Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu trồng nấm bào ngư trắng pleurotus florida trên nguyên liệu lục bình...

Tài liệu Nghiên cứu trồng nấm bào ngư trắng pleurotus florida trên nguyên liệu lục bình

.PDF
32
117
110

Mô tả:

1 LỜI MỞ ĐẦU Nấm bào ngư được biết đến là loài nấm có giá trị dinh dưỡng cao và là thực phẩm sạch, ăn rất ngon. Loài nấm này được trồng ở nước ta cách nay hơn hai chục năm, với nhiều chủng loại như: Pleurotus florida, Pleurotus ostreatus, Pleurotus sajor – caju, Pleurotus pulmonarius… [1, 2] Nấm bào ngư thường được nuôi trồng trên các nguồn nguyên liệu là phế phụ phẩm rẻ tiền như: rơm rạ, mùn cưa… Đề tài nghiên cứu này hướng đến trồng thử nghiệm nấm bào ngư trắng Pleurotus florida trên nguyên liệu lục bình, là một loài thực vật thủy sinh thường mọc dày đặc trên các sông rạch ở nước ta, gây cản trở cho giao thông đường thủy. Từ đó, có thể tận dụng nguồn nguyên liệu lục bình dồi dào, rẻ tiền để sản xuất nấm bào ngư trắng có giá trị kinh tế cao. 2 CHƢƠNG 1 – TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Tình hình phát triển của nấm trồng: [2] Nấm ăn đã được nuôi trồng từ rất lâu trên thế giới. Từ trước công nguyên đã có những ghi chép đầu tiên về kỹ thuật trồng nấm. Ngày nay, giá trị của nấm ăn ngày càng được gia tăng nhờ những minh chứng về giá trị dinh dưỡng và khả năng trị bệnh của chúng. Nhiều loài nấm được sử dụng làm dược liệu như: nấm linh chi (Ganoderma lucidum), nấm bào ngư (Pleurotus spp.), nấm chân chim (Schizophyllum commune), nấm đông cô (Lentinus edodes), nấm phục linh (Poria cocos)… Hiện nay, người ta đã ghi nhận khoảng 2000 loài nấm ăn, trong đó có 80 loài nấm ăn ngon và được nghiên cứu nuôi trồng. Đặc biệt, một số loài nấm ăn có giá trị thương mại rất cao, như nấm nữ hoàng (Dictyophora duplicata), giá bán tại Hong Kong khoảng 315 – 317 USD/ kg nấm khô, đôi khi đạt đến 1.034 USD/ kg nấm khô. Loại nấm được trồng nhiều nhất trên thế giới là nấm mỡ (Agaricus bisporus và Agaricus bitorquis), với hơn 70 nước nuôi trồng và sản lượng nấm năm 1991 là 1,59 triệu tấn. Ở Châu Âu, trồng nấm đã trở thành ngành công nghiệp lớn, được cơ giới hóa toàn bộ, nên năng suất và sản lượng rất cao. Năm 1983, nước Pháp sản xuất 200.000 tấn nấm tươi, nhưng chỉ có hơn 6.000 người nuôi trồng. Nhật Bản là nước có sản lượng nấm lớn nhất thế giới, chủ yếu gồm: nấm đông cô, nấm kim châm (Flammulina velutipes), nấm trân châu (Pholiota nameko) và các loài nấm khác. Ở Châu Á, trồng nấm thường mang tính chất thủ công, năng suất không cao, nhưng sản xuất gia đình với số đông nên tổng sản lượng cũng rất lớn. Chỉ trong 10 năm, diện tích nuôi trồng nấm của Đài Loan tăng hơn 900 lần, từ 13.200 m2 (năm 1957) lên hơn 12 triệu m2 (năm 1967). Trung Quốc bắt đầu 3 trồng nấm năm 1973, nhưng đến năm 1980 diện tích đã đạt được 20 triệu m2 và sản lượng đứng hàng thứ 3 trên thế giới. Nhìn chung, nghề trồng nấm phát triển mạnh và rộng khắp, nhất là trong 20 năm trở lại đây, với một số loài nấm ăn được nuôi trồng phổ biến và hơn 50 loài nấm khác đang đưa dần vào sản xuất. Sự phát triển của nghề trồng nấm có thể có nhiều nguyên nhân như: sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, sự bùng nổ của thông tin… Tuy nhiên, vấn đề chủ yếu vẫn là tính hiệu quả của nấm trồng. Nuôi trồng nấm chỉ sử dụng nguyên liệu chính là phế liệu của nông, lâm nghiệp như: rơm rạ, bã mía, bông phế liệu… nhưng sản phẩm thu được lại là nguồn thực phẩm quý có giá trị dinh dưỡng cao. Nước ta là một nước nông nghiệp, đồng thời có nhiều điều kiện cho việc phát triển nghề trồng nấm, đặc biệt là các tỉnh phía Nam. Ngoài yếu tố nguồn nguyên liệu và lao động dồi dào, thì thời tiết và khí hậu gần như ổn định quanh năm, chúng ta có thể cung cấp nấm suốt bốn mùa. Các yếu tố thuận lợi cho việc trồng nấm của ở nước ta như:  Điều kiện thiên nhiên ưu đãi, nhất là các tỉnh phía Nam. Chênh lệch giữa nhiệt độ tháng nóng và tháng lạnh không lớn lắm, nên có thể trồng nấm quanh năm. Không khí chứa nhiều hơi nước rất thích hợp cho nấm sinh trưởng (do gần biển và nhiều sông hồ).  Nguồn nguyên liệu dồi dào, trên 60 triệu tấn rơm rạ (nếu lấy tối thiểu 1 tấn rơm rạ/ 1 ha); lượng gỗ khai thác bình quân hàng năm là 3,5 triệu m3, nếu chế biến sản phẩm sẽ cung cấp một lượng mạt cưa khổng lồ cho trồng nấm, chưa kể các phế liệu khác cũng chiếm số lượng rất lớn như: cùi và thân cây bắp, bã mía, bông thải…  Lực lượng lao động còn nhàn rỗi khá đông đảo, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp, có thể tham gia trồng nấm để cải thiện cuộc sống. 4  Nhiều nơi có truyền thống trồng nấm lâu đời như: Bình Chánh (Tp. Hồ Chí Minh), Long An… Hoặc đang phát triển nghề nấm như: Cần Thơ, Sóc Trăng, Hậu Giang, Long Khánh, Hóc Môn (Tp. Hồ Chí Minh)… Bên cạnh một đội ngũ kỹ thuật được rèn luyện trong thực tế ngày càng nhiều, sẽ là hạt nhân đẩy phong trào trồng nấm lan rộng… 1.2. Giá trị dinh dƣỡng của nấm ăn: [2] Phần lớn những loài nấm được nuôi trồng và sử dụng rộng rãi hiện nay, ngoài đặc điểm ăn ngon, còn chứa nhiều chất đạm, chất đường, nhất là các nguyên tố khoáng và vitamin (bảng 1.1). Bảng 1.1. Thành phần dinh dưỡng của một số loại nấm ăn quen thuộc (theo FAO, 1972) Loại nấm Thành phần Nấm Nấm Nấm Nấm Nấm rơm mèo bào ngƣ đông cô mỡ Độ ẩm (*) 90,1 87,1 90,8 91,8 88,7 Protein thô (N x 4,38) 21,2 7,7 30,4 13,4 23,9 Carbohydrate (g) 58,6 87,6 57,6 78,0 60,1 Chất béo (g) 10,1 0,8 2,2 4,9 8,0 Chất xơ (g) 11,1 14,0 9,8 7,3 8,0 Tro (g) 10,1 3,9 9,8 3,7 8,0 Ca (mg) 71 239 33 98 71 P (mg) 677 256 1348 476 912 Fe (mg) 17,1 64,5 15,2 8,5 8,8 Na (mg) 374 72 837 61 106 (/100 nấm khô) 5 K (mg) 3455 984 3793 - 2850 Vitamin B1 (mg) 1,2 0,2 4,8 7,8 8,9 Vitamin B2 (mg) 3,3 0,6 4,7 4,9 3,7 Vitamin PP (mg) 91,9 4,7 108,7 54,9 42,5 Vitamin C (mg) 20,2 0 0 0 26,5 Năng lượng (kcal) 369 347 345 392 381 (*) Tính trên 100g nấm tươi (-) Không xác định được Hàm lượng đạm (protein) trong nấm có thấp hơn thịt cá, nhưng cao hơn trong các loại rau quả. Đặc biệt, nấm chứa rất nhiều các axít amin, trong đó có 9 loại axít amin cần thiết cho con người. Nấm rất giàu leucin và lysin, là hai loại axít amin có ít trong ngũ cốc. Xét về chất lượng thì đạm ở nấm không thua gì đạm ở động vật. Thông thường lượng đạm trong nấm cũng thay đổi theo loài. Nấm chứa hàm lượng đường thay đổi từ 3 – 28% trọng lượng tươi. Ở nấm rơm, lượng đường tăng lên trong giai đoạn phát triển từ nút sang kéo dài, nhưng lại giảm khi trưởng thành. Đặc biệt, nấm có nguồn đường dự trữ dưới dạng glycogen tương tự như động vật (thay vì tinh bột ở thực vật). Nấm chứa nhiều loại vitamin như: vitamin B. C, K, A, D, E… Trong đó, nhiều nhất là vitamin B như: vitamine B 1, B2, axít nicotinic, axít pantothenic… Nếu so với rau rất nghèo vitamin B12, thì chỉ cần ăn 3g nấm tươi đủ cung cấp lượng vitamin B12 cho nhu cầu mỗi ngày. Ngoài ra, nấm còn chứa nguồn khoáng rất lớn. Nấm rơm được ghi nhận là giàu K, Na, Ca, P và Mg. Lượng khoáng trong nấm cung cấp đầy đủ nhu cầu khoáng cho người mỗi ngày. 6 Như vậy, ngoài việc cung cấp đạm và đường, nấm còn góp phần bồi bổ cơ thể nhờ vào lượng khoáng và vitamin dồi dào. Nấm chứa nhiều axít folic nên có thể giúp phòng ngừa và điều trị bệnh thiếu máu. Nhiều nấm ăn có chứa hàm lượng retine cao, mà theo A.S.Gyorgyi thì chất này là yếu tố làm chậm sự phát triển của tế bào ung thư. Gần đây, ở Nhật còn phát hiện nhiều hợp chất trích từ nấm như -glucan (thành phần cấu tạo vách tế bào nấm) hoặc chất leutinan (trích từ nấm đông cô)… có khả năng ngăn chặn sự phát triển của các khối u. Do đó, người ta cho rằng ăn nấm có thể cải thiện được bệnh ung thư. Ngoài ra, nấm còn chứa ít muối Na, rất tốt cho người bệnh viêm thận hoặc suy tim có biến chứng phù. Ở Trung Quốc và các nước phương Đông, người ta còn dùng nấm để điều trị nhiều bệnh như: rối loạn tiêu hóa, rối loạn tim mạch, cao huyết áp, tiểu đường, bổ xương, chống viêm nhiễm… có thể nói nấm là loại thực phẩm tốt cho sức khỏe con người. 1.3. Giá trị kinh tế của việc trồng nấm: [2] 1.3.1. Đối với kinh tế nông nghiệp: Nấm là một trong những loại cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao, do các yếu tố sau:  Với diện tích nhỏ nhất, vẫn có thể cho năng suất cao nhất. Ví dụ như nấm rơm, với phương pháp trồng ngoài trời, năng suất thấp nhất là 1 kg nấm tươi/ m2, thì một công đất (1000 m2), bình thường đã có thể thu được 1 tấn nấm tươi trong vòng một tháng. Nếu với phương pháp trồng trong nhà và nguyên liệu là rơm rạ, sử dụng dàn kệ (năm tầng), thì 1 m2 diện tích đất thu được từ 7 – 10 kg nấm tươi. Tuy nhiên, so với nấm mỡ thì năng suất này còn thua khá xa (60 kg/ m2 – theo Noble, 1989) 7  Đầu tư thấp, vòng quay nhanh: chu kỳ nuôi trồng nấm thường rất ngăn, nấm rơm 20 – 25 ngày; nấm bào ngư, nấm mèo từ 2 tháng – 2 tháng rưỡi… Do đó, khi gặp thiên tai hoặc biến động của thị trường, vẫn kịp dừng sản xuất hoặc chuyển hướng canh tác, điều này không đơn giản ở các loại cây trồng khác.  Nguyên liệu rẻ và dồi dào: nguyên liệu trồng nấm chủ yếu là các phế liệu nông lâm nghiệp, thường rất nhiều ở các địa phương, vừa giải quyết về mặt môi trường, đồng thời tạo nên sản phẩm mới. Phế phẩm sau khi trồng nấm còn có thể sử dụng cho chăn nuôi và trồng trọt.  Giá trị kinh tế cao: những nấm quen thuộc như nấm rơm, nấm mỡ, giá trung bình từ 1.200 đến 1.300 USD/ 1 tấn nấm muối. Nấm mèo khoảng 3.500 đến 4.300 USD/ 1 tấn nấm khô. Nấm đông cô dao động trong khoảng 12.000 – 20.000 USD/ 1 tấn nấm khô… Như vậy, so với nhiều loại nông sản thực phẩm khác (như: lúa, đậu…), nấm có giá bán cao hơn nhiều (bảng 1.2). Bảng 1.2. So sánh giá bán một vài loại nấm với giá xuất một số nông sản vào thời điểm tháng 5/ 1996. Stt Loại Nông Sản Giá xuất (USD/ tấn) 1 Nấm đông cô khô 12.000 – 13.000 2 Nấm bào ngư khô 6.000 – 7.000 3 Nấm mèo khô 3.500 – 4.300 4 Hạt sen tươi 2.205 5 Cà phê 1.911 6 Tiêu 1.842,75 8 7 Chanh 1.575 8 Nấm rơm muối 9 Cà tím muối 630 10 Thanh long 525 11 Đậu phộng sấy 504 12 Gạo trắng hạt dài 1.200 – 1.300 320,25 1.3.2. Đối với xã hội:  Giải quyết lao động: trong tình hình chung của nước ta, lao động (nhất là lao động nông nghiệp) nhàn rỗi khá nhiều, trong khi đời sống khó khăn. Trồng nấm thu hút lượng lớn lao động, bao gồm: gia công chế biến meo giống, chất mô, xếp mô, chăm sóc, thu mua và chế biến sản phẩm nấm... Tạo công ăn việc làm cho nhiều người, đồng thời mang lại nguồn thu nhập đáng kể.  Giải quyết nguồn thực phẩm: việc trồng ra nấm để bán hoặc xuất khẩu, sẽ phát sinh ra lượng nấm thừa. Lượng nấm này thường không nhỏ. Đây là nguồn thực phẩm rất quí, không những bổ sung cho khẩu phần ăn hàng ngày chưa thật đầy đủ của người dân, mà còn góp phần bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho mọi người. Tóm lại, trồng nấm vừa tăng thu nhập cho xã hội, đồng thời giải quyết nguồn thực phẩm đang còn rất thiếu ở nước ta. Tuy nhiên, cần có kế hoạch đồng bộ, như phổ biến quy trình, hướng dẫn cách thức, cung cấp giống, phòng chống bệnh, thu mua và chế biến… Nếu chương trình nấm được tổ chức và hỗ trợ tốt của các cấp, các ngành, chắc chắn sẽ thu lại lợi ích không nhỏ. 9 1.4. Đặc điểm của cây lục bình: [6] Lục bình (Eichhornia crassipes Solms) là một loài thực vật thuỷ sinh, thân thảo, sống nổi theo dòng nước. Phân loại của lục bình như sau: Loài: Eichhornia crassipes Chi: Eichhornia Họ: Pontederiaceae Bộ: Commelinales Giới: Plantae Hình 1.1. Cây lục bình 10 Lục bình xuất xứ từ Nam Mỹ, du nhập vào Việt Nam khoảng năm 1905. Lục bình có lá dạng hình tròn, màu xanh lục, láng và nhẵn mặt. Lá cuốn vào nhau như những cánh hoa. Cuống lá nở phình ra như bong bóng xốp ruột giúp cây lục bình nổi trên mặt nước. Hoa lục bình có màu tím nhạt. Rễ trông như lông vũ sắc đen buông rủ xuống nước, dài đến 1m. Cây lục bình sinh sản rất nhanh, một cây lục bình mẹ có thể phát triển làm tăng gấp đôi số lượng sau mỗi 2 tuần; nên dễ làm tắc nghẽn các ao hồ, kênh rạch, sông ngòi… gây cản trở giao thông đường thủy, làm cho nhiều loài cá không thể sống được ở những ao hồ dày đặc lục bình. Tuy nhiên, cây lục bình cũng có một số công dụng. Trong y học dân gian, lục bình được sử dụng làm thuốc. Tên thuốc thường được gọi là phù bình, lá và thân có vị ngọt cay, tính mát không độc, có tác dụng tiêu viêm giải độc, lành da. Dùng tươi lá lục bình đem giã với muối rồi đem đắp lên ung nhọt, khô thì thay miếng khác, nhiều lần sẽ làm giảm sưng. Nếu vết tấy bắt đầu tạo mủ thì sẽ chóng vỡ mủ giảm đau. Dùng thân và lá phơi khô sao thơm phối hợp với các vị thuốc khác cũng có tác dụng chữa bệnh. Ngoài ra, hoa lục bình hơi ngọt, tính mát, có tác dụng an thần, lợi tiểu, giải độc, trừ phong nhiệt. Khi ho hen ho đàm hoặc ho gió, chưng một nắm hoa với đường phèn uống, kết hợp thêm hoa hoè, hoa khế càng tốt. Người cao huyết áp mãn tính dùng hoa lục bình chế trà uống mỗi ngày cũng có tác dụng bình ổn. Trong tự nhiên, lục bình còn có tác dụng hấp thụ những kim loại nặng (như: chì, thủy ngân…) nên có thể dùng để khử trừ ô nhiễm môi trường. Người ta cũng sử dụng lục bình làm thức ăn cho gia súc, dùng ủ nấm rơm, làm phân chuồng… Cây lục bình còn có công dụng thủ công nghiệp. Lục bình phơi khô có thể chế biến để dùng bện thành dây, dệt thành chiếu, làm hàng thủ công, bàn ghế… 11 Như các loài rau thôn dã khác, cây lục bình cũng có thể dùng làm món ăn ngon. Ngó lục bình xào ngon không kém ngó sen. Đọt non và cuống lá nấu canh tép, cá lóc, tôm khô. Hoa luộc chấm cá kho hoặc xào thịt heo hay lòng heo đều ngon. 1.5. Đặc điểm của nấm bào ngƣ: 1.5.1. Phân loại nấm bào ngƣ: [1, 2] Nấm bào ngư (còn gọi là nấm sò, nấm hương chân ngắn, nấm bình cô) gồm nhiều loài thuộc chi Pleurotus, phân loại của nấm bào ngư như sau: Chi: Pleurotus Họ: Pleurotaceae Bộ: Agaricales Lớp phụ: Hymenomycetidae Lớp: Hymenomycetes Ngành phụ: Basidiomycotina Ngành nấm thật: Eumycota Giới nấm: Mycota (Fungi) Theo Singer (1975), có tất cả 39 loài nấm bào ngư khác nhau và chia thành 4 nhóm. Trong đó có hai nhóm lớn:  Nhóm ôn hòa (ưa nhiệt trung bình): kết quả thể ở 10 – 20oC. 12  Nhóm ưa nhiệt: kết quả thể ở 20 – 30oC, đây là nhóm có nhiều loài được nuôi trồng như:  Pleurotus ostreatus (Jacq. Ex. Fr.) Kummer  P. Sapidus (Schulzer) Kalch  P. sajor – caju (Fr.) Sing  P. corticatus (Fr. ex. Fr.) Quel.  P. eryngii (D.C. ex. Fr.)  P. tuber – regium (Fr.) Sing  P. calyptratus (Lindb in Fr.) Sacc.  P. cystidiosus Miller  P. dryinus (Pers. Ex. Fr.) Kummer  P. columbinus  P. pulmonarius  P. flabellatus  P. du Québec  P. abalonus  P. fossulatus  P. cornucopiae  P. florida 1.5.2. Hình dạng nấm bào ngƣ: [2] Nấm bào ngư có đặc điểm chung là tai nấm dạng phễu lệch, phiến mang bào tử kéo dài xuống chân. Cuống nấm gần gốc có lớp lông mịn. Tai nấm còn non có màu sắc tối, nhưng khi trưởng thành, màu trở nên sáng hơn. Chu kỳ sống của nấm bào ngư cũng như các loài nấm đảm khác, bắt đầu từ đảm bào tử hữu tính, nẩy mầm cho hệ sợi tơ dinh dưỡng. Kết thúc 13 bằng việc hình thành cơ quan sinh sản là tai nấm. Tai nấm sinh ra các đảm bào tử và chu trình lại tiếp tục. Quả thể nấm bào ngư phát triển qua nhiều giai đoạn, dựa theo hình dạng tai nấm mà có tên gọi cho từng giai đoạn như: dạng san hô, dạng dùi trống, dạng phễu, dạng bán cầu lệch, dạng lá lục bình.  Dạng san hô: quả thể mới hình thành, dạng sợi mảnh hình chùm.  Dạng dùi trống: mũ xuất hiện dưới dạng khối tròn, còn cuống phát triển cả về chiều ngang và chiều dài nên đường kính cuống và mũ không khác nhau bao nhiêu.  Dạng phễu: mũ mở rộng, trong khi cuống còn ở giữa (giống cái phễu).  Dạng bán cầu lệch: cuống lớn nhanh một bên và bắt đầu lệch so với vị trí trung tâm của mũ.  Dạng lá lục bình: cuống ngừng tăng trưởng, trong khi mũ vẫn tiếp tục phát triển, bìa mép thẳng đến dợn sóng. 1.5.3. Một số loài nấm bào ngƣ: [1] Nấm bào ngư được trồng phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới. Sau đây là một số loài nấm bào ngư thường được nuôi trồng:  Nấm bào ngƣ màu hồng đào (Pink Oyster Mushroom): Tên khoa học là Pleurotus salmoneostramineus L. Vass. Quả thể lớn vừa phải, màu hồng đào, đường kính mũ nấm khoảng 3 – 14 cm, sau biến thành màu đỏ đất hoặc màu vàng nhạt. Cuống nấm rất ngắn hoặc không thấy rõ (dài không quá 1 – 2 cm). 14  Nấm bào ngƣ hoàng bạch (Branched Oyster Fungus): Tên khoa học là Pleurotus cornucopiae (Paul ex Pers) Roll. Người Trung Quốc còn gọi là nấm sò nhỏ, nấm sò mỹ vị. Mũ nấm có đường kính khoảng 5 – 13 cm, lúc đầu có hình bán cầu dẹp, về sau có cuống kéo dài ra khoảng 2 – 5 cm. Nấm có màu trắng hay gần trắng, có lúc có màu nâu nhạt, thịt khá dày. Loài nấm này còn có tên khoa học khác là Pleurotus sapidus (Schulz. Apud Kalchbr) Sacc. Hình 1.2. Pleurotus cornucopiae [5] 15  Nấm bào ngƣ kim đỉnh (Citrine Pleurotus): Tên khoa học là Pleurotus citrinopileatus Sing. Quả thể to trung bình. Mũ nấm có đường kính khoảng 3 – 10 cm, trơn bóng, màu từ vàng tươi đến vàng cỏ. Thịt nấm màu trắng. Cuống mọc thành nhánh, màu trắng, dài khoảng 2 – 10 cm. Loài nấm bào ngư này có thể vừa trồng để ăn, vừa có giá trị dược liệu, ăn khá ngon. Hình 1.3. Pleurotus citrinopileatus [3]  Nấm bào ngƣ A ngụy (Ferule Mushroom): Tên khoa học là Pleurotus ferulae Lenzi. Quả thể khá to, đường kính mũ nấm khoảng 5 – 15 cm. Lúc đầu nấm có màu nâu, sau biến dần sang màu trắng nâu. Thịt nấm dày, màu trắng. Cuống mọc xiên, màu trắng hay gần trắng, dài 2 – 6 cm. Nấm có thể vừa trồng để ăn vừa trồng để làm dược liệu. 16  Nấm bào ngƣ tím (Oyster Mushroom): Tên khoa học là Pleurotus ostreatus (Jacquin. Fr.) Quesl. Quả thể vừa hoặc lớn, mũ nấm có đường kính khoảng 5 – 21 cm, màu trắng, màu trắng tro, trắng xanh, nhưng khi mới nở có màu tím hay màu nâu xám. Cuống mọc xiên, ngắn hoặc hầu như không có, dài không quá 1 – 3 cm. Gốc cuống có lông nhung. Nấm vừa ăn ngon, vừa có giá trị dược liệu. Loài nấm bào ngư này có nơi còn gọi là nấm sò da thô, nấm sò đông, nấm hương chân ngắn. Hình 1.4. Pleurotus ostreatus [4] 17  Nấm bào ngƣ phiến hồng, nấm bào ngƣ đỏ pháo (Pink Gill Oyster Mushroom): Tên khoa học là Pleurotus rhodophyllus Bres. Quả thể cỡ trung bình, mũ nấm có đường kính 3 – 14 cm, bề mặt trơn hoặc có lông nhỏ, màu vàng đất nhạt. Thịt nấm khá mỏng, màu hồng. Cuống nói chung không rõ, dài không quá 1 – 2 cm, có lông nhung màu trắng.  Nấm bào ngƣ cuống dài, nấm bào ngƣ màu tro (Long – stalked Pleurotus): Tên khoa học là Pleurotus spodoleucus (Fr.) Fr. Mũ nấm hình phễu, đường kính khoảng 3 – 9 cm, trơn nhẵn, màu trắng, phần giữa có mùa vàng. Thịt nấm dày, màu trắng. Cuống nấm màu trắng, dài khoảng 4 – 11 cm, ăn ngon.  Nấm bào ngƣ Đài Loan, nấm bào ngƣ ƣa nóng (Cystidi ate Pleurotus, Abalone Pleurotus): Tên khoa học là Pleurotus cystidiosus O. K. Miller. Quả thể to hoặc khá to. Mũ nấm có đường kính khoảng 7 – 12 cm, có khi đến 35 cm, màu nâu pha da cam, trên bề mặt có vảy màu nâu đen, ở giữ có màu nâu khói, ăn ngon. Loài nấm này còn có tên khoa học khác là Pleurotus abalonus.  Nấm bào ngƣ viên bào (Angels Wings): Tên khoa học là Pleurotus porrigens (Pers. Fr.) sing. Quả thể vừa hoặc nhỏ, mũ nấm trơn nhẵn, màu trắng, gốc có lông nhung. Không có cuống nấm. Thịt nấm màu trắng, mỏng. 18  Nấm bào ngƣ xám (Phoenix – tail Mushroom): Tên khoa học là Pleurotus sajor – caju (Fr) Sing. Quả thể phẳng, lúc già mới cong lại; mũ nấm có hình tròn, hình nửa tròn, hình thận; có đường kính 5 – 15 cm hay lớn hơn, màu trắng tro hay nâu xám. Thịt nấm dày vừa phải, màu trắng. Cuống nấm màu trắng, trên to dưới nhỏ, dài 3 – 10 cm, gốc cuống có lông nhung. Loài nấm này lúc đầu được nuôi trồng ở Ấn Độ, sau đó du nhập vào Trung Quốc, Việt Nam… Nấm ăn ngon và có giá trị dinh dưỡng cao. 1.5.4. Các yếu tố ảnh hƣởng đến sự sinh trƣởng của nấm bào ngƣ: [1] Sự sinh trưởng của nấm bào ngư chịu tác động của nhiều yếu tố khác nhau của môi trường như: nhiệt độ, độ ẩm, pH, ánh sáng, oxy… Nhiệt độ cần cho quá trình ủ tơ trong khoảng 20 – 30oC và để nấm tạo quả thể là từ 15 – 25oC. Độ ẩm cũng rất quan trọng đối với sự phát triển của quả thể. Trong thời kỳ tưới đón nấm, độ ẩm không khí không được dưới 70%, tốt nhất ở 70 – 95%. Độ ẩm thấp hơn 70% quả thể bị vàng và khô mép. Độ ẩm ở 50%, nấm ngừng phát triển và chết, dạng bán cầu lệch và dạng lá bị khô mặt và cháy vàng ở bìa mép mũ nấm. Ngược lại, độ ẩm cao (95%) chưa hẳn đã tốt cho nấm, tai nấm dễ bị nhũn và rũ xuống. Cơ chất khi chế biến thường có những biến đổi về pH. Đối với nấm bào ngư, khả năng chịu đựng sự dao động pH tương đối tốt, pH môi trường có thể giảm xuống pH 4,4 hoặc tăng lên pH 9, tơ nấm vẫn mọc được. Tuy nhiên, pH thích hợp đối với hầu hết các loài nấm bào ngư trong khoảng pH 5 – pH 6. pH thấp làm quả thể không hình thành và ngược lại pH quá kiềm làm tai nấm bị dị hình. 19 Ánh sáng chỉ cần thiết cho việc tạo nụ nấm. Ánh sáng tốt nhất là khoảng 2000 lux, cường độ ánh sáng quá mạnh sẽ ngăn cản việc hình thành nụ nấm. Đặc biệt quá trình nẩy mầm của bào tử và tăng trưởng của tơ nấm bào ngư có liên quan đến nồng độ CO2 cao (22%), nhưng khi cần ra quả thể thì nồng độ CO2 phải giảm và lượng oxy cần thiết tăng lên. Nếu không mũ nấm sẽ hẹp lại trong khi chân nấm lại dài ra, dẫn đến tai nấm bị dị dạng. 1.5.5. Các bệnh thƣờng gặp ở nấm bào ngƣ: [2] Nấm bào ngư có sức sống rất mạnh. Tuy nhiên, khi nuôi trồng, nấm lại rất nhạy cảm với điều kiện môi trường như: nhiệt độ lên xuống đột ngột cũng có thể làm nấm ngừng tăng trưởng, không mọc hoặc tàn nhanh. Nước tưới bị phèn, bị mặn cũng làm nấm không phát triển được. Quá trình cung cấp nước cho nấm, nếu giọt tưới lớn sẽ dễ làm chết các tai nấm đang trưởng thành. Tai nấm trong trường hợp này bị nhũn ra và rũ xuống. Đối với bệnh nhiễm, nấm bào ngư thường bị nhiễm hai bệnh chủ yếu: mốc xanh (Trichoderma sp.) và ấu trùng ruồi. Trichoderma sp. là loài mốc phát triển mạnh trên các cơ chất có chất gỗ, chúng có thể cạnh tranh với nấm bào ngư và làm ảnh hưởng đến năng suất nấm. Để hạn chế sự phát triển của loài mốc này, cần khử trùng tốt nguyên liệu trồng nấm hoặc nâng pH môi trường. Trường hợp ấu trùng ruồi (dòi), chúng chui vào các khe của phiến nấm, cắn phá làm hư hại nấm. Tốc độ sinh sản của chúng lại rất nhanh, nên gây thiệt hại không nhỏ. Do đó, nhà trồng nấm nên làm lưới chắn, để cho chúng không lọt vào. Tuy nhiên, vấn đề chính là vệ sinh nhà trồng nấm, để ổ dịch không phát sinh. 20 1.5.6. Công dụng của nấm bào ngƣ: [1] Nấm bào ngư vừa ăn ngon vừa có giá trị dinh dưỡng cao. Trong nấm bào ngư khô, lượng chứa protein là khoảng 20%. Trong protein này có đầy đủ các axít amin với tất cả 8 axít amin không thay thế. Nấm bào ngư cũng chứa nhiều chất đường và các chất khoáng. Về mặt năng lượng, nấm bào ngư cung cấp năng lượng ở mức tối thiểu, thấp hơn nấm đông cô, tương đương với nấm rơm và nấm mỡ, rất thích hợp cho những người ăn kiêng. Ngoài ra, nấm bào ngư còn chứa một số vitamin và một lượng đáng kể các nguyên tố vi lượng (bảng 1.3, bảng 1.4). Bảng 1.3. Các vitamin trong nấm bào ngư Vitamin (mg/ 100g nấm khô) Nấm bào ngƣ Vitamin Vitamin Axít Vitamin Axít Axít C B1 nicotinic B2 pantotenic folic P. sajor – caju 111 1,75 60,0 6,66 21,1 1278 P. floridanus 113 1,36 72,9 7,88 29,4 1412 Bảng 1.4. Các nguyên tố vi lượng trong nấm bào ngư Nguyên tố vi lƣợng (mg/ 100g nấm khô) Nấm bào ngƣ Na Ca Mg P Fe Cu Zn Mn P. ostreatus 11 5 174 1406 5,0 1,6 9,1 0,0013 P. cornucopiae 28 5 209 1840 21,4 1,0 9,9 0,0010 P. porrigens 89 79 94 985 12,4 3,6 7,8 0,0014
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan