiệm, tìm tòi nhiều hỗn hợp gia vị khác nhau và ông đã tạo ra món Gà Rán Kentucky thật độc đáo như ngày nay Năm 1939 Colonel Harland Sander giới thiệu với thế giới mùi vị sản phẩm sáng tạo nhất của mình, công thức nguyên bản của món Gà rán Kentucky. Từ đó hàng triệu người trên thế giới đã rất thích thú đến nhà hàng của ông để thưởng thức các món ăn kèm theo bánh bích quy tươi và nóng. Colonel Harland Sandner sinh ngày 9 tháng 9 năm 1890, bắt đầu tích cực tham gia vào công cuộc kinh doanh thịt gà của mình ở độ tuổi 65. Hiện nay doanh nghiệp KFC mà ông gây dựng đã lớn mạnh trở thành một trong những hệ thống dịch vụ cung cấp thức ăn nhanh lớn nhất thế giới. Và Colonel Sander một người tiên phong cho dịch vụ nhà hàng ăn nhanh đã trở thành một biểu tượng của tinh thần điều hành. Năm 40 tuổi ông bắt đầu nấu ăn cho những vị khách du lịch đói bụng dừng chân ở sân ga ở Corbin, Kentucky. Ông không có một nhà hàng nào cả mà phục vụ trên một cái bàn ăn tối của ông trong một phần tư phòng khách của ga. 18 Khi có thêm nhiều người biết đến các món ăn của mình, ông chuyển sang một nhà hàng và khách sạn với 142 chỗ ngồi. Hơn 9 năm sau ông đã hoàn thành một thực đơn hoàn chỉnh và các kĩ thuật nấu ăn căn bản vẫn được sử dụng để làm gà cho đến tận ngày hôm nay. Tên tuổi của Sander ngày càng nổi tiếng, thống đốc Ruby Laffoon phong ông làm đại tá ở Kentucky năm 1935 công nhận đóng góp của ông trong việc tạo ra kĩ thuật nấu nướng. Tuy nhiên vào đầu những năm 50 một đại lộ giữa các tiểu bang vòng qua thị trấn của Corbin được lên kế hoạch xây dựng, Sander bán đấu giá các tài sản khi nhận thấy đây là điểm kết thúc cho công việc kinh doanh của mình. Tin tưởng vào chất lượng thịt gà rán của mình, ông đã đi du lịch vòng quanh đất nước bằng ô tô từ nhà hàng này đến nhà hàng khác, nấu món gà cho các chủ nhà hàng để họ nhận xét. Sẽ có một bản hợp đồng thỏa thuận nhà hàng sẽ trả cho ông một Niken khi muốn bán thịt gà rán của ông. Năm 1964 Sander có thêm hơn 600 đại lí được cấp quyền kinh doanh thịt gà ở Mỹ và Canada. Vào năm đó ông đã chuyển nhựợng niềm đam mê của mình cho Jonh Brown, người sau này là thống đốc bang Kentucky từ năm 1980 đến năm 1984, với giá 2 triệu USD. Tuy nhiên KFC một lần nữa thay đổi chủ, Heublien Inc giành được KFC với 285 triệu đôla vào ngày 8 tháng 7 năm 1971, Heublien đã phát triển hơn 3.500 nhà hàng rộng rãi trên toàn thế giới. Sau đó Kentucky lại trở thành một thành viên của Pepsi Co và đến tháng 1 năm 1997 Pepsi Co Inc thông báo về việc tách các nhãn hiệu con của nó, họ gộp chung 4 nhãn hiệu KFC, Taco Bell và Pizza Hut thành một công ty độc lập là Tricon Global Restaurants. Vào tháng 5 năm 2002 công ty tuyên bố thay đổi tên thành Yum. Công ty này sở hữu A&W, All – American Food Restaurants, hệ thống các nhà hàng KFC, Long Jonh Silvers, Pizza Hut và Taco Bell, đây là một công ty lớn nhất thế giới về số lượng quán ăn, nhà hàng với gần 32.500 đại lí trên hơn 100 quốc gia trên thế giới. 19 Trong các năm 2004 và 2005, KFC đã khởi nguồn thành công với một chiến dịch mang tên “singing soul” tiếp bước từ sự thành công của chiến dịch “Soul Food” năm 2003 và 2004. Chiến lược “Soul Food” đã giúp KFC tạo được một hệ thống nhận diện thương hiệu hoàn chỉnh và xây dựng được một mối quan hệ tốt đẹp với khách hàng. Thừa hưởng sự thắng lợi đó, “singing soul” hiện nay đã đưa thương hiệu KFC phát triển vượt bậc. Tập đoàn KFC đặt cơ sở tại Louisville, với một hệ thống nhà hàng các món gà phổ biến nhất thế giới. Ở nước Anh KFC đã xây dựng cho mình 1 hệ thống 680 kho hàng dùng cho dự trữ gà. Toàn bộ KFC thuộc sở hữu của tập đoàn Yum đang hoạt động với hơn 33.000 nhà hàng trên hơn 100 quốc gia trên thế giới. Bốn công ty KFC, Pizza Hut, Taco Bell và Long Jonh Siver là những thương hiệu hàng đầu của Yum toàn cầu! Những công ty này mở khoảng ba quán ăn mỗi ngày và là những nhà hàng công nghiệp bán lẻ quốc tế lớn mạnh nhất. NHỮNG ĐIỀU CÓ THỂ BẠN CHƯA BIẾT VỀ THƯƠNG HIỆU KFC · Mỗi ngày, KFC đón tiếp gần 8 triệu khách hàng trên toàn thế giới. · Hàng năm, hơn một tỉ “finger lickin” thịt gà ngon được phục vụ cho các bữa ăn chính. · Thịt gà được chế biến từ cùng một công thức mà Colonel Harland Sander đã sáng tạo ra hơn nửa thế kỉ trước. · Người tiêu dùng trên toàn cầu đã sử dụng hơn 300 sản phẩm khác được chế biến từ Chunky Chicken Pot Pie ở Mỹ tới bánh sanwich cá hồi ở Nhật Bản. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan