Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu tuyển chọn và áp dụng một số biện pháp kỹ thuật trong sản xuất chuối ...

Tài liệu Nghiên cứu tuyển chọn và áp dụng một số biện pháp kỹ thuật trong sản xuất chuối tiêu xuất khẩu tại phú hộ - phú thọ

.PDF
119
270
120

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM ----------------------------- TRIỆU TIẾN DŨNG NGHIÊN CỨU TUYỂN CHỌN VÀ ÁP DỤNG MỘT SỐ BIỆN PHÁP KỸ THUẬT TRONG SẢN XUẤT CHUỐI TIÊU XUẤT KHẨU TẠI PHÚ HỘ - PHÚ THỌ Chuyên ngành: Trồng trọt Mã số: 60.62.01 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP Thái Nguyên - 2010 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM ----------------------------- TRIỆU TIẾN DŨNG NGHIÊN CỨU TUYỂN CHỌN VÀ ÁP DỤNG MỘT SỐ BIỆN PHÁP KỸ THUẬT TRONG SẢN XUẤT CHUỐI TIÊU XUẤT KHẨU TẠI PHÚ HỘ - PHÚ THỌ Chuyên ngành: Trồng trọt Mã số: 60.62.01 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đào Thanh Vân Thái Nguyên - 2010 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ nguồn gốc Tác giả luận văn Triệu Tiến Dũng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận án này ngoài sự nỗ lực cố gắng của bản thân, tôi còn nhận được sự tận tình giúp đỡ của nhiều cá nhân và tập thể. Tôi xin bày tỏ sự biết ơn chân thành tới: PGS.TS Đào Thanh Vân, Trưởng bộ môn Cây ăn quả - Khoa Nông học Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên, giáo viên hướng dẫn đã có nhiều công sức trong việc hướng dẫn tôi thực hiện và hoàn thành luận văn này. Ban Giám đốc cùng tập thể lãnh đạo Trung tâm NC&PT rau hoa quả đã tạo mọi điều kiện thuận lợi về thời gian cũng như kinh phí trong quá trình học tập và bảo vệ luận văn. Nhân dịp này, tôi cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới những người thân trong gia đình, bạn bè đồng nghiệp đã giúp đỡ, động viên và khích lệ tôi trong suốt thời gian học tập và hoàn thành luận văn. Người cảm ơn Triệu Tiến Dũng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Chuối là loại trái cây nhiệt đới được trồng phổ biến ở nhiều quốc gia và vùng miền trên thế giới, đồng thời cũng chiếm một tỷ trọng đáng kể trong thương mại rau quả của toàn cầu, là cây có ưu thế xuất khẩu đứng đầu về khối lượng và đứng thứ hai về kim ngạch, sau cam trong cơ cấu xuất khẩu trái cây của thế giới. Đây cũng là loại hàng hóa nhạy cảm về kinh tế, chính trị, xã hội. Theo đánh giá của FAO, tổng kim ngạch xuất khẩu chuối đạt 16,8 triệu tấn vào năm 2006. Cùng với gạo, lúa mì, ngũ cốc, chuối cũng là một trong số những mặt hàng chủ lực của nhiều nước đang phát triển. Tuy nhiên, xuất khẩu chuối của một số nước sản xuất chính như Ấn Độ, Braxin lại không cao. Trên thực tế thì chỉ có 1/5 số lượng chuối sản xuất ra được dùng để xuất khẩu. Ngành công nghiệp chuối đem lại nguồn thu nhập quan trọng, tạo nhiều việc làm và góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu lớn cho những nước xuất khẩu chuối chính trên thế giới, cả những nước đang phát triển ở Mỹ Latinh và Caribean, cũng như là Châu Á và Châu Phi. Theo FAO, xuất khẩu chuối của cả thế giới đạt được trên 5,8 tỷ USD một năm (theo thống kê năm 2006) đã đem lại nguồn thu nhập lớn cho nhiều nước. Sự biến động về nguồn cung chuối cho xuất khẩu và giá chuối có tác động lớn tới thu nhập của người lao động trực tiếp trong ngành này, từ những hộ gia đình trồng chuối cho đến những công nhân làm ở những đồn điền lớn. Không những thế, ngành chuối còn có tác động lớn tới cả những người làm trong ngành công nghiệp thứ 2 và thứ 3. Chuối là loại cây cây ăn quả dễ trồng, yêu cầu đầu tư thấp, quả ít bị ảnh hưởng độc hại do có vỏ dày, hàm lượng dinh dưỡng cao, đặc biệt là hàm lượng đường. Trong 100gr thịt quả chuối tươi tỷ lệ đường chiếm 27%, prôtêin 1,8%,, lipit 0,3%, chuối cung cấp một lượng calo đáng kể 173 Kcal/100gr thịt Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2 quả, trong khi đó cam chỉ có cho 53 Kcal/100gr. Đối với chuối luộc (Cooking Banana) thì tỷ lệ Gluxit 31%, lipit 0,2%, prôtêin 1% và cho 128 Kcal/100gr thịt quả [2]. Ngoài ra, trong quả chuối còn có nhiều loại vitamin khác nhau, đặc biệt là Vitamin A, B1, B12,… (FAO 1985) [39]. Chính vì vậy chuối trở thành thức ăn cho mọi tầng lớp nhân dân chẳng những ở các quốc gia nhiệt đới mà khắp mọi nơi trên thế giới. Ở Việt Nam cây chuối đã đuợc trồng phổ biến từ lâu đời rải rác trong các vườn gia đình khắp cả nước từ đồng bằng, trung du, đến miền núi và có vai trò quan trọng trong đời sống nhân dân. Quả chuối được sử dụng làm lương thực, ăn tươi, làm bánh, kẹo, nước giải khát, bột dinh dưỡng cho trẻ em… Ngoài sản phẩm quả các bộ phận khác của cây chuối đều có thể sử dụng vào các mục đích khác nhau như thân giả dùng để chăn nuôi, lá dùng làm để gói, cây non và hoa dùng để làm rau, các phần khác có thể làm phân bón… hoặc phơi khô làm chất đốt. Chuối là cây xuất khẩu có giá trị với nhiều loại mặt hàng như quả tươi, chuối sấy khô… Chính vì vậy chuối được đánh giá là một trong ba cây ăn quả chính cam, chuối, dứa và diện tích trồng không ngừng tăng lên. Năm 2002 diện tích chuối trong cả nước là 96.000ha, năm 2004 là 102.091 ha và đến năm 2005 tăng lên là 103.400ha chiếm 13,4,% cây ăn quả trong cả nước. Cho đến năm 2005 sản lượng chuối 1.354,300 tấn . Tuy có vai trò chiến lược như vậy, song cho đến nay công tác nghiên cứu về cây chuối ở nước ta còn chưa đầy đủ và hệ thống, có thể nói chưa xứng với vai trò kinh tế của nó trong sản xuất và xuất khẩu. Việc sản xuất ở nước ta còn gặp một số khó khăn do chuối trồng phân tán, thu hoạch không đồng đều, giống chuối quá đa dạng, năng suất, phẩm chất không ổn định. Để có một giống tốt phục vụ cho xuất khẩu cần phải tiến hành nghiên cứu và tuyển chọn giống có định hướng rõ rệt để quy hoạch sản xuất vùng trồng chuối với số lượng lớn, tập chung có quy mô theo hướng sản xuất hàng hoá đặc biệt cho xuất khẩu Chính vì thế, chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3 tuyển chọn và áp dụng một số biện pháp kỹ thuật trong sản xuất chuối tiêu xuất khẩu tại Phú Hộ - Phú Thọ”. 2. Mục tiêu, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 2.1. Mục tiêu của đề tài - Đánh giá khả năng sinh trưởng và phát triển của các giống chuối trong tập đoàn VN1 tại Phú Hộ, Phú Thọ. Sơ bộ chọn ra một số giống có triển vọng cho xuất khẩu và nội tiêu, phù hợp với điều kiện sinh thái Phú Thọ. - Khảo nghiệm các giống có triển vọng và nhập nội, tìm ra các giống chuối phục vụ cho việc sản xuất chuối thương mại ở miền Bắc Việt Nam. - Nghiên cứu biện pháp kỹ thuật thâm canh sản xuất chuối tiêu vụ đông ở miền Bắc. 2.2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn * Cung cấp cho các nhà chọn giống cây trồng nói chung và chuối nói riêng những thông tin cơ bản về các giống chuối ở Việt Nam trong vườn tập đoàn VN1. * Tạo cơ sở bước đầu cho việc tuyển chọn các giống chuối ở miền Bắc Việt Nam. Áp dụng BPKT sản xuất chuối tiêu đông nhằm giải vụ thu hoạch cho người dân trồng chuối 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu gồm các giống chuối dòng AAA trồng trong vườn tập đoàn VN1 và các giống nhập nội Trung Quốc. * Phạm vi nghiên cứu đề tài: Tiến hành năm 2008 - 2009 tại Trung tâm NC&PT rau hoa quả và các vùng phụ cận dọc theo sông Hồng (Thị xã Phú Thọ - Phú Thọ, huyện Lâm Thao - Phú Thọ). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 4 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1. Cơ sở khoa học của đề tài Nghiên cứu sự sinh trưởng, phát triển của các giống chuối để phát hiện các biểu hiện hình thái, các hiện tượng sinh lý của cây, nhằm xác định được giai đoạn, chu kỳ sinh trưởng khác nhau của cây chuối như thân, lá, hoa, quả. Trên cơ sở đó nghiên cứu áp dụng các biện pháp kỹ thuật canh tác, có ảnh hưởng tốt đến năng suất, chất lượng chuối. Góp phần nâng cao sản lượng chuối, tăng thu nhập cho người dân. 2. Đặc điểm thực vật học của cây chuối Cây chuối nằm trong họ Musaceae là một trong 8 họ trong bộ gừng Zingiberales (trước kia gọi là Csitaminales) [3]. Trong Bộ gừng, Musaceae là họ nguyên thủy nhất, chúng gồm những cây thân thảo lớn có rễ, sống lâu năm, lá mọc xoắn ốc có bẹ lá ôm lấy nhau tạo thành thân giả, phiến lá rất lớn. Cụm hoa mọc theo kiểu hoa tự bông vô hạn được hình thành ở ngọn từ thân khí sinh. Trục mang hoa và thân thật được mọc lên từ củ dưới lòng đất. Lá bắc lớn trong chứa từ 1 - 3 hàng hoa. Những hoa ở gốc của cụm hoa là hoa cái, hoa ở giữa là hoa lưỡng tính, hoa trên cùng là hoa đực. Bao hoa gồm 2 hoặc 3 vòng nhưng tạo thành 2 cánh, cánh ngoài cùng được tạo bởi 3 đài đính liền với 2 cánh hoa và thường có mầu vàng ươm hay mầu vàng nhạt, cánh hoa trong nằm đối diện với mảnh ngoài thường ngắn, màu trong suốt và được hai mép của cánh ngoài bao phủ. Có 5 nhị, bộ nhụy, lá noãn hợp bầu dưới, quả mọng, chứa nhiều hạt tuy nhiên ở loài chuối trồng hạt thui đi rất sớm. [3] Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 5 Cheesman (1947 - 1950) [27] Bake và Simmonds (1951) [21] Simmonds (1960 [57] đã đưa ra sơ đồ giới thiệu tổng quan. Bảng 1.1: Các đặc điểm phân loại chuối Bộ Ordo Zingiberales (Csitaminales) Đặc điểm của họ Chi Genus Lá và lá bắc sắp xếp hình xoắn ốc hoa đực, hoa cái, hoặc hoa lưỡng tính xếp riêng rẽ trong 1 cụm hoa, quả mọng có nhiều hạt. Lá và lá bắc xếp thành 2 dãy đối xứng nhau. Gân chính nằm song song không rõ đường phân nhánh ngang của gân, lá đài rời, hoa lưỡng tính cánh hoa ở giữa rộng hơn các phần bên, quả nang hoặc quả thịt chứa từ 1 đến 3 hạt. Lá và lá bắc xếp thành 2 dãy gân phụ của lá dạng lông chim hoặc hơi ngang, hoa lưỡng tính lá bắc rất to, dài mở rộng. Gân chính song song, gân phụ được nối với gân chính lá đài dính nhau tạo hình ống cánh hoa giữa hẹp, có mầu sắc. Chỉ có một nhị, bầu 3 ô nhiều noãn Cây có chất thơm, lá xếp thành 2 dãy xoắn ốc. Bộ nhị hình cánh hoa có một bao phấn 2 ô nhỏ. Có 2 chi Ensete Musa Họ Family Musaceae Trelibziaceae Heliconiaceae Lowiaceae Costaceae Zingiberaceae Marantaceae Có 3 chi Strelitzia Ravennala Phenakospermun Có 1 chi Heliconia Có 1 Orechidantha chi Chỉ có một chi Costus Có khoảng 45 chi, 1 số chi chính: (Globa, Zingiber, Alpin, Cureuma, Hedychium Lá không có mùi thơm, không Có khoảng 25 chi xếp xoắn ốc luôn tạo thành 2 dãy, trong đó: phiến lá hình gối, hoa rất hiếm Maranta, Colathea. hoặc (không có) hoa rộng màu đỏ sặc sỡ, chỉ có 1 nhị (hoặc ½) có Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 6 Cannaceae một noãn trong mỗi ô. Lá thon dài, hoa to sặc sỡ noãn Có 1 chi Canna nhiều trong mỗi ô, bầu hạ, chỉ có một phần, ½ nhị nửa còn lại lép phát triển hình thành cánh Năm 1957, Moore đã đưa ra một bản liệt kê về chuối trồng ở Mỹ, trong đó ông đặc biệt chú ý đến chuối có giá trị kinh tế như Grosmichel và Lacatan [2, 34]. Ở họ Musaceae có 2 chi Ensete và Musa, chúng rất giống nhau ở bộ lá và dạng cây, song có một đặc điểm lại rất khác nhau: Chi Ensete do Horaninov đặt tên, vì có bộ lá giống lá chuối nên một thời gian dài người ta xếp chúng vào chi Musa. Đây là loại cây thân thảo, chỉ sinh sản một lần, thân ngầm không bao giờ đẻ nhánh, hoa và lá bắc dính liền nhau và vào cuống buồng, chúng sinh sản hữu tính, không cây nào trong chi này có quả tươi được vì quả của chúng chỉ có một lớp vỏ mỏng bên trong chứa đầy hạt có đường kính to từ 1 - 1,2cm. Chi này có cây Ensete vetricosum thường trồng ở Đông Phi, người ta lấy bẹ của chúng làm rau ăn hoặc lấy chất bột trong bẹ ủ làm men để làm bánh ăn. Chi Musa có 4 phân chi (chi phụ Subgenus) Austrilimusa, Callimusa, Eumusa và Rohdochilamys trong đó 2 phân chi đầu có số nhiễm sắc thể cơ sở là X = 10, 2 phân chi sau có số nhiễm sắc thể cơ sở là X = 11 [76]. Austrilimusa là phân chi cổ nhất trong họ Musaceae, các cây M.testilis và M.abaca chỉ sử dụng làm dây buộc, chúng chỉ có ý nghía về khía cạnh nghiên cứu nguồn gốc của chuối, không có ý nghĩa về kinh tế. Callimusa gồm chỉ một loài dùng làm cảnh do các lá bắc mầu đỏ tươi Musacocinea. Rohdochilamys tuy có số nhiễm sắc thể X = 11 nhưng có đặc điểm là bông đứng và rất ít hoa trong mỗi lá bắc (từ 1 - 5 hoa). Cây chuối kiềng đỏ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 7 Musa ornata roxb có lá bắc mầu hồng tím nhạt, hoa mầu vàng tươi, loại này giống Calimusa chỉ trồng để làm cảnh. Eumusa là một phân chi đáng chú ý nhất không chỉ vì nó lớn nhất, phong phú về nòi nhất mà còn vì giá trị kinh tế của nó đặc biệt trong lĩnh vực ăn tuơi và làm lương thực. Buồng quả của Eumusa ít nhiều cụp xuống, có thể ngang hoặc hơi ngang, hay buồng thõng xuống, mỗi nải có số quả nhiều xếp thành hai hàng. Trong Eumusa có các nòi chuối dại có thể không hoặc ít khi có ích nhưng lại có giá trị trong lĩnh vực nghiên cứu về phân loại (ví dụ Musabasjvo sicb, cây dùng để lấy sợi, chịu rét tốt có nguồn gốc ở các đảo cực nam của Nhật Bản, có thể trồng được trong các vườn phía nam của nước Pháp). Musa intinerans - cheesm có nguồn gốc ở Miến Điện với đặc điểm là những cây con mọc rất xa những cây mẹ. Nhưng các nòi chuối ăn được theo E.E Cheesman và học trò của ông là Simmonds và Shepherd cho rằng chúng có nguồn gốc từ hai loài quan trọng nhất là M. acuminata colla và M. balbisiana colla. Trải qua nhiều quá trình biến đổi chúng đã trở thành loài không hạt ăn được. Thực ra điều phát hiện này đã được Skuaz. 1965 nói đến nhưng sau này Cheesman và cộng sự của ông đã khẳng định lại. Musa acuminata colla là một thứ đa dạng, sống trong một khu địa lý rất rộng thuộc châu Á từ các đảo Samoa ở nam Ấn Độ qua các đảo lớn của Indonesia, bán đảo Đông Dương và Malaysia. Chúng rất đa dạng về hình dạng và ổn định về di truyền, bởi vậy cho đến nay trên thế giới chưa có một thống kê chính xác nào về các dòng, chúng có thể khác nhau về lớp sáp ở bẹ lá, mầu sắc thân giả, góc tạo bởi buồng và thân, độ dài của buồng, hình dạng của quả…, Mỗi đặc điểm khác nhau này đều được xếp vào một loại phụ. Musa balbisiana colla là một thứ chuối khỏe, có thân giả mầu sáng, mập mạp, có rất nhiều ở Ấn Độ, Miến Điện, Philippines. Đặc điểm của Musa balbisiana là buồng thõng đứng, quả mập ngắn, ít cong và ít số lượng về chủng loại [71]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 8 Ngoài ra N.W. Simmonds còn tìm thấy ở Guinea có hai loài mới không xếp được vào chi nào có số nhiễm sắc thể cơ sở X = 7 (Musa ingcusimm) và X = 9 ( Musabaccriisinm) [2]. 3. Lịch sử phát triển cây chuối Từ xa xưa việc trồng và nhân giống chuối đã tồn tại. Ở châu Đại Dương nghề nông đã có sớm nhất khoảng 8.000 năm trước Công nguyên vùng này đầu tiên đã thấy xuất hiện chuối Austramusa, loài này đã được coi là một trong những cây nông nghiệp đầu tiên. Chúng được thu thập nhờ các cuộc thám hiểm, người ta tìm thấy chúng đầu tiên ở New Guinea (Simmonds 1966) [59] và được di chuyển đến Thái Bình Dương từ thời tiền sử (Krich 1978) [46]. Khoảng 4000 năm trước Công nguyên việc giao lưu văn hóa và nông nghiệp được phát triển sớm nhất ở Thái Bình Dương và Đông Nam Á (Yên 1993). Philippine cũng là một nước được trao đổi các cây trồng khác nhau trong đó có những cây thuộc Emusa (Krich 1978) [37], mà sau này được xác định là nhóm chuối có kiểu gen AAB và ABB (Simonds. 1996)[59]. Về sau người châu Âu đã quay trở lại thăm dò nhiều dạng chuối ở khu vực này để xác minh lại, trong đó có cả những nơi xa xôi như châu Đại Dương (Longdon 1993) [47]. Việc sử dụng và trồng chuối ở Ấn Độ cũng đã xuất hiện từ hàng nghìn năm trước đây, chúng đã được viết trong kinh thánh và được khắc họa trên tường ở các thánh đường (Rcynolds 1927) [49], (Kervegant, 1935) [51,35]. Ở về phía tây của trái đất diện tích trồng chuối và chuối ăn luộc cũng ngày càng được mở rộng trong thời gian gần đây (Kervegant 1935) [44] đã đưa ra giả thiết về sự có mặt của chuối ở Trung Đông và châu Phi là do người Ả rập cổ xưa mang đến. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 9 Sự mô tả về chuối một cách rõ ràng và sớm nhất do người Hy Lạp cổ xưa thực hiện từ 325 năm trước Công nguyên. Trong cuộc hành trình của Alexrander đến Ấn Độ (Rcynolds 1927, Kervegand 1935). Sau đó khoảng 100 năm sau Công nguyên người Ả rập đã thống trị mảnh đất từ Ấn Độ đến Tây Ban Nha (Kinder và Higeman, 1974) [45] và chuối lại được quan tâm phát triển. Nhất là chuối ăn quả tươi và chuối ăn luộc đã được đưa đến Bắc Phi và phát triển rộng ở đây, mặc dù mảnh đất này rất khô cằn (Rcynolds, 1927) đã dựa vào những hóa thạch và các bức vẽ trên các hang động cho rằng chuối cũng được trồng và phát triển được 15 thế kỷ ở châu Phi, trong đó Đông Phi chủ yếu trồng 2 loài chuối có kiểu gen AA và AAA vùng gần xích đạo phát triển chủ yếu chuối ăn luộc mang kiểu gen AAB (Vansina, 1984 - 1990) [66 - 68] đã giải thích về sự xuất hiện chủ yếu của chuối mang kiểu gen AAB ở châu Phi và cả ở Ấn Độ là một phần do sự thích nghi về khí hậu, song chủ yếu là nhu cầu cấp bách về lương thực ở những nước này [41,52]. Đến thế kỷ 10 do ảnh hưởng của nền văn minh Ả rập, mối quan hệ giữa các nước được mở rộng. Thời kỳ chuối là mặt hàng được trao đổi mạnh nhất trên thị trường, cả ở những nước xa xôi như Trung Quốc (Davidson, 1974) [29]. Người ta cho rằng chuối được di chuyển đến Mỹ nhờ người Bồ Đào Nha từ thế kỷ 14 và sau đó được phát triển mạnh vào năm 1607 (Kervegant, 1935) [28]. Trong thời gian gần đây sự thu thập và phổ biến về chuối đã có cơ sở khoa học, hơn nữa chuối đã được đưa ra thương trường làm mặt hàng xuất khẩu chính [62]. Điều này đã gây sự chú ý đầu tư của các nhà khoa học về chất lượng và năng suất của các giống. Ngày nay chuối đã được phát triển rộng khắp trên thế giới, không chỉ nó quan trọng do việc xuất khẩu mà còn ở sự đa dạng về mặt hình thái và chủng loại [64]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 10 Như vậy chuối đã có một lịch sử phát triển lâu dài đầu tiên là những dạng hoang dại mọc rải rác ở New Guinea sau đó được thuần hóa và lan rộng nhờ dân chúng, các nhà thám hiểm và qua các cuộc chinh chiến. Ở châu Á chuối đã được xuất hiện từ 4000 năm trước Công Nguyên (Yên, 1993) [67], vì vậy có thể nói chuối có nguồn gốc từ Châu Á. Điều này không những thể hiện ở sự phát triển mạnh của chuối ăn quả tươi và chuối ăn luộc do thích hợp khí hậu mà còn ở sự đa dạng các chủng loại chuối. Ở Philippine có 43 giống chuối, Malaysia có 32 loại chuối, Indonesia có 9 loại, New Guinea có 54 loại, Eestarn Astralia có 8 loài, Fili có 10 loài, Hawai 19 loài, Thái Lan 18 loài, Ấn Độ 57 loài. (N.W Simmonds 1959) [78]. 4. Những nghiên cứu vể cây chuối 4.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước 4.1.1. Công tác đánh giá và thu thập tập đoàn quỹ gen chuối INIBAP (International Network for the Improvement of Banana and Plantain) được thành lập năm 1984 tại Montpellier France. Đây là một tổ chức Quốc tế nghiên cứu về cây chuối lớn nhất nằm trong hệ thống của GGIAR. INIBAP có quan hệ rộng rãi với tất cả các tổ chức Quốc tế nghiên cứu về nông nghiệp khác và đặc biệt rất quan tâm đến các chương trình Quốc gia. Mục tiêu của INIBAP là hợp tác nghiên cứu, cung cấp thông tin và huy động tài trợ ủng hộ các hoạt động nghiên cứu và phát triển về chuối. Nhận thức đầy đủ vai trò của Đông Nam Á trong các vấn đề cây chuối, INIBAP đã đang và sẽ tập trung nghiên cứu, tài trợ cho các hoạt động thu thập, đánh giá sử dụng và bảo quản nguồn gen cây chuối trong vùng. Bảng 1.2: Một số nƣớc có tập đoàn quỹ gen chuối lớn nhất thế giới giai đoạn (1951 - 1977) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 11 Địa điểm Tổng số mẫu Thời gian thu Chuối trồng Chuối dại thập Hondras 470 100 1951 - 1961 Jmaica 80 40 1920 - 1977 Philippines 61 1 1958 - 1959 Papua New Guinea 700 - 1967 - 1972 India 48 3 1949 - 1977 (Theo báo cáo của nhóm hoạt động IBPGR năm 1977 ) Ngoài ra những tập đoàn có quy mô lớn của thế giới một số nước ở châu Á nói chung và khu vực Đông Nam Á nói riêng cũng đã quan tâm tới việc thu thập, đánh giá sử dụng và bảo quản chuối trong tập đoàn của họ. Theo thống kê của INIBAP (1990) tổng số các mẫu chuối trồng của Philippines là 80 mẫu trong đó các mẫu thuộc loại M.acuminata và M.balbisiana là 27 mẫu và chỉ duy nhất có 1 mẫu là chưa xác định được kiểu di truyền. Ở đây còn giữ và duy trì 29 mẫu giống của Malaysia, 35 mẫu giống của Thailand, 16 mẫu giống của Indonesia, 148 mẫu giống của Papua Newguinea. Ngoài ra còn có 10 mẫu giống của các loại khác trong chi Musa và các loại họ hàng. Như vậy tính đến nay Philippines có 318 mẫu giống, được coi là nước có tập đoàn chuối lớn nhất trên thế giới. Mặt khác INIBAP cũng đang tiếp tục đẩy mạnh việc thu thập, nghiên cứu, đánh giá và bảo quản tập đoàn chuối ở khu vực này. Ở Thai Lan tổng số mẫu là 49 mẫu trong đó 17 mẫu giống thuộc nhóm AA/AAA, 1 mẫu thuộc nhóm BB/BBB và 21 mẫu giống là còn lai của M.accuminata và M. balbisiana, 10 mẫu giống là các loài hoang dại và loài có quan hệ họ hàng gần gũi. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 12 Ở Malaysia tổng số có 62 mẫu giống trong đó có 30 mẫu giống thuộc nhóm AA/AAA, 4 mẫu giống thuộc nhóm BB/BBB, 20 mẫu là con lai của M.acuminata và M.balbisiana, các loài dại và có quan hệ họ hàng gần gũi. Tập đoàn chuối của Indonesia có 37 mẫu giống trong đó có 18 mẫu giống thuộc nhóm AA/AAA, 2 mẫu giống thuộc nhóm BB/BBB, 15 là con lai của M.acuminata và M.balbisiana, các loài dại và có quan hệ họ hàng gần gũi chỉ có 2 mẫu giống. Trong việc nghiên cứu thực vật nói chung và cây chuối nói riêng thỉ công tác thu tập mặc dù là bước rất quan trọng và không thể thiếu được nhưng nó chỉ là bước khởi đầu. Vấn đề ở chỗ phân tích, đánh giá, mô tả sự đa dạng ấy để sử dụng chúng vào mục đích khác nhau phục vụ cuộc sống con người. Chính vì vậy INIBAP đã đưa ra một cái mẫu dùng để mô tả đặc điểm hình thái, đánh giá khả năng thích nghi, khả năng kinh tế chung cho tất cả các vườn tập đoàn trên thế giới, thuận tiện cho công tác chọn tạo giống và trao đổi hợp tác. 4.1.2. Vấn đề về phân loại Các nhà thám hiểm châu Âu là những người nghiên cứu đầu tiên về cây chuối, mặc dù nguồn gốc phát sinh của cây chuối không phải từ những nước này Chline (1707 - 1778) người Anh, nhà phân loại học đã có công sắp xếp và đặt tên cho các giống thực vật nói chung và cây chuối nói riêng. Musa là tên ông đặt cho chuối để tưởng nhớ đến Antonius Musa một thầy thuốc vào thời hoàng đế Roma thứ nhất Octavius Agnstus, tên Musa Sapientum.L cho dòng chuối quả thịt không hạt, ăn tươi được ý nghĩa của tên này là quả của người. Musa Pradisiaca.L. là dòng chuối ăn được thuộc “Plantain” ngày nay Pradisiaca có ý nghĩa là quả của thiên đường hoặc quả của các vườn cây [2]. Mặc dù chuối đã được trồng từ lâu nhưng mãi đến thế kỷ 19 mới có một vài tác giả nói về sự phát triển và dinh dưỡng của nó như Fonrcroy và Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 13 Vanquclin (1807) [2]. Thực tế các công trình nghiên cứu có hệ thống về chuối thực sự bắt đầu và thế kỷ 20. Thời kỳ đầu người ta cũng sắp xếp vào 2 loại chuẩn theo Linmaur chuối ăn tươi và chuối ăn luộc vì tinh bột ở những quả này khi chín không chuyển hóa thành đường dễ tan. Nhưng sau đó các dòng được thu thập ngày càng nhiều, có những dòng có thể vừa ăn tươi vừa ăn luộc được (khi quả xanh có thể ăn luộc, khi quả chín tinh bột lại chuyển hóa thành đường dễ tiêu) [53]. Việc xếp loại thật khó khăn người ta đã nghĩ ra cách đặt tên cho một dòng là những đuôi latinh chỉ căn cứ vài đặc điểm ngoại hình không cần quan tâm đến nguồn gốc di truyền. Ví dụ Musa Nanalonr và Musa Cavendishulamb được đề nghị đặt cho cây Dway cavendish, Musa rubra, Fiming nonwall đặt cho Morado Red, hoặc Pisang udang, Musa corniculata lour cho chuối Eahorn, Tindok hay Pisang tamduk… [2] như những cây này đôi khi chỉ có những biến đổi đơn giản. Việc tăng nhanh các tên khoa học do số lượng cây giống ngày càng nhiều đã gây nhiều lộn xộn trong phân loại [50]. Trong khi chờ đợi có những hiểu biết mới, nhất là quan hệ gần gũi của các dòng họ, Giáo sư E .E Cheesman cho rằng tốt nhất là dùng các tên thông thường của địa phương cùng với sự mô tả tỉ mỉ [25]. Do thấy được vai trò của cây chuối đối với nhu cầu ngày càng tăng của nhân loại. Các nhà khoa học ngày càng quan tâm chú ý nghiên cứu toàn diện về nó như phân loại, di truyền, sinh hóa, sinh lý, cũng như ảnh hưởng của quan hệ sinh thái môi trường (chế độ dinh dưỡng, nước, nhiệt độ, ẩm độ và sâu bệnh) đến năng suất và phẩm chất của chuối [29]. Chuối là cây trồng sinh sản chủ yếu bằng con đường vô tinh nên rất phức tạp về chủng loại. Tuy nhiên nhờ quan sát nhiều lần những tiêu bản sống (trong vườn tiêu bản ICTA - Trimida) mà E.E Cheerman và cộng sự của ông đã xác định được sự tương Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 14 tác mạnh của hai loài Musa acuminata colla (ký hiệu là A) và Musa balbisiana colla (ký hiệu là B). Ngay từ năm 1922 người ta đã cho lai phân tích, lấy phấn của M.acuminata colla thụ cho hoa cái của giống Grosmichel là cây có quả không hạt sẽ thu được giống chuối rất ít hạt. Những hạt tốt có thể mọc thành loài M.Acuminata [2]. Trên cơ sở lập luận nguồn gốc các loại chuối trồng 2 ông đã đưa ra một hệ thống phân loại mới, hệ thống phân loại này dựa vào tỷ lệ đóng góp của 2 loài M.A cuminata Colla và M. Balbisiana Colla trong mỗi dòng, cụ thể là: AA, AAA, AB, AAB, ABB, ABBB, BB, BBB. Để xác định mức độ pha trộn Simmonds và Shepherd (1985) đã đưa ra 15 chỉ tiêu cơ bản có sự khác biệt rõ ràng giữa M.acuminata Colla và M.balbisiana Colla. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 15 Bảng 1.3. Thang điểm phân loại các dòng chuối của Simmonds và Shepherd TT Đặc điểm M. Acuminata M.Balbisiana 1 Thân giả Nhiều vệt nâu đen Ít hoặc không có Mép thẳng, trải Mép tròn kín, không có rộng, có cánh, cánh phía dưới ôm thân không ôm thân giả giả 2 Cuống lá 3 Cuống buồng Nhiều lông Không có lông (nhẵn) 4 Cuống quả Ngắn Dài 5 Noãn 2 hàng thẳng 4 hàng lộn xộn 6 Vai lá bắc Cao (X/Y < 0,28) Thấp (X/Y >3) 7 Tập tính lá Bắc Cuộn ngược Không cuộn ngược 8 Hình thái lá bắc Bóp nhọn từ vai Bình thường đều 9 Đỉnh lá bắc Nhọn Tù 10 Mầu lá bắc Ngoài đỏ, đỏ tối, Ngoài đỏ đặc biệt, trong trong đỏ thẫm đỏ sáng Nhạt dần đến gốc Không thay đổi 11 Sự chuyển mầu của lá bắc 12 Sẹo lá bắc Lồi Phẳng ít lồi 13 Cánh hoa đực tự do Gấp nhiều nếp Ít hoặc không gấp nếp 14 Mầu hoa đực Trắng mượt Ánh đỏ khác nhau 15 Mầu đầu nhụy Da cam, vàng đậm Mầu kem đỏ nhạt Thang điểm cho mỗi chỉ tiêu biến động trong khoảng 1 - 5 trong đó điểm 1 dành cho chỉ tiêu nào nghiêng nhiều nhất về phía M.acuminata Colla Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 16 và điểm 5 cho chỉ tiêu nào nghiêng nhiều nhất M.balbisiana Colla. Những chỉ tiêu thể hiện trung gian thì tùy theo mức độ tham gia của (A) hoặc (B) mà cho 2, 3 hoặc 4 điểm và như vậy các loài chuối trồng sẽ có tổng số điểm dao động từ 15 - 75 điểm. Trên cơ sở tổng số điểm của mỗi dòng, giống có được, Simmonds và Shepherd đã chia toàn bộ chuối ra làm 6 nhóm: AA, AAA, AAB, AB ABB và ABBB. Nhóm AA/AAA tổng số điểm 15 - 23 điểm, nhóm AAB tổng số điểm 24 - 46 điểm, nhóm AB: 47 - 49 điểm, nhóm ABB: 59 - 63 điểm, nhóm ABBB: 64 - 67 điểm. Hệ thống phân loại này mang tính thuyết phục mạnh mẽ và dần dần thay thế cho hệ thống phân loại của Linnaeur trong phân loại chuối. Cho đến nay mặc dù nhiều phương pháp phân loại bổ xung khác song phương pháp này vẫn là phương pháp có vai trò quan trọng không thể thiếu được. Hiện nay ở hầu hết các ngân hàng gen chuối lớn nhất thế giới phương pháp phân loại này được sử dụng rộng rãi để đánh giá nguồn tài liệu di truyền cây chuối. Mặc dù vậy cách phân loại của Simmonds và Shepherd vẫn có nhược điểm và không đề cập đến sự có mặt của dòng thuần M.balbisiana Colla và không đưa ra giới hạn cho nhóm này (nhóm BB/BBB). Cho đến tận bây giờ thì ông cũng không công nhận có giống chuối trồng không hạt có nguồn gốc từ M. balbisiana Colla, bởi vì khi kiểm tra hoa đực của tiêu bản thực vật giống Saba, ông quan sát thấy lá bắc cuộn lên, (Simmonds Weatherup 1990 [60]. Một số các nhà nghiên cứu về chuối khác lại cho rằng sự cuộn lên của lá bắc chỉ là đặc tính nhỏ của giống Saba, giống này đạt tổng số điểm 72 chỉ thấp hơn 3 điểm so với điểm tuyệt đối (75) điểm cho loài dại M.balbisiana Colla. Các nhà phân loại ở châu Á thấy rằng nếu theo Simmonds và Shepherd giới hạn 9 điểm (15 -23) là có thể chấp nhận đối với các loài trồng trọt xuât phát từ M.balbisiana Colla. Silayoi và Chomehalow (1987) [42] khi phân loại nguồn gốc cây chuối của Thái Lan đã thấy được sự Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng