PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Văn học Việt Nam sau 1975, ở mảng văn xuôi, xuất hiện khá nhiều
những tác phẩm mang hơi hướng của những truyện dân gian, truyện lịch sử và
truyền thuyết hiện đại… Tuy nhiên, đó không phải là sự kể lại hoặc diễn dịch
những câu chuyện cổ mà đằng sau lớp sương mù huyền ảo ấy, ta vẫn cảm nhận
thấy“màu sắc và tâm trạng của một thực tế hiện nay”[9,178]. Có thể vì lí do đó
mà nhiều tác phẩm trong hướng này được các nhà nghiên cứu đặt tên gọi là “giả
cổ tích”, “giả lịch sử”, “giả truyền thuyết”… Chúng tôi tạm gọi chúng bằng cái
tên chung là “cố sự tân biên”(truyện cũ viết lại) để khu biệt và thống nhất loại
truyện ngắn viết theo phong cách này. Sự hiện diện đầy hấp dẫn của chúng cho
thấy đã là đổi mới và cách tân văn học thực sự thì không nhất thiết cứ phải
“hướng ngoại" mà "hướng nội" cũng là một con đường đáng để lựa chọn.
1.2. Sự xuất hiện của loại truyện ngắn "cố sự tân biên" quả thực là hiện
tượng đáng chú ý. Những truyện ngắn này đã được nhắc tới trong nhiều công
trình, trong đó được quan tâm nhiều nhất là truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp.
Nhà nghiên cứu Đặng Anh Đào, qua việc theo dõi truyện ngắn cuối những năm
80 đã nhận ra sự phát triển của truyện “giả cổ tích”, “giả lịch sử” là một trong hai
“vệt sáng lan tỏa của bức tranh toàn cảnh”. Điều này gợi ý cho chúng tôi hướng
đi về việc xem xét truyện “cố sự tân biên” như một xu hướng của truyện ngắn
Việt Nam đương đại.
1.3. Hướng đi này ngay khi mới xuất hiện đã được nhiều cây bút hưởng
ứng cũng như sự đón nhận nhiệt tình của độc giả. Bản thân người viết rất thích
thú với những tác phẩm vừa quen vừa lạ của Nguyễn Huy Thiệp, Hòa Vang,
Trương Quốc Dũng... Qua thời gian, giá trị của tác phẩm và tài năng của tác giả
đã được khẳng định. Đã đến lúc cần một sự tìm hiểu toàn diện và sâu hơn về
loại truyện này, bởi vậy, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài Xu hướng “cố sự
tân biên” trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 nhằm tìm hiểu những truyện
1
ngắn "cố sự tân biên" như một hướng đi nổi bật và có ý nghĩa đổi mới của
truyện ngắn Việt Nam sau 1975.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Việc “viết lại” trong truyện ngắn
Trong bài viết Hiện tượng truyện cũ viết lại trong văn học Trung Quốc
hiện đại( Lê Thị Dương),www.phongdiep.net, tác giả đã có những lí giải và
xem xét hiện tượng truyện viết của văn học hiện đại Trung Quốc dựa trên lí
thuyết liên văn bản Julia Kristeva đề xuất. Theo tác giả, “viết lại vốn là hiện
tượng văn học rất phổ biến trong lịch sử. Hiểu đơn giản, đây là loại hình sáng
tác- một phương thức cải biến các tác phẩm văn học đã có từ trước” [6]. Cùng
với việc cung cấp một số tên gọi cho hiện tượng truyện cũ viết lại tác giả khẳng
định hiện tượng truyện cũ viết lại trong văn học Trung Quốc hiện đại là một
dạng liên văn bản xét với những tác phẩm hết sức thành công: Hồng lâu mộng,
Tân hồng lâu mộng, Đại Ngọc truyện, Án mạng lầu hồng, Tân tây du kí…
Tác giả Nguyễn Đăng Na, khi nghiên cứu xu hướng phát triển của văn
xuôi tự sự Trung đại Việt Nam thời trung đại đã cho rằng có ba xu hướng
chính: dân gian, lịch sử và thế tục (Con đường giải mã văn học trung đại
Việt Nam, Nxb Giáo dục, 2007). Ngoài xu hướng thế tục viết về các truyện
đời thường còn hai xu hướng còn lại đều sử dụng phương thức sưu tầm, ghi
chép, cải biên… là chủ yếu. Ví như Lĩnh Nam chích quái lục (Trần Thế
Pháp) kể về nguồn gốc, phong tục tập quán của nước ta từ xa xưa đã được
rất nhiều các tác giả đời sau chỉnh lí, cải biên lại: Vũ Quỳnh chia quyển, cải
biên vài ba chi tiết ,đổi tên là Lĩnh Nam chích quái liệt truyện; Đoàn Vĩnh
Phúc bổ sung thêm một số truyện và cải tên thành Lĩnh Nam chích quái
lục; đến thế kỉ XVIII, Quế Am đã chương hồi hóa Lĩnh Nam chích quái
liệt truyện và đổi tên thành Tân đính Lĩnh Nam chích quái liệt truyện…
Như vậy, cũng là viết lại, song hầu hết các tác phẩm văn học trung đại Việt
Nam đều chỉ nhằm ghi chép lại, yếu tố tân biên cũng chỉ là sự bổ sung, diễn
dịch lại câu chuyện sao cho phù hợp với quan điêm người viết.
2
Tác giả Lê Huy Bắc khi viết Truyện ngắn Việt Nam cổ - trung đại (từ
thượng cổ đến thế kỉ XIX) trong Truyện ngắn: lí luận tác gia và tác phẩm,
tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2005 cũng đồng tình với tác giả Nguyễn Đăng
Na, nhà nghiên cứu đã cho rằng có một mạch nguồn viết lại trong văn học cổ
- trung đại Việt Nam. Song, đặc trưng của văn học thời kì này là các tác giả
đều giới hạn việc sáng tác của mình vào phạm vi kể lại hoặc ghi chép, các tập
truyện có nhiều người tham gia sửa chữa, thêm bớt. “Vì thế văn xuôi trung
đại hầu như không được ghi nhận ở góc độ cá nhân mà được quan niệm như
thể là các truyện dân gian và bất kì ai cũng có thể thể nghiệm phong cách
của mình trên chất liệu ấy…Do vậy, hiện tượng kể lại, bổ sung này… thực sự
không góp phần thúc đẩy truyện ngắn phát triển mạnh hơn”[3,110]. Như
vậy, trong văn học Việt Nam, hiện tượng viết lại truyện cũ đã xuất hiện từ lâu
song phải đến thời kì đổi mới nó mới thực sự được chú ý và quan tâm, sử
dụng đúng mức và hiệu quả.
2.2. Hiện tượng “cố sự tân biên” trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975
PGS Đặng Anh Đào là một trong những nhà nghiên cứu quan tâm nhất
tới xu hướng “truyện cũ viết lại” này trong văn học Việt Nam. Bà là người
đầu tiên đưa ra khái niệm truyện “giả cổ tích” như là một thể loại trong sự
phân loại cùng với “giả lịch sử”, “giả ngụ ngôn”... và trong sự đối sánh với
cổ tích, truyện lịch sử (Đặng Anh Đào, Biển không có thủy thần- Tài năng
và người thưởng thức,Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 2001). Bà
còn nghiên cứu truyện theo xu hướng viết lại này trong mối liên hệ với một
số đặc điểm nghệ thuật như nguyên tắc đa âm trong văn xuôi (Từ nguyên tắc
đa âm tới một số hiện tượng văn học Việt Nam, Tạp chí văn học, số 6,
1990), hình thức nhại (Một hiện tượng mới trong hình thức kể chuyện hiện
nay,Tạp chí văn học,số 6,1991), trong mối liên hệ về hình thức kể chuyện với
văn học dân gian (Âm hưởng văn học truyền miệng trong nghệ thuật kể
chuyện Việt Nam, www.vienvanhoc.org.vn). Ở bài Một hiện tượng mới
trong hình thức kể chuyện hiện nay, bà đã lưu ý người đọc về tính chất
3
grotexco (nghịch dị) trong "phong cách viết của những "truyện cũ viết lai".
Rõ ràng, bà đã công nhận có một xu hướng viết những truyện theo cách "cố
sự tân biên" và còn khẳng định sự độc đáo trong phong cách viết của loại
hình này. Những nghiên cứu của PGS Đặng Anh Đào có ý nghĩa mở đường
cho việc nghiên cứu những truyện ngắn có hình thức viết lại này trở thành
một xu hướng đặc biệt của truyện ngắn Việt Nam sau 1975.
Bài viết Về một số phương thức xử lý vật liệu "chuyện xưa tích cũ"
trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại, www.hoinhavanvietnam.vn của tác
giả Nguyễn Thị Minh Tâm là lời gợi ý gần gũi và thiết thực cho người viết
trong việc triển khai những nhận diện về truyện ngắn "cố sự tân biên" trong
sự so sánh với nguyên mẫu là cốt truyện, nhân vật và thủ pháp nghệ thuật.
Luận án PTS KH Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Việt Nam
giai đoạn 1975 – 1995, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, 1995
của tác giả Lê Thị Hường đã nghiên cứu truyện ngắn tương đối toàn diện cả
về mặt hình thức. Tác giả tuy không nhắc tới xu hướng "cố sự tân biên"
nhưng trong công trình của mình đều thừa nhận có một hình thức truyện ngắn
đáng chú ý là những truyện "giả cổ tích", "giả lịch sử"…, thậm chí tác giả
còn dừng lại so sánh và phân tích sự giống và khác nhau giữa cổ tích dân
gian và truyện “giả cổ tích”. Đồng thời, khi xem xét vấn đề cốt truyện của
truyện ngắn, tác giả cũng nhận ra một số tác phẩm bắt chước cách kể chuyện
theo lối chương hồi của tiểu thuyết cổ điển. Như vậy, dù chưa nói tới một xu
hướng "cố sự tân biên" trong văn học nhưng ít nhiều tác giả đã thừa nhận và
quan tâm tới thể loại truyện ngắn theo hình thức phỏng nhại - một hình thức
phổ biến nhất của truyện ngắn "cố sự tân biên".
Bùi Thị Thanh Truyền là tác giả dành nhiều sự quan tâm tới những
truyện có xu hướng viết lại từ dân gian này, trong đó bài Song đề truyền
thống – hiện đại trong điểm nhìn nghệ thuật của truyện giả cổ tích và
truyện cũ viết lại thời đổi mới (Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 2, 2008) thể
hiện sự đồng cảm lớn nhất với chúng tôi. Tuy chưa thừa nhận truyện cũ viết
4
lại như là một xu hướng của truyện ngắn nhưng tác giả đã gọi đó là "các
truyện ngắn theo phong cách "giả cổ tích" và "truyện cũ viết lại". Dừng lại ở
điểm chung trong điểm nhìn trần thuật, bước đầu tác giả đã thừa nhận điểm
chung trong hai nhóm truyện này là "sự kết hợp tương đối hài hòa giữa hai
mặt cổ xưa và mới mẻ trong điểm nhìn nghệ thuật song hành với khát vọng,
nỗ lực đổi mới văn học của nhà văn"[45,26].
Tác giả Lê Huy Bắc trong chương hai của Truyện ngắn lí luận, tác gia và
tác phẩm, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2005 có bài viết Truyện ngắn nhại đã
coi nhại là hình thức kể chuyện của truyện ngắn và tác giả dùng những sáng tác
của Nguyễn Huy Thiệp để tìm hiểu hình thức trần thuật trên. Bài viết đi sâu phân
tích những biểu hiện của kĩ thuật nhại trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp,
kể cả về nội dung, hành động nhân vật và nghệ thuật của truyện. Như vậy, ít
nhiều, hình thức kể chuyện của truyện ngắn "cố sự tân biên" đã được quan tâm và
khẳng định yếu tố mới mẻ của loại truyện này.
Cũng quan tâm tới những truyện ngắn theo xu hướng viết lại này,
nhưng tác giả Trần Lê Bảo chú ý tới những truyện mang âm hưởng truyện
truyền kì, nhà nghiên cứu đã gọi chúng là Liêu trai Việt Nam hiện đại (Văn
học Việt Nam sau 1975 những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo
dục, Hà Nội, 2006). Tác giả đã tìm hiểu khá chi tiết những biểu hiện cũng
như giá trị nội dung, nghệ thuật của loại truyện này. Dù chỉ nghiên cứu một
loại trong xu hướng chung nhưng bài viết đã có nhiều gợi mở về nội dung
cũng như phương pháp tiếp cận hình thức truyện ngắn độc đáo này.
Trên đây là những công trình có ảnh hưởng trực tiếp tới người viết
trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Phần đông các công
trình khác đều công nhận truyện ngắn "cố sự tân biên" với những loại
riêng: giả cổ tích, giả lịch sử, giả ngụ ngôn… như một loại truyện có đóng
góp tích cực trong việc đổi mới quan niệm nhận thức về hiện thực, con
người và bút pháp nghệ thuật trong văn học Việt Nam sau 1975 như trong
Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại từ sau 1975, Phùng
5
Hữu Hải, www.evan.vnexpress.net , 2006; công trình Văn xuôi Việt Nam
1975-1995 những đổi mới cơ bản, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007 của PGS.TS
Nguyễn Thị Bình đã tìm hiểu những bước đi của văn xuôi có tính chuyên sâu.
Tác giả đã đánh giá và lí giải rất thuyết phục mối quan hệ từ sự thay đổi quan
niệm của nhà văn dẫn tới những thay đổi tất yếu và tương ứng trong hệ thống
quan niệm về con người và nghệ thuật trần thuật của văn xuôi Việt Nam giai
đoạn 1975- 1995. Chuyên luận gợi ý phương pháp cũng như kiến thức cho
chúng tôi trong quá trình nghiên cứu, nhận diện và đánh giá truyện ngắn "cố
sự tân biên" trong văn học Việt Nam sau 1975.
Một số bài nghiên cứu khác chủ yếu tìm hiểu trong truyện ngắn của
Nguyễn Huy Thiệp: Đoàn Hương gọi chùm truyện ngắn Những ngọn gió
Hua Tát, Con gái thủy thần... là “cổ tích hiện đại”(Đoàn Hương, Người kể
chuyện cổ tích hiện đại, Nxb Văn học, Hà Nội, 2004), Lã Nguyên nhận
thấy dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại trong sáng tác của Nguyễn Huy
Thiệp và Phạm Thị Hoài (Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại
trong văn học Việt Nam qua sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm
Thị Hoài, www.vienvanhoc.org.vn)… Tuy chưa đánh giá một cách toàn diện
những truyện ngắn viết lại như chúng tôi đã đặt tên nhưng những bài viết này đã
thừa nhận có một mạch nguồn cố sự, dân gian trong những sáng tác văn học hiện
đại. Chúng có ý nghĩa gợi mở cho người viết trong quá trình nghiên cứu khi đặt
những hiện tượng rời này vào trong một xu hướng chung - xu hướng viết lại.
Như vậy, các truyện ngắn "cố sự tân biên" đã được giới nghiên cứu hết
sức quan tâm trong thời kì vừa qua. Sự xuất hiện của loại truyện này như là
một dấu hiệu đổi mới trong việc cách tân nghệ thuật. Không ít những bài viết
bàn về những truyện "viết lại" nhưng hầu như có không có nhiều bài viết đặt
chúng trong mối liên hệ và một phong cách chung. Song, tất cả những ý kiến,
nhận định trên sẽ là những gợi ý hết sức quan trọng cho chúng tôi trong quá
trình thực hiện đề tài.
6
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Lựa chọn đề tài này, người viết muốn tìm hiểu và đánh giá một hiện
tượng lý thú của truyện ngắn Việt Nam sau 1975- truyện ngắn "cố sự tân
biên" , thông qua đó, khẳng định tinh thần đổi mới cũng như sự thành công
của các nhà văn khi thử nghiệm những hình thức kể chuyện mới trong sự nỗ
lực để không lặp lại truyền thống.
Đối tượng nghiên cứu: Truyện ngắn "cố sự tân biên" - một thể loại
truyện ngắn được sáng tác dựa trên những nguyên mẫu của văn học truyền
thống nhưng thể hiện quan niệm và tinh thần của thời hiện đại.
Phạm vi nghiên cứu: những sáng tác truyện ngắn Việt Nam được sáng
tác và xuất bản từ sau 1975.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp miêu tả, thống kê, phân loại.
- Phương pháp đối chiếu, so sánh
- Phương pháp phân tích - tổng hợp.
5. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm 3 phần
- Phần I:
Mở đầu
- Phần II: Nội dung
- Phần III: Kết luận
Phần Nội dung được triển khai trên ba chương sau:
Chương I: Truyện ngắn "cố sự tân biên" trong xu thế phát triển của
văn xuôi Việt Nam sau 1975.
Chương II: “Cố sự tân biên” và sự đổi mới tư duy nghệ thuật văn xuôi
sau 1975
Chương III: Vài nét về nghệ thuật của xu hướng “cố sự tân biên”
trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975
7
PHẦN NỘI DUNG
Chương I
TRUYỆN NGẮN "CỐ SỰ TÂN BIÊN” TRONG SỰ PHÁT TRIỂN
CỦA VĂN XUÔI VIỆT NAM SAU 1975
1. Dân chủ hóa - xu hướng nổi bật trong văn xuôi Việt Nam sau 1975
Nhìn lại tiến trình phát triển của văn học Việt Nam thế kỉ XX, ta có thể
thấy ba xu hướng vận động chính. Từ đầu thế kỉ XX đến 1945, văn học vận
động theo hướng hiện đại hóa. Trong 30 năm tiếp theo, từ 1945 đến 1975, có
thể nói đại chúng hóa và cách mạng hóa là xu hướng vận động cơ bản của
nền văn học trong hoàn cảnh chiến tranh. Còn từ sau 1975, nhất là từ những
năm 80 trở đi, dân chủ hóa và nhân văn hóa là xu hướng gần như trở thành
dòng chủ lưu của nền văn học.
Xu hướng dân chủ hóa thực sự là động lực giúp cho văn học Việt Nam
tiếp tục phát triển. Cơ sở hình thành và phát triển của xu hướng này đã manh
nha từ những năm 1975 nhưng chúng chỉ thực sự bùng nổ và phát triển từ sau
Đại hội lần thứ VI của Đảng, với tinh thần "đổi mới tư duy, nhìn thẳng vào sự
thật". Trong nghị quyết của Đại hội có đoạn: “ Tự do sáng tạo là điều kiện
sống còn để tạo nên giá trị đích thực trong văn hóa văn nghệ và để phát triển
tài năng...Tác phẩm văn nghệ không vi phạm pháp luật (chống lại dân tộc,
chống lại CNXH, phá hoại hòa bình và không đồi trụy (truyền bá tội ác, sự
sa đọa, phá hoại nhân phẩm) đều có quyền được lưu hành và đặt dưới sự
đánh giá, phán xét của công luận và sự phê bình). Có thể xem đó là một
trong những cơ sở cho tư tưởng dân chủ phát triển. Dân chủ hóa đã thấm sâu
và đươc thể hiện ở nhiều cấp độ và bình diện của đời sống văn học. Về ý thức
nghệ thuật đã có những biến đổi quan trọng theo hướng dân chủ hóa các quan
niệm về vai trò, nhiệm vụ, chức năng của văn học, quan niệm về nhà văn và
quan niệm về hiện thực.
8
Mặt khác, xu hướng dân chủ hóa của văn học còn thâm nhập và biểu
hiện trên nhiều bình diện của sáng tác, từ hệ đề tài, kết cấu, motip chủ đề, cốt
truyện, nhân vật cho đến giọng điệu, đạt ngôn ngữ, nghệ thuật trần thuật. Âu
đó cũng là điều tất nhiên, vì bao giờ một hiện thực mới cũng đòi hỏi một cách
diễn đạt mới. Xu hướng dân chủ hóa đã đưa đến sự nở rộ các phong cách, bút
pháp, bộc lộ hết mình các cá tính sáng tạo của nhà văn cùng với việc tìm
kiếm, thử nghiệm nhiều hình thức và thủ pháp mới, kể cả tiếp thu và vận
dụng những yếu tố của các trường phái nghệ thuật phương Tây hiện đại. Có
thể kể tới Thiên sứ của Phạm Thị Hoài, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh,
Bước qua lời nguyền của Tạ Duy Anh…Tiêu biểu nhất trong số các tác
phẩm mang xu hướng đổi mới về cách tiếp cận hiện thực cũng như bút pháp
là Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Trước đây, khi viết về chiến tranh,
người cầm bút thường chú trọng khai thác khía cạnh tài năng của các nhà
lãnh đạo, khí thế của nhân dân tham gia chiến đấu, và nhà văn thường là
người đại diện cho một chiến tuyến, khẳng định chiến thắng và chính nghĩa
của đội ngũ mà mình theo. Bảo Ninh đã chọn một hướng tiếp cận khác, ông
quan tâm tới con người. Với ông cái còn lại sau mỗi cuộc chiến là những vết
thương không lành trong thể xác và tâm hồn con người. Tác giả sử dụng kĩ
thuật dòng ý thức để miêu tả cuộc sống nội tâm bên trong của con người theo
hình thức nội soi. Ở góc độ này, những góc khuất, bí mật của đời sống tiềm
thức của người lính sau chiến tranh khiến người đọc sửng sốt.
Nhưng, có một hướng đi khác trong việc thử nghiệm bút pháp nghệ
thuật của các văn xuôi Việt Nam sau 1975. Có rất nhiều tác phẩm, đặc biệt là
truyện ngắn trở về với truyền thống, vận dụng các yếu tố dân gian. Nó trở
thành một hiện tượng phổ biến và khá sôi nổi trong đời sống văn học. Đó là
sự xuất hiện của hàng loạt những truyện "giả cổ tích", "giả lịch sử", "giả liêu
trai"… với những tên tuổi nổi bật: Nguyễn Huy Thiệp(Những ngọn gió Hua
Tát, Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết), Hòa Vang(Nhân sứ, Sự tích những
ngày đẹp trời, Bụt mệt), Võ Thị Hảo(Hồn trinh nữ, Dây neo trần gian,
9
Vườn yêu,), Lê Đạt(Bài haiku, Lầu hạc vàng, Cây đàn long môn), Lê Minh
Hà (Châu Long, An Dương Vương). "Cố sự tân biên" là tên gọi chung mà
chúng tôi gọi cho những truyện ngắn viết theo hình thức này.
Việc chọn một hiện tượng văn học truyền thống để viết lại như thế ở
truyện “cố sự tân biên” không phải là một lựa chọn ngẫu hứng mà là lựa chọn
có căn cứ. Thứ nhất, do nội hàm truyện truyền thống rất phong phú về đề tài,
các truyện dân gian, sự thật lịch sử, các nhân vật nổi tiếng và các hình tượng
điển hình trong các tác phẩm kinh điển có những tư liệu phong phú về ý thức
thẩm mĩ và tâm lí văn hóa của dân tộc, nó chứa đựng những nội hàm văn hóa
sâu xa và là tiền đề cho các nhà văn sau này xây dựng các tác phẩm mới. Thứ
hai, đó là do có sự cộng hưởng tình cảm đặc biệt. Các truyện nguyên mẫu
thường là những câu chuyện nổi tiếng, được lưu truyền rộng rãi, nhiều người
biết tới nên những tác phẩm được viết lại từ các truyện cũ tác động rất lớn tới
thói quen thẩm mĩ của công chúng, khi đọc người đọc đều tìm thấy một sự
cộng hưởng riêng. Thứ ba, những truyện cũ có khả năng tạo không gian sáng
tạo rộng lớn. Sự mở rộng của đề tài gốc, sự phái sinh của chi tiết, sự phong
phú của tính cách nhân vật trong truyện cũ đã cung cấp không gian sáng tạo
rộng lớn cho việc “tân biên”. Và “tân biên” cũng chính là yếu tố quyết định
sự thành công của của văn bản mới.
2. Hiện tượng truyện ngắn "cố sự tân biên" trong văn xuôi Việt Nam
sau 1975
Văn xuôi Việt Nam sau 1975 có nhiều xu hướng vận động và phát
triển, một trong số đó là hướng trở về nguồn cội với các tác dân gian và lịch
sử của dân tộc. Để dễ khu vực phạm vi nghiên cứu chúng tôi mượn thuật ngữ
"cố sự tân biên" của văn học Trung Quốc để gọi những truyện ngắn theo xu
hướng này. Cố sự tân biên (Truyện cũ viết lại) là tên tác phẩm truyện ngắn
nổi tiếng của nhà văn Trung Quốc Lỗ Tấn. Truyện được xây dựng trên cơ sở
làm mới các truyền thuyết, thần thoại và lịch sử của Trung Quốc cổ đại để
phản ánh thực tại xã hội Trung Hoa thế kỉ XX. Thực ra đó là cách làm không
10
mới. Viết lại là hiện tượng rất phổ biến trong lịch sử văn học. Hiểu đơn giản
đó là cách sáng tạo tác phẩm văn học mới dựa trên phương thức cải biến các
văn bản đã có từ trước. Vận dụng các thủ pháp văn học xác định (vay mượn,
trích dẫn, nhại, bắt chước…) văn bản gốc cùng với xu hướng của tác giả sử
dụng văn bản gốc đó, việc viết lại các huyền thoại, truyền thuyết, lịch sử
được các tác giả thực hiện một cách rất có ý thức. Các tác giả thường sử dụng
các tác phẩm nổi tiếng để tiến hành cải biên, dùng cái nhìn hiện đại để thẩm
thị lại hình tượng nhân vật, tình tiết câu chuyện, và nội dung tư tưởng của tác
phẩm; tổ chức lại hình tượng nhân vật, tình tiết câu chuyện, nội dung tư
tưởng trong nguyên tác để phản ánh hiện thực cuộc sống đương đại, từ đó thể
hiện phương thức sáng tác mới. Hay nói cách khác, các tác giả đã dùng chính
truyền thống để phản tư truyền thống. Ở Trung Quốc, có nhiều thuật ngữ để
chỉ những sáng tác văn học theo hình thức viết lại, làm mới các truyện cũ này
như cố sự tân biên((((((, trùng tân cải biên((((((, cải biên((((,
cải tả ( ( ( ( , tái sáng tác ( ( ( ( ( … [6], trong số đó thì "cố sự tân biên"
(truyện cũ viết lại) là thuật ngữ được sử dụng phổ biến nhất. Hình thức này
trở thành hiện tượng rất đáng chú ý của văn học hiện đại Trung Quốc và đã
có nhiều tác phẩm thành công như Đại Ngọc truyện, Tân Hồng lâu mộng
(dựa trên nguyên tác Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần), Tân tây du kí của
Trần Cảnh Triều (dựa trên nguyên tác Tây du kí của Ngô Thừa Ân)… Các
tác giả không chỉ đã cải biên cốt truyện mà còn thay đổi cả hình thức thể loại
của tác phẩm cũ. Tác giả Ashibe Taku đã mượn bối cảnh của Hồng lâu
mộng để viết truyện trinh thám Án mạng lầu hồng, với những vụ giết người
hàng loạt, trong đó thập nhị kim thoa là nạn nhân còn Giả Bảo Ngọc biến
thành thám tử nghiệp dư. Điều thú vị là trong văn học Việt Nam sau 1975
cũng xuất hiện những tác phẩm mượn chuyện xưa để nói chuyện nay như
vậy. Trong bài viết này, chúng tôi mượn thuật ngữ “cố sự tân biên” cũng theo
tinh thần như trên nhằm xác định và tìm hiểu xu hướng đặc biệt đó của văn
học Việt Nam sau 1975. Vì vậy, cũng nằm trong mạch truyện cổ viết lại
11
nhưng một số tác phẩm như Ngựa thần từ đâu đến; Lửa vàng, lửa trắng;
Lửa vàng, lửa trắng, lửa nâu (Phạm Hổ), Một đời hoàng phái, Bạn cùng
trường, Nữ hoàng đảo yến (Ngô Văn Phú)… chúng tôi không xếp vào cùng
loại để khảo sát trong khuôn khổ luận văn này.
Truyện ngắn "cố sự tân biên" chiếm một số lượng không nhỏ trong các
sáng tác văn xuôi sau 1975. Một trong những tác giả đi tiên phong trong việc
sáng tác loại truyện này là Nguyễn Huy Thiệp với một loạt những truyện:
Con gái thủy thần, Những ngọn gió Hua Tát, Chảy đi sông ơi, Trương
Chi, Muối của rừng, Giọt máu, Kiếm sắc, Vàng lửa… ngay từ những ngày
đầu của thời kì đổi mới. Bên cạnh đó, có thể kể tới những tác giả nổi tiếng
với phong cách viết này như Hòa Vang (Sự tích những ngày đẹp trời, Nhân
sứ, Bụt mệt…), Võ Thị Haỏ (Dây neo trần gian, Vườn yêu, Hồn trinh nữ,
Khát của muôn đời, Nữ hoàng cô đơn, Tim vỡ…) và rất nhiều tác giả khác
ít nhiều ảnh hưởng: Chu Nam (Máu của thủy thần), Trương Quốc Dũng
(Đường Tăng), Lưu Sơn Minh (Bến trần gian, Miêu cẩm), Phạm Hải Vân
(Điếu cày, Hận hoa, Tinh chuột), Thái Bá Tân (Bướm trắng)…Thậm chí,
hình thức này còn được các nhà văn hải ngoại tìm đến như Trần Vũ( Buổi
sáng sinh phần, Mùa mưa gai sắc, Gia phả ) in trong tập Cái chết sau quá
khứ, xuất bản tại California năm 1992 và kéo dài đến những năm cuối của
thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI với các tác giả Lê Đạt(Tượng Balzac, Bài Haiku,
Lầu hạc vàng, Cây đàn Long môn, Con chuột) và Lê Minh Hà(Châu Long,
Ngày xưa, cô Tấm…, An Dương Vương, Tiếng trăng, Ới ơi dâu bể, Sơn
Tinh Thủy Tinh, Gióng). Như vậy, thời gian phát triển của loại truyện này
không quá dài nhưng thực sự nó đã trở thành hiện tượng rất đáng kể trong
văn xuôi Việt Nam sau 1975.
Truyện "cố sự tân biên" làm phong phú thêm cho các truyện thần thoại,
truyền thuyết, các câu chuyện vốn đã quen thuộc, cung cấp thêm tinh thần
hiện đại để làm nên những câu chuyện mới. Về cách viết loại này, văn bản
gốc, “cố sự” rất quan trọng. Tác giả phải nắm vững văn bản gốc trên cơ sở
12
triển khai hợp lí phần tưởng tượng thêm như tình tiết, tâm lí… Tuy nhiên, tác
giả lại không được quá lệ thuộc, nệ cổ đối với văn bản gốc. Cái đặc sắc của
những truyện theo lối viết lại này chính là phần thêm thắt, sáng tạo, tưởng
tượng của nhà văn. Người đọc chỉ có hứng thú khi tìm ra những điểm mới,
những điều không có trong những tác phẩm mà họ đã biết trước. Như vậy,
cách viết mới này đòi hỏi không chỉ người viết mà cả người đọc một trình độ
tri thức và văn hóa nhất định. Tuy không quá nệ cổ nhưng tác giả khi viết
truyện cũng không thể tùy tiện phóng bút, xa rời chủ đề sốc mà phải có sự
liên kết giữa các chủ đề nội dung với nhau. Điều đó khiến các truyện cổ viết
lại vừa có âm hưởng hồi cố lại vừa có sự hướng vọng về thực tại. Khi sáng
tạo lại, đồng thời tác giả phải đặt tác phẩm trong không gian văn hóa khác,
đưa thêm những nghĩa mới nên tác phẩm được đọc khác đi không chỉ là do
khung cảnh văn hóa mới mà còn là do những sáng tạo riêng. Do đó, câu
chuyện có thể cũ song luôn mang ý nghĩa của thời đại, văn bản có thể bị lặp
lại song ý nghĩa thì không thể lặp lại. Cũng vì truyện có ảnh hưởng rất lớn
của yếu tố truyền thống và hiện đại mà người đọc cảm thấy chúng vừa gần
gũi lại vừa mới mẻ, hấp dẫn.
Sáng tạo truyện ngắn "cố sự tân biên" dù rằng quan niệm về truyện khá
đơn giản: sử dụng những tác phẩm cũ để tiến hành cải biên để đánh giá lại
nội dung tư tưởng, hình tượng nhân vật… song cái khó của loại truyện này
không chỉ ở nội dung ý tưởng mà còn ở phần “tân biên”, tức là vấn đề viết
mới như thế nào. Điều này được các nhà văn hết sức quan tâm. Viết lại bao
gồm các hình thức: viết lại ((((, viết thu gọn (((), viết mở rộng (((), trích
dẫn, vay mượn [6]. Tùy từng ý tưởng mà các tác giả lựa chọn hình thức khác
nhau. Châu Long, An Dương Vương, Gióng (Lê Minh Hà) là viết lại truyền
thuyết. Phẩm tiết, Vàng lửa, Kiếm sắc, Nguyễn Thị Lộ (Nguyễn Huy Thiệp)
là vay mượn sự kiện, nhân vật lịch sử. Tuy nhiên, đa phần các truyện khi
được "tân biên", các nhà văn đều chú trọng viết mở rộng với văn bản gốc.
Bởi khi viết mở rộng (((), người viết có thể phát huy trí tưởng tượng của bản
13
thân, làm cho các tình tiết sinh động, phong phú hơn, song không tách rời
khỏi nội dung hạt nhân của văn bản gốc. Sự tích những ngày đẹp trời (Hòa
Vang ), Sơn Tinh – Thủy Tinh, Tiếng trăng (Lê Minh Hà) Trương Chi,
Con gái thủy thần (Nguyễn Huy Thiệp)…đều là viết mở rộng. Trong văn
học Việt Nam sau 1975, xu hướng "cố sự tân biên" không chỉ là sự cải biên,
vay mượn nội dung, cốt truyện đã có sẵn mà các tác giả còn vay mượn hình
thức kể chuyện. Các tác giả đã "tân biên" truyện cũ cả trên phương diện nội
dung cũng như hình thức thể loại. Những ngọn gió Hua Tát, Con gái thủy
thần (Nguyễn Huy Thiệp), Tim vỡ, Nàng tiên xanh xao, Hồn trinh nữ,
Khát của muôn đời (Võ Thị Hảo) là mượn motip và hình thức kể chuyện của
truyện cổ tích. Bến trần gian (Lưu Sơn Minh), Điếu cày, Hận hoa, Tinh
chuột (Phạm Hải Văn) là mượn cách kể chuyện của truyện truyền kì trung
đại Việt Nam. Đường tăng (Trương Quốc Dũng), Hoa đại trắng (Đức Ban),
Thợ may (Phạm Hải Văn) là mô phỏng kết cấu của truyện ngụ ngôn. Giọt
máu, Cún (Nguyễn Huy Thiệp ), Nhân sứ (Hòa Vang ) là mượn hình thức
của tiểu thuyết chương hồi… Phần "tân biên" đã vừa làm mới nội dung câu
truyện cũ lại vừa làm mới những hình thức kể chuyện cũ, cung cấp cho
những truyện cổ dáng dấp hiện đại đồng thời chúng vẫn có âm hưởng truyền
thống trong kết cấu, cốt truyện. Tất nhiên, truyện cổ viết lại ở thời kỳ này đã
có sự phát triển khá dài so với văn bản gốc và thể loại gốc. Sự ra đời và phát
triển của chúng đã góp phần vào quá trình đổi mới văn học, đưa ra cách tân
trong việc sáng tạo và tiếp nhận tác phẩm văn học. Kết cấu mới gợi lên
không khí rất khác biệt, tạo nên ranh giới giữa truyện cổ viết lại với truyện
dân gian, lịch sử.
Một trong những cách các tác giả sử dụng tương đối phổ biến khi “tân
biên” là giữ nguyên cốt truyện cũ, sau đó gia cố thêm bằng các chi tiết mới
như nhân vật, diễn biến câu chuyện. Một số truyện được tái hiện trong truyện
ngắn đương đại với cốt truyện không thay đổi nhưng không phải tác giả kể
lại, thuật lại y nguyên câu chuyện mà đã được tác giả bổ sung thêm một số
14
chi tiết làm cho câu truyện vừa mang cảm giác cổ xưa, vừa mang cảm giác
hiện đại. Trong truyện Trương Chi (Nguyễn Huy Thiệp), không phải là một
Trương Chi hát hay, đàn giỏi như trong sự hình dung xưa nay mà là một
Trương Chi thậm xấu (được biết qua lời đề từ), giọng hát “làm bồng bềnh
sông nước”, tính cách mạnh mẽ qua hành động tâm trạng: “trật quần đái vọt
xuống dòng sông”, “buồn da diết”, văng tục… Nhân vật được đời thường
hóa: đói, chửi bới, kiếm ăn. Nhân vật chết sau khi hát bài hát ca ngợi tình
yêu. Ngoài ra, chúng tôi thấy trong các tác phẩm của Lê Đạt có rất nhiều
truyện được viết theo cách thức này. Bài Hai ku nói về cuộc gặp gỡ giữa
Tướng quân Yođa và nhà thơ Basô là có thật nhưng cuộc đối thoại giữa họ
cùng những chi tiết như Basô nợ tiền rượu, “mặt như một nông phu”, uống
trà như “phường ngưu ẩm”, một Basô sỗ sàng, dung tục, hồn nhiên đến quá
mức thì lại mang nhiều nét hư cấu. Cùng một cách thức như thế một loạt các
tác phẩm khác như: Lầu Hạc Vàng. Bữa tiệc Flaubert, Bức tranh có ma,
Hèn đại nhân đều có những yếu tố thật. Tác giả đã giữ nguyên những sự
kiện cơ bản về nhân vật. Câu chuyện về lầu Hoàng Hạc với hai bài thơ của
Thôi Hiệu và Lý Bạch là có thật còn cuộc thi thơ được tác giả nói đến không
phải để so sánh tài năng mà là sự mời gọi người đọc cùng tác giả Lê Đạt trải
nghiệm về quá trình tự giải phóng mình của Thôi Hiệu, nhà thơ bị chính bài
thơ Hoàng Hạc lâu của mình cầm tù trong danh tiếng và không thể sáng tác
được áng văn nào vượt trội hơn. Flaubert viết với với những trang viết nhập
thần là có thật. Cuộc đời của nhà văn Balzac và hoạ sỹ Van Gogh đã từng
diễn ra đúng như tác giả nói. Nhưng những chi tiết khác thì đều được tác giả
làm mới thêm, qua việc tìm hiểu những chi tiết đó đã giúp chúng ta vừa tìm
ra được những bức thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm. Truyện Cây đàn
Long Môn, nhắc đến mối tình tri âm giữa Bá Nha và Tử Kỳ cùng tiếng đàn
huyền thoại. Đồng thời, tác giả bổ sung thêm một loạt chi tiết mới về cuộc
sống riêng tư của Bá Nha cũng như sự tái xuất của tiếng đàn một cách đầy
dụng ý nghệ thuật. Bằng cách giữ nguyên các sự kiện chính liên quan đến
15
nhân vật với những điều chân thực từ hoàn cảnh xuất thân, đến quá trình
tưởng thành, nhưng sự nghiệp của họ theo đuổi và cả cách kết thúc cuộc đời
của họ, Lê Đạt đã tạo cho người tiếp nhận tin tưởng vào câu chuyện mình
đang kể. Độ tin cậy cao hơn, những chi tiết dù được làm mới, cho thêm vào
cũng làm cho nó trở thành cũ xưa nhưng khác chăng là nhờ ở giọng điệu,
ngôn ngữ của nhân vật. Nếu như tác giả trong truyện cổ ít biểu cảm, thiên về
miêu tả và nhân vật chỉ được miêu tả hành động không có diễn biến nội tâm,
nếu có thì cũng mang tính chung chung thì trong các truyện "viết lại" này
cũng là các nhân vật không chỉ được chú ý miêu tả nội tâm mà còn có nhiều
lời đối thoại thậm chí độc thoại: "Mặc dù nhà thơ đã hết lời nói khó với tên
tiểu nhị và cam đoan rằng khi gặp người bạn là Vương tri phủ đang nhậm
chức tại đây sẽ cho người đến thanh toán gấp đôi, ông cũng không lay
chuyển được lập trường sắt đá của tên hầu bàn. Cũng chẳng nên trách nó.
Đời thiếu gì kẻ ăn quỵt mặt mũi còn phương phi, ăn vận còn bảnh bao hơn
Thôi Hiệu. Lý luận của nó rất đơn giản: "Ngài đã ăn thì phải trả tiền, không
có tiền thì gửi khăn áo ở lại". Và nói đi đôi với làm, nó sấn tới định lột luôn
áo nhà thơ"[11,114]. Những lời của nhân vật cũng không còn vẻ chung
chung nữa mà mang tính cá nhân rõ rệt, Lý tuần phủ nghe lũ trung gian nói
nhiều quá tới tên của Vương Họa lâu dần cũng sinh nghi: "Hay hắn bịa ra
cái trò Họa Vương ấy để xấc xược thật. Chẳng lẽ hắn dám nói toẹt ra là Họa
Vương nên mới trí trá ra như thế. Ngón xảo ngôn ấy ta còn lạ gì. Nhưng thôi,
có dung kẻ dưới mới là bề trên". Lời nói của Lý tuần phủ thể hiện thái độ kẻ
cả, khinh khi của mình đối với người họa sĩ kia, những tưởng là khập khiễng
nhưng hoàn toàn phù hợp. Nhờ những lời phát ngôn đó mà các nhân vật được
bộc lộ hết những nỗi niềm của một con người với đầy đủ quyền lợi được có.
Và cũng chính nhằm và những chi tiết được thêm vào và lời nói mang tính
hiện đại của nhân vật mà tác giả thể hiện những ý tưởng nghệ thuật của mình.
Sự kín đáo đó của tác giả vừa đồng thời thể hiện được tài năng sáng tạo của
mình trong bối cảnh văn học có sự phát triển mạnh mẽ chấp nhận, khuyến
16
khích các hình thức cách tân, chấp nhận sự đa nghĩa và khẳng định bản sắc
phong cách riêng của từng nhà văn. Mỗi nhà văn cần tạo ra một giọng điệu
phong cách riêng lại vừa khẳng định được tài năng của mình thì mới không bị
thời gian xoá nhoà.
Hình thức mượn xưa để nói nay đã có tính truyền thống từ trước, nay
được phát triển cao hơn nữa, để nhằm chuyên chở những thông điệp đánh
giá không tiện nói ra trực tiếp nên mượn vỏ bọc của chuyện xưa, người cũ,
như vậy vừa hiệu quả, vừa ít bị bắt bẻ. Ngoài hình thức làm mới cốt truyện cũ
thì truyện ngắn viết lại còn sử dụng một hình thức khác là viết tiếp kết thúc
của các truyện cổ. Khi truyện ngắn Sự tích những ngày đẹp trời và truyện
Nhân sứ của tác giả Hoà Vang ra đời, dư luận khá xôn xao. Những lời khen
chê đều có cả. Nhưng không ai có thể phủ nhận sự mới mẻ của tác phẩm.
Đây là hai truyện ngắn được Hoà Vang viết theo hình thức viết thêm phần
hậu truyện của những câu chuyện đã định hình trong lòng độc giả. Xưa nay
chúng ta vẫn quen với những kết thúc đóng và có hậu của truyện cổ tích, ở đó
cái thiện được bù đắp, cái ác bị trừng trị, người “ở hiền gặp lành” kẻ “gieo
gió thì gặp bão”. Chúng ta tưởng như thế là kết thúc thoả đáng rồi. Nhưng
không, Hoà Vang đã là người đi tiếp, kể cho ta nghe những điều vẫn còn tiếp
diễn. Cũng vẫn là nhân vật trong truyện xưa nhưng nếu ở trong truyện của Lê
Đạt thường là nhắc lại về cuộc đời của các nhân vật và viết thêm tạo cho
người đọc một sự hình dung khác đi về nhân vật nhưng truyện của Hòa Vang
thì lại như là những vui buồn của người diễn viên sau cánh gà khi đã diễn
xuất những gì người xem yêu cầu. Truyện Sự tích những ngày đẹp trời nói
về Mị Nương - nàng công chúa xưa nay ta vẫn hình dung là hiền thục, thật
thà, xinh đẹp đã hạnh phúc hài lòng khi theo Sơn Tinh về núi Tản Viên bỏ lại
Thủy Tinh thất bại, căm hận, dâng nước trả thù. Chúng ta quen ngợi ca Sơn
Tinh và nguyền rủa Thuỷ Tinh, kẻ thất bại, kẻ độc ác, kẻ xấu xa. Và chúng ta
quên đi một điều hãy đối xử thật công bằng để xem xét lại mọi việc, khi xét
lại mọi việc mới thấy Thủy Tinh quả bị oan. Chàng là một người có tình cảm
17
sâu nặng nhưng do vua Hùng "trọng việc hơn trọng tình" nên đã phải chịu
thua Sơn Tinh. Và ngày đẹp trời xuất hiện, đó là khi tâm hồn con người hòa
hợp trong thế giới tình cảm, là khi Mị Nương vượt thoát khỏi sự u huyền,
trầm mặc của núi để đến với biển cả bao la, vượt thoát khỏi những thiên kiến
và thói quen suy nghĩ như “những triền đê che chắn bình yên một thời nhưng
cũng che khuất mắt một thời”[47] để đón nhận những cảm nhận mới mẻ.
Trong truyện này tác giả không nói nhiều mà để cho nhân vật tự bộc lộ và
được giãi bày những lời nói của nhân vật như là lời của những con người
hiện đại với ý thức cá nhân cao, phát ngôn để tự bào chữa cho mình: " Bây
giờ thì tôi đã từ bỏ tất cả. Tôi đã quyết trả lại ngôi Chúa Biển. Tôi về đây, cố
hướng mãi, cố nhỏ bé mãi con người mình đi tìm được tận đến suối nguồn
này, hy vọng gặp em. Và... duyên phận đã cho tôi... Em đây rồi. Tôi đã được
nói hết lòng mình, những lời phải nén sâu chôn chặt bao năm, riêng em...
Thế là hết, tôi chả còn gì để nói nữa, để mong nữa. Tôi chẳng biết mình sẽ
làm gì bây giờ. Chỉ biết rằng chưa chắc tôi đã có thể trở nên có ích hơn,
nhưng sẽ được sống thanh thản hơn, nhẹ nhõm hơn. Lại biết đến bao giờ,
đến bao giờ nữa, tôi mới có thể gặp lại em... "[47]. Tuy là phần hậu truyện
nhưng lại có mối liên hệ khớp với phần truyện chúng ta thường nghe. Ở đây
vừa là cái nhìn mới mẻ của nhà văn cũng là sự đánh giá của người hiện
đại về những truyện đã qua. Cách lật ngược lại vấn đề như vậy chính là một
nét đặc sắc của các sáng tác văn học ngày nay.
Ngoài ra, còn có nhiều truyện ngắn khác cũng được viết theo dạng này
như Đường Tăng của Trương Quốc Dũng. Bốn thầy trò Đường Tăng đã trải
qua bao gian nan vất vả để đi Tây Trúc thỉnh kinh mong tu thành chính quả,
thế nhưng sau khi nhiệm vụ hoàn thành bốn thầy trò được ban cho thoát khỏi
chốn dương trần về với cõi Phật, đêm cuối cùng làm người, Đường Tăng
không ngủ được. Tác giả làm cho người đọc sửng sốt khi Đường Tăng tỏ ra
băn khoăn về sự lựa chọn của mình, nghi ngờ chân lý mình theo đuổi "Ta
ước gì đêm nay đừng sáng. Ta đau đớn cho mười mấy năm viễn du. Ngộ
18
Không ơi! Một đời con mong được thành người thì bị ép theo ta để thành
Phật. Bát Giới tự dối mình giác ngộ thực ra chỉ là đi tìm một chốn hoang lạc
mới. Sa Tăng rời cõi u mê này sang cõi hoang tưởng khác mà lại hi vọng
khai sáng. Còn ta? Không còn là người không phải là người thì làm sao
đồng cảm mà đòi khai sáng, cứu vớt con người ". Nhưng đã quá muộn. Phần
hậu truyện đầy yếu tố triết lí giúp chúng ta nhận ra rõ “đạo” không ở đâu xa
mà ở ngay trong mỗi chúng ta, và con người ta, thường chạy theo những giá
trị bên ngoài mà quên đi chính bản thân mình. Truyện Nhân sứ (Hoà Vang)
cũng viết về việc bốn thầy trò Đường Tăng đã tu đắc đạo đã thành chính quả
nhưng lại luôn chờ đến kiếp làm người và muốn được làm người như Sa
Tăng. Việc tu luyện vượt qua thử thách trở nên vô nghĩa khi họ nhận ra ý
nghĩa đích thực của cuộc sống không phải ở ước vọng lên tiên mà là được
sống đúng với ý nghĩa cuộc sống của một con người "làm một người thường
chài lưới trên sông nước, chiều chiều thổi một ống tiêu, nhấp một ngụm
rượu, nướng con cá nhỏ và đợi một người đàn bà, lấy vợ sinh con"[31,318].
Các truyện Châu Long, Ngày xưa cô Tấm, An Dương Vương (Lê Minh Hà)
đều được viết theo cách thức này. Truyện Châu Long đã lần đầu tiên đưa
Châu Long - người phụ nữ vĩ đại chưa từng được nói đến - xuất hiện trong
văn học. Tình bạn của Lưu Bình và Dương Lễ đã trở thành giai thoại, để
người đời sau hết lời ca ngợi nhưng lại không ai biết rằng có được tình bạn
cao cả đó, đã có một người phụ nữ hi sinh cuộc đời của mình. Tác giả đã
nhìn ra sự thiệt thòi của Châu Long, vì thế mà ở cuối truyện nàng đã
được nâng lên đúng tầm và hai người đàn ông mà nàng đã vì họ
quên mình bị hạ bệ. Ở đây tác giả đã nói thay cho những cơ cực,thiệt
thòi của Châu Long. Nàng lấy chồng, không được chăm sóc cho chồng,
mà được chồng cho đi chăm sóc bạn của chồng. Tay nàng vun vén,
vỗ về giúp người ấy đỗ đạt vinh quy bái tổ. Nàng chẳng được hưởng
niềm vui đó mà phải trở về theo lời chồng dặn. Sau hơn mười năm
xa cách, chăn đơn gối chiếc, trái tim của nàng đã lạnh giá, lại bị
19
chồng ngờ vực và lạnh lùng. Suốt quãng đời còn lại nàng sống trọng
lặng lẽ và giá băng. Đó chính là phần sau của một câu chuyện có hậu.
Dù viết tiếp, nhưng truyện không bị lặp lại mà còn tạo ra những giá trị
mới qua sự nhìn nhận và đánh giá của con người hiện đại về những
nhân vật đã “im lặng” trong truyện xưa từng được ca ngợi. Trước đó
các nhân vật chỉ được nhìn một chiều, hành động theo chức năng thì
nay trong phần hậu truyện này được nhìn ở nhiếu góc cạnh khác nhau,
từ đó tái hiện được mọi biểu hiện của tâm trạng nhân vật, hoặc nói
cách khác nhân vật được sống trong thời hiện đại với sự đa giọng điệu
và hình ảnh con người cá nhân được bộc lộ rõ ràng tự nhiên nhất,
được nói lên tiếng nói của lòng mình với những tâm sự khát khao
chân thật, mãnh liệt của một con người chứ không phải nói thay cho
một người nào khác . Phần hậu truyện này, các tác phẩm truyện
cũ được đánh giá lại nhìn nhận lại dưới góc độ mới, một thế giới quan
mới, tạo ra những giá trị đạo đức mới đồng thời làm cho chúng ta
thay đổi cách nhìn một chiều và tự rút ra những nhận thức mới. Mặc
dù sử dụng cách viết thêm phần hậu truyện, nhưng chúng ta thấy các
tác giả vẫn luôn tạo ra sự gắn kết mà người đọc khi tiếp nhận sẽ liên
tưởng đến hình ảnh số phận của nhân vật trong cốt truyện cũ, từ sự
liên tưởng đó mà phát hiện ra những điều mới mẻ. Nhân vật vẫn
mang dáng vẻ xưa nhưng tâm tính đã thay đổi, có cả những nhân vật
trung tâm và những nhân vật chưa từng được nói đến, nay được bộc
lộ những nỗi niềm sâu kín. Những nhân vật cổ được tạo cho một
giọng điệu của con người hiện đại, có diễn biến nội tâm, có ý thức rõ
về con người cá nhân của mình, có những hành động vì bản thân chứ
không phải theo chức năng như trước. Những nhân vật có cái tên của
truyện cũ nhưng sống suy nghĩ và hành động là của con người hiện
đại.
20
- Xem thêm -