Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu tình hình sốt xuất huyết dengue tại huyện trần văn thời tỉnh cà mau n...

Tài liệu Nghiên cứu tình hình sốt xuất huyết dengue tại huyện trần văn thời tỉnh cà mau năm 2009

.PDF
86
359
95

Mô tả:

1 ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh sốt xuất huyết Dengue (SXHD) là bệnh truyền nhiễm cấp tính do vi rút Dengue gây ra, có thể gây ra dịch lớn làm cho nhiều người mắc và tử vong. Trung gian truyền bệnh là muỗi Aedes aegypti đã được nghiên cứu kỹ về sinh lý, sinh thái về đốt hút máu người và truyền bệnh từ người bệnh sang người lành[26] Nhiều thập kỷ qua sốt xuất huyết là một trong những bệnh truyền nhiễm ảnh hưởng đến sức khỏe, cuộc sống của con người có số mắc và tỷ lệ tử vong cao trên Thế giới. Tại Việt Nam, bệnh sốt xuất huyết được biết năm 1958 do Chu Văn Tường thông báo một vụ dịch nhỏ sốt xuất huyết tại Hà Nội, ở miền Nam sốt xuất huyết được mô tả vào những năm 1960, những trường hợp đầu tiên được ghi nhận tại đồng bằng sông Cửu Long, lan nhanh thành dịch tại nhiều vùng dọc theo hai bên bờ sông [5], [42]. Theo Tổ chức y tế thế giới bệnh sốt xuất huyết hiện lưu hành trên 100 quốc gia thuộc các khu vực có khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới nhiều nhất ở vùng Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương, Châu Mỹ, Châu Phi có số người mắc sốt xuất huyết cao nhất. Trên thế giới hàng năm có khoảng 2,5-3 tỷ người có nguy cơ mắc bệnh sốt xuất huyết, mỗi năm có khoảng 80-100 triệu người mắc bệnh trong đó 500 ngàn người phải nhập viện chiếm 90% trẻ em dưới 15 tuổi có tỷ lệ tử vong cao từ 1-5%.[26] Ở Việt Nam, sốt xuất huyết ngày càng trở nên nghiêm trọng, mỗi năm có hàng trăm ngàn người mắc và hàng trăm người chết. Năm 1998 có 234.920 người mắc và 377 người chết, tỷ lệ chết đứng thứ 2 trong 10 bệnh truyền nhiễm phổ biến. Năm 2008, các tỉnh phía Nam trường hợp mắc 78.414 trường hợp chết 85, tại tỉnh Cà Mau có số mắc 8.284 tử vong 08 trường hợp .[6],[7], [8] Năm 2009 cả nước có số mắc/chết là 105.370/87; Các tỉnh phía Nam 64.778 / 61 và tỉnh Cà Mau mắc 924 trường hợp , chết 00 [63]. 2 Hiện nay công tác phòng chống bệnh sốt xuất huyết rất được quan tâm nhưng hiệu quả chưa cao do đặc điểm địa lý, thời tiết môi sinh, tập tục mỗi vùng khác nhau nên áp dụng một mô hình phòng chống sốt xuất huyết có thể thành công nơi này nhưng thất bại nơi khác. Việc phòng chống sốt xuất huyết Dengue dựa vào cộng đồng được Bộ Y tế và các Viện Dịch tễ Trung ương, Viện Pasteur thành phố Hồ Chí Minh quy định và đã triển khai nhiều mô hình phòng chống sốt xuất huyết dựa vào cộng đồng như diệt lăng quăng bằng nuôi cá bảy màu, cá lia thia, đậy kín lu mái chứa nước bằng vải nilon và nắp đậy, dọn dẹp dụng cụ chứa nước xung quanh nhà xử lý ổ dịch nhỏ, phun hóa chất diện rộng... Việc chẩn đoán sớm, kịp thời và điều trị đúng cách sẽ góp phần rất lớn trong việc giảm tỉ lệ tử vong do sốt xuất huyết [3], [5], ]7],[42]. Phòng chống dịch sốt xuất huyết không thể thành công nếu không có sự tham gia thực hiện của cộng đồng. Huy động tham gia của cộng đồng được coi là biện pháp cơ bản trong việc phòng chống dịch khẩn cấp, mỗi thành viên từng hộ gia đình phải trực tiếp tham gia phòng chống dịch. Tuy nhiên việc phòng chống vec tơ truyền bệnh sốt xuất huyết vẫn còn nhiều bàn cãi mỗi năm phải chi nhiều tiền cho công tác phòng chống nhất là tiền mua hóa chất là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường và muỗi kháng thuốc, chính quyền và nhân dân thích sử dụng hóa chất, chủ trương của y tế thì phát động phòng chống sốt xuất huyết dựa vào cộng đồng, tuy nhiên chưa có câu trả lời đầy đủ nhất để mọi người chấp nhận. Với lý do trên chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu tình hình sốt xuất huyết Dengue tại huyện Trần văn Thời tỉnh Cà Mau năm 2009”. Nhằm 2 mục tiêu: - Mô tả một số đặc điểm dịch tễ về sốt xuất huyết Dengue tại huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau 2009. - Tìm hiểu kiến thức, thái độ, hành vi phòng chống và mối liên quan với sốt xuất huyết Dengue của người dân tại huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau 2009. 3 Chƣơng I TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1.KHÁI QUÁT VỀ BỆNH SỐT XUẤT Sốt xuất huyết Dengue là bệnh truyền nhiễm cấp tính, gây dịch do vi rút Dengue gây nên, bệnh lan truyền chủ yếu do muỗi Aedes aegypti. Theo Tổ chức Y tế thế giới, bệnh sốt xuất huyết Dengue hiện đang lan truyền ở nhiều nước trên thế giới với khoảng 20 triệu người bị nhiễm vi rút Dengue và khoảng 500.000 trường hợp bị sốt xuất huyết Dengue phải nhập viện, trong đó chủ yếu là trẻ em. Tỷ lệ tử vong đến 5%, thậm chí cao hơn nếu không được chẩn đoán và điều trị thích hợp. 1.1.1. Nguyên nhân Virus Dengue truyền bệnh từ người bệnh sang người lành qua muỗi Aedes đốt. Virus là loại ARN virus, có 4 típ huyết thanh, có những kháng nguyên rất giống nhau, có thể gây phản ứng chéo 1 phần sau khi bị nhiễm 1 trong 4 típ và có những kháng nguyên đặc hiệu cho riêng từng típ. Virus có ở trong máu người bệnh trong thời gian bị sốt. Kháng nguyên virus Dengue được tìm thấy ở đại thực bào, phổi, lách, tuyến ức, tế bào Kuffer ở gan, tế bào monocyt ở máu ngoại biên. Người bệnh là ổ chứa virus chính. Gân đây người ta phát hiện ở Malaysia có loại khỉ hoang dại ở những khu rừng nhiệt đới có mang virus Dengue. Người bệnh nhiễm virus Dengue bị muỗi Aedes đốt mang virus rồi truyền cho người lành. Khi bị bệnh, cơ thể sẽ xuất hiện kháng thể IgM kháng Dengue tạm thời kéo dài 8 tuần và khi phát hiện kháng thể này trong huyết thanh chứng tỏ bệnh nhân đang bị nhiễm virus Dengue cấp tính hoặc vừa mới khỏi bệnh. Kháng thể IgG kháng Dengue xuất hiện muộn hơn và tồn tại nhiều năm hoặc suốt đời và có miễn dịch với típ Dengue gây bệnh. Khi bị bệnh do một típ huyết 4 thanh nào đó của virus Dengue thì sẽ có miễn dịch suốt đời với típ Dengue đó, nhưng không có miễn dịch với các típ khác. Do đó, nhiễm virus Dengue có thể bị mắc tới lần thứ 2 do típ huyết thanh khác gây bệnh. Nước ta có 2 loại muỗi Aedes gây bệnh chủ yếu là Aedes aegypti và Aedes albopictus. Muỗi Aedes hút máu ban ngày và thường hút máu nhiều nhất vào sáng sớm và chiều tối. Muỗi Aedes aegypti mình nhỏ, đen, có khoang trắng thường gọi là muỗi vằn, đậu ở nơi tối trong nhà, thường sống ở các đô thị. Muỗi Aedes albopictus thích sống ở lùm cây, ngọn cỏ, phần lớn sống ở vùng Hình 1.1. Muỗi vằn (Aedes aegypti) nông thôn. Sau khi hút máu người bệnh, muỗi cái có thể truyền bệnh ngay nếu hút máu người lành hoặc virus nhân lên ở tuyến nước bọt của muỗi sau đó 8-10 ngày hút máu người lành có thể truyền bệnh. Người ta thấy muỗi bị nhiễm virus Dengue có thể truyền bệnh suốt vòng đời của muỗi khoảng 174 ngày (5-6 tháng). Muỗi Aedes đẻ trứng, sau đó sinh ra bọ gậy (lăng quăng) ở các dụng cụ chứa nước trong gia đình như chum, vại, bể nước, lọ hoa, chậu cảnh... hoặc ở ngoài nhà như hốc cây có nước, máng nước, vỏ đồ hộp, vỏ Hình 1.2. Lăng quăng ( bọ gậy) chai... hoặc ở rãnh nước, ao hồ. Chu kỳ phát triển từ trứng đến muỗi trưởng thành khoảng 11-18 ngày, khi nhiệt độ 29-31oC. Mật độ muỗi thường tăng vào mùa mưa, do đó, muốn phòng bệnh tốt cần phải loại bỏ được những dụng cụ chứa nước nơi muỗi đẻ trứng, hoặc thả cá ăn bọ gậy. 5 Sự lan truyền dịch xảy ra ở những vùng có nhiều muỗi Aedes, vệ sinh môi trường kém, dân cư sống chen chúc và số người bị cảm thụ cao. Hiện nay, người ta chưa xác định được chính xác mật độ muỗi Aedes cần thiết để duy trì virus Dengue gây bệnh lưu hành hoặc các đợt gây dịch. Tuy nhiên, trong một gia đình, chỉ một số ít muỗi cái Aedes là có thể làm cả gia đình mắc bệnh. Muỗi Aedes sinh sản quanh năm, cao nhất vào những tháng sau mùa mưa muỗi sinh sản nhiều và liên quan đến việc tích trữ nước trong bể, chum vại, cống rãnh nước hoặc nước ở đồ phế thải chai lọ, vỏ đồ hộp... Muỗi Aedes không bay xa được (bay xa được khoảng 400m) nên sự di chuyển mang virus Dengue đến nơi xa là do muỗi mang virus hoặc người đang bị bệnh đi theo đường giao thông (máy bay, tầu hỏa, ô tô...) đến các nơi từ tỉnh này đến tỉnh khác. Dịch SXHD xuất hiện ở các nơi đông dân cư tập trung rồi sau đó lan dần đến các vùng nông thôn. Trẻ em ở nhà trẻ, trường học bị muỗi Aedes mang virus đốt ban ngày rồi trở về nhà mang virus về gia đình, khu phố, xóm làng. Người ta ước tính cứ 1 trường hợp SXHD có sốc vào bệnh viện thì có khoảng 200-500 người bị nhiễm virus Dengue có triệu chứng lâm sàng hay không có triệu chứng lâm sàng, nhất là ở vùng có mật độ muỗi Aedes cao. 1.1.2. Điều trị Vì Sốt xuất huyết Dengue là một bệnh do virus nên hiện tại chưa có thuốc điều trị đặc hiệu. Điều trị chủ yếu là triệu chứng và điều trị biến chứng bệnh. Các biện pháp điều trị chung gồm: - Thuốc hạ sốt. Chú ý không dùng các thuốc salycilate vì cơ địa dễ chảy máu của bệnh nhân cũng như nguy cơ xuất hiện hội chứng Reye. - Bồi phụ nước bằng đường uống hoặc bằng đường tĩnh mạch trong trường hợp cần thiết nhằm đề phòng và điều chỉnh mất nước. Tuy nhiên cần cẩn trọng tránh bồi phụ dịch quá mức cần thiết khi sốc đã ổn định để phòng biến chứng phù phổi cấp. 6 - Nếu có xuất huyết nặng và rối loạn đông máu trầm trọng, cần phải truyền máu tươi hoặc khối tiểu cầu. - Ôxy liệu pháp trong trường hợp giảm ôxy máu, sốc. - Theo dõi bệnh nhân chặt chẽ nhất là trong giai đoạn bắt đầu hạ sốt. - Phân cấp bệnh nhân theo tuyến điều trị trong trường hợp có dịch với lượng bệnh nhân tăng cao trong cùng thời điểm. 1.1.2.1. Tiêu chuẩn điều trị tại nhà: - Tất cả những bệnh nhân không có nhu cầu phải truyền dịch tĩnh mạch. - Bệnh nhân Độ I có khả năng bù dịch bằng đường uống. - Bệnh nhân Độ II có khả năng bù dịch bằng đường uống và không có chảy máu quan trọng. 1.1.2.2.Tiêu chuẩn nhập viện trong thời gian ngắn (12 - 24 giờ): - Tất cả những trường hợp bệnh cần bù dịch qua đường tĩnh mạch. - Bệnh nhân Độ I và Độ II và không thể điều trị bù dịch bằng đường uống. - Bệnh nhân Độ I hoặc Độ II nhưng có đau tức gan và gan to ra. - Tất cả bệnh nhân độ III. 1.1.2.3. Tiêu chuẩn nhập viện trong thời gian dài (> 24 giờ): - Tất cả bệnh nhân thuộc nhóm nhập viện trong thời gian ngắn không đáp ứng điều trị bù dịch. - Bệnh nhân Độ I hoặc Độ II kèm theo nhưng yếu tố cơ địa dễ chuyển thành bệnh nặng (hen phế quản, dị ứng, đái tháo đường, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính...). - Bệnh nhân Độ II hoặc Độ III và có chảy máu quan trọng. - Tất cả bệnh nhân Độ IV. 1.1.3. Phòng chống sốt xuất huyết 1.1.3.1. Dự phòng Vacine Lý tưởng nhất là có một vaccine có thể chống lại cả bốn loại huyết thanh virus gây bệnh. Đáng tiếc là một loại huyết thanh như vậy hiện nay vẫn chưa có 7 sẵn. Tuy nhiên đã có một nghiên cứu tại Đại học Mahidol (Thái Lan) với sự cộng tác của WHO, một vaccine chống cả bốn loại huyết thanh virus gây bệnh đã, đang được phát triển và hoàn thiện. Hiện nay vaccin chống SXH cả 4 typ siêu vi Dengue đang ở pha 2 thử nghiệm lâm sàng. 1.1.3.2. Kiểm soát vector truyền bệnh Hiện tại, kiểm soát vector truyền bệnh được xem là phương pháp phòng bệnh duy nhất có hiệu quả. Kiểm soát các vector Aedes có thể làm giảm đáng kể tỉ lệ mắc bệnh Dengue. Trong những năm 1950 đến 1960 Tổ chức Y tế Toàn châu Mỹ (Pan American Health Organization) đã thành công trong việc diệt sạch Aedes aegypti ở nhiều vùng thuộc Trung và Nam Mỹ và trong thời gian này, các vụ dịch Dengue rất hiếm ở châu Mỹ. Tuy nhiên sau khi chương trình ngừng lại thì Aedes aegypti và sau đó là Dengue tái xuất hiện. Phương pháp chính để kiểm soát số luợng muỗi Aedes là giảm thiểu các khu vực có nước đọng, là nơi đẻ trứng của muỗi. Đậy kín các dụng cụ chứa nước, giảm tối đa các vật dụng có thể chứa nước mưa (lốp xe cũ, chén bát cũ...), hay nước sạch như bình bông, bàn cầu trong các phòng trống không có người ở, hầm nước ở các chung cư. Có thể dùng các loại sinh vật trong nước tiêu diệt trứng của muỗi. Trong vụ dịch đôi khi phải cần đến phun thuốc diệt muỗi trên diện rộng. Cũng giống như tất cả các bệnh lây truyền do arbovirus khác, các phương pháp bảo hộ cá nhân như mặc tất, vớ dài, dùng thuốc xua muỗi, tránh nhưng nơi có mật độ vector truyền bệnh cao. Một điểm đặc biệt là muỗi Aedes aegypti hoạt động vào ban ngày nên việc phòng tránh có khác so với các loại muỗi chỉ hoạt động ban đêm như Anophele và Culex. - Giáo dục cộng đồng Việc nâng cao ý thức cộng đồng về nguy cơ của bệnh, các phương pháp phòng bệnh cũng như khả năng nhận biết bệnh và bệnh nặng có ý nghĩa rất quan trọng. 8 - Tuyên truyền, giáo dục cộng đồng Ở các tuyến y tế tỉnh, huyện sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng: Đài truyền thanh, truyền hình, báo chí và các phương tiện thông tin khác, tuyến cộng đồng cán bộ y tế tuyên truyền trong trường học, các buổi họp dân, tranh ảnh... giới thiệu cho người dân hiểu biết nguyên nhân và cách phòng chống bệnh sốt xuất huyết. 1.1.3.3. Sử dụng hóa chất. Các biện pháp sử dụng hóa chất ngày càng được cải tiến phong phú, từ máy phun thô sơ đến máy phun có động cơ, từ phun giọt tồn lưu đến phun hạt thể tích cực nhỏ, từ phun dạng dung dịch pha loãng đến phun dung dịch đậm đặc…Những cải tiến này nhằm tăng hiệu lực diệt muỗi truyền bệnh trong một thời gian ngắn trên một phạm vi rộng. Việc phun vào không gian thể tích cực nhỏ các hóa chất diệt côn trùng như Malathion để diệt tức thời muỗi Aedes aegypti truyền bệnh SXHD đã được nghiên cứu thành công và ứng dụng phun dập dịch ở nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, chúng ta cũng biết rõ tính ưu năng của hóa chất và những ảnh hưởng của hóa chất đối với sức khỏe con người, sự ô nhiễm môi trường sống cũng như sự kháng lại hóa chất của côn trùng; vì vậy mà việc sử dụng hóa chất ít được khuyến cáo để tránh lạm dụng, hiện nay Bộ Y tế và Viện Dịch tễ trung ương hướng dẫn và chỉ định phun hóa chất trong dập dịch, xử lý ổ dịch nhỏ và phun diện rộng [4]. Theo Tổ chức y tế thế giới (TCYTTG), những nghiên cứu mới đây cho thấy phương pháp sử dụng hóa chất ít có hiệu quả diệt muỗi. Hơn nữa khi phun hóa chất để diệt muỗi ngày càng làm cho chính quyền và người dân trông chờ ỷ lại vào phun hóa chất mà thiếu ý thức trong việc tự phòng chống sốt xuất huyết, mà việc phòng chống hiệu quả nhất là diệt lăng quăng đậy kín các dụng cụ chứa nước dọn dẹp các dụng cụ xung quanh nhà không cho muỗi sinh sản, cần loại bỏ nơi sinh sản của muỗi [55]. Mặc dù vậy, biện pháp phun hóa chất vẫn được sử dụng khi có dịch lớn xảy ra, vì nó làm cho mật độ muỗi trưởng thành giảm rõ 9 rệt. Tuy nhiên, phải áp dụng biện pháp này thật đúng lúc, đúng chỗ, đúng liều và tuân thủ chặt chẽ chỉ định dịch tễ để biện pháp này đạt được hiệu quả cao 1.1.3.4. Biện pháp sinh học Biện pháp phòng chống sinh học được biết từ lâu dựa trên cơ sở tồn tại các tác nhân thiên địch như sinh vật ăn mồi, côn trùng sống cạnh tranh, hoặc những tác nhân gây bệnh tham gia vào việc điều tiết quần thể. - Nấm: Rất nhiều loài nấm có thể sử dụng để phòng chống véc tơ, các loài có hiệu quả nhất thuộc giống Coelomyces. - Nguyên sinh động vật: Tất cả giun tròn đang được nghiên cứu, áp dụng như những tác nhân phòng chống muỗi, trong đó có 3 loài là đối tượng hay được sử dụng, quen thuộc nhất là Romanomermis culicvirax. Những kết quả thử nghiệm trên thực địa chứng tỏ rằng, việc khống chế vec tơ dựa trên các loài giun tròn trong thực tế ít có hiệu quả [2], [4]. - Vi rút: Có thể sử dụng để loại trừ véc tơ, hiện nay qua nghiên cứu có gần 600 vi rút đã được phân lập để loại trừ côn trùng gây hại cây trồng và chỉ có vài chục loại vi rút có khả năng ức chế hoặc loại trừ được vec tơ truyền bệnh. - Vi khuẩn: Một số công ty đã ứng dụng sản xuất các sản phẩm có thành phần Bacillus thiorigiensis để phòng chống muỗi truyền bệnh SXHD. Hai loại vi khuẩn đang được sử dụng nhiều trong phòng và chống véc tơ là Bacillus thiorigiensis và Bacillus sphucrium. [2],[5]. - Động vật ăn lăng quăng: + Cá: ở các nước Châu Âu, Châu Mỹ đã sử dụng rộng rãi loài cá Gambusia affinis ăn lăng quăng số lượng lớn. Ở Việt Nam, nghiên cứu cá ăn lăng quăng muỗi được áp dụng có kết quả tốt trong phòng chống SXHD và sốt rét nhiều năm nay. Tuy nhiên, biện pháp này chỉ áp dụng được ở các dụng cụ chứa nước có kích thước lớn, còn các loại dụng cụ nhỏ và các vật phế thải không thể áp dụng được trong khi số lượng các dụng cụ chứa nước nhỏ và các loại phế thải như vỏ đồ hộp, bát kê chân tủ, lọ 10 đựng hoa, lốp xe hỏng, vỏ dừa…là nơi có thể trở thành ổ chứa lăng quăng Aedes aegypti rất đáng ngại. Vì vậy mà chúng ta cần phải áp dụng song song giữa thả cá ở dụng cụ chứa nước lớn với các biện pháp vệ sinh môi trường làm giảm nguồn sinh sản của muỗi, thông qua giáo dục y tế và sự tham gia của cộng đồng. +Mesocyclops Từ năm 1987 đến 1989, đã xác định có 8 loài Mesocyclops tại Việt Nam. Mesocyclops đã có sẵn trong nước sinh hoạt hàng ngày của người dân, chiếm 84,6%. Một quần thể ban đầu gồm 10 mesocyclops, sau 1 tháng diệt ít nhất 450 lăng quăng Aedes aegypti mỗi ngày. Kết quả phòng thí nghiệm chứng tỏ khả năng diệt lăng quăng Aedes aegypti của Mesocyclops là rất cao so với kích thước và trọng lượng cơ thể chúng, trong đó Mesocyclops ruttneri có khả năng diệt lăng quăng cao nhất. 1.1.4. Hậu quả bệnh sốt xuất huyết Dengue ảnh hƣởng đến kinh tế - xã hội Bệnh SXHD là một bệnh truyền nhiễm có nguy cơ đe dọa đến sức khỏe, tính mạng của mọi người dân, bệnh thường gặp ở trẻ em lứa tuổi từ 2 – 15 tuổi ở khu vực phía Nam trong đó có huyện Trần Văn Thời tỉnh Cà Mau; Trẻ nhỏ mắc bệnh đòi hỏi phải có sự chăm sóc của cha mẹ hoặc người lớn làm ảnh hưởng đến thời gian, sức lao động ở người lớn và kinh tế gia đình bị giảm sút, người nhà còn phải chi phí khoản tiền chữa bệnh, ở miền Nam trong đó có Cà Mau người bệnh đi khám bệnh ở phòng mạch tư rất đông do thói quen mặc dù chi phí cho khám chữa bệnh rất tốn kém dù trẻ em dưới 6 tuổi được chi trả bảo hiểm. Thời gian bệnh trung bình là 7-10 ngày. Do vậy, công tác chăm sóc trẻ em lâu ngày gây ảnh hưởng rất nhiều đến công ăn việc làm và có thể bị mất việc. Chi phí trực tiếp và gián tiếp cho điều trị và chăm sóc rất tốn kém; trung bình là 2.458.880 đồng theo Hội nghị đánh giá hai năm hoạt động dự án của Cục Y tế dự phòng Việt Nam [3]. Mặc khác, chi phí gián tiếp cho công tác huy động nhân dân làm tổng vệ sinh môi trường, chi phí cho công tác xử lý ổ dịch nhỏ, chi phi hội nghị, hội thảo để tìm ra các giải pháp hoặc giảm lượng khách đến tham quan du lịch,… là rất lớn. 11 Ở Thái Lan, chỉ trong vụ dịch SXHD năm 1980, đã chi 6,8 triệu USD cho điều trị và diệt muỗi. Ở Đông Nam Á hàng năm đã phải chi hàng triệu USD cho diệt muỗi truyền SXHD, song hiệu quả thu được chẳng đáng là bao [64]. Ưu tiên cho chương trình kiểm soát Dengue chứng tỏ không thành công bởi vì chúng rất đắt tiền, sự tham gia của cộng đồng hoặc giáo dục sức khỏe chỉ có trong trường hợp khẩn cấp [3]. Số lượng lớn bệnh nhi nhập viện không những gây quá tải cho khoa nhi ở các bệnh viện lớn mà ngay cả ở tuyến tỉnh và huyện đều gặp phải trong tình trạng đó. Nhà nước phải chịu rất nhiều áp lực để giải quyết bài toán khó về kinh phí. 1.2. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ SỐT XUẤT HUYẾT Ở VIỆT NAM VÀ TRÊN THẾ GIỚI Bệnh SXH được biết cách đây hơn 3 thế kỷ, ở khu vực nhiệt đới, Á nhiệt đới ôn đới, còn gọi là bệnh trúng nước, bệnh được mô tả giống như sốt Dengue và được ghi chú về triệu chứng và điều trị trong tự điển bách khoa xuất bản từ đời Tần-Trung Hoa vào năm 265-420 sau công nguyên [2],[55]. 1.2.1.Tình hình dịch tễ học của bệnh sốt xuất huyết trên thế giới - Dịch SXHD được ghi nhận đầu tiên vào năm 1635 ở Tây Ấn Độ - Dịch được xác định do vi rút Dengue gây ra được Benjamin Rush mô tả vào năm 1780 ở Philadelphia và trường hợp đầu tiên được báo cáo năm 1789, nhưng nguyên nhân do vi rút và muỗi truyền thì chỉ được nói đến đầu thế kỷ 20. - Năm 1897, một vụ dịch SXH được ghi nhận ở Australia, bệnh SXH tương tự cũng được ghi nhận ở Hy Lạp vào năm 1928 và Đài Loan năm 1931. Đông Nam Á vụ dịch đầu tiên được ghi nhận ở Philippine vào năm 19531954, Bangkok (Thái Lan) vào năm 1954 và 1958, Singapore và Thành phố Hồ Chí Minh (Việt Nam) năm 1960, Penan (Malaysia) và Seno (Lào) 1962, Calcuta (Ấn Độ) năm 1963, Srilanka năm 1965-1966, Jakarta (Indonexia) năm 19681969, Rangun (Myanmar) năm 1970, [3], [55] 12 Ở khu vực Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương, 3 nước có dịch lưu hành nặng nhất là Thái Lan, Malaysia và Việt Nam; dịch đang lan ra diện rộng cả thành phố-thị xã-thị trấn-nông thôn và ven biển [17],[93]. Khoảng thời gian giữa năm 1975 và 1995, SXHD xảy ra ở 102 nước thuộc khu vực của Tổ chức Y tế Thế giới, trong đó Đông Nam Á có 7 nước dịch lưu hành, ở trong khu vực này tỷ lệ mắc SXH Dengue tăng lên đáng kể trong vòng 17 năm qua và từ năm 1980 trở lại dây (1999) số mắc đã tăng lên gấp 5 lần so với 30 năm trước [5],[55]. Nguyên nhân góp phần làm vi rút Dengue lan tràn mạnh là do số người di chuyển giữa các trung tâm đông dân cư trên thế giới. - Dịch SXH đầu tiên ở Singapore bắt đầu từ năm 1901, sự bùng nổ năm 1960 làm 70 ca nhập viện. Singapore là nước phát triển công nghiệp hóa nằm trong vùng dịch nên đã sử dụng test phát hiện Dengue để sàng lọc. Tỷ lệ huyết thanh nhiễm Dengue ở Singapore là 45% ở 4 triệu dân. Năm 2005, có 14.209 ca mắc có biểu hiện triệu chứng, trong đó thanh thiếu niên và người trưởng thành là 80% [77]. Hình 1.3. Bản đồ phân bố Virus Dengue và véc tơ truyền bệnh năm 2008 [Nguồn:www.treehugger.com/world-dengue-virus-distirb. Map world distribution of dengue viruses and their mosquito vector, Aedes aegypti] 13 Tổng kết tình hình SXHD trên toàn Thế giới, hiện có 102 nước thuộc 5 khu vực, trong đó Châu Mỹ có 42 nước có dịch SXHD lưu hành và là khu vực có SXHD lưu hành thường xuyên sau khu vực Châu Á. Châu Phi trước kia gần như không có dịch SXH lớn nhưng 15 năm trở lại đây, dịch SXH đã xảy ra và hiện có 20 quốc gia đang có dịch sốt Dengue lưu hành. Phía đông Địa Trung Hải có 4 nước có dịch SXHD lưu hành, các vụ dịch lớn gần đây xảy ra ở Ả rập Xê Út và Pakistan; 9 nước thuộc khu vực Tây Thái Bình Dương và 7 nước thuộc khu vực Đông Nam Á đang có dịch SXHD lưu hành. 1.2.2. Đặc điểm dịch tễ sốt xuất huyết ở Việt Nam Sốt Dengue và SXH Dengue được du nhập vào Việt Nam từ những năm 1960 cho đến nay, trở thành một bệnh dịch lưu hành ở nước ta, là vấn đề y tế quan trọng ở Việt Nam từ hơn 3 thập niên qua, số mắc và số chết do bệnh SXH liên tục gia tăng và là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến nhập viện và tử vong ở trẻ em [3]. Bệnh không chỉ xuất hiện ở đô thị mà cả vùng nông thôn, nơi có muỗi véc tơ truyền bệnh. - Dịch SXHD được ghi nhận đầu tiên ở miền Bắc vào năm 1958 do Chu Văn Tường thông báo về một vụ dịch SXH quy mô nhỏ xảy ra ở Hà Nội. Mặc dù chưa phân lập được tác nhân gây bệnh, các tác giả đã mô tả về mặt lâm sàng 68 bệnh nhân nằm viện với các triệu chứng đặc trưng của bệnh sốt Dengue, tỷ lệ tử vong lên tới 7% trong các trường hợp nghiên cứu. - Đến năm 1960 một vụ dịch lớn xảy ra với 182.173 trường hợp mắc và tỷ lệ tử vong 0,018%. Vụ dịch lớn thứ hai xảy ra vào năm 1969 với 46.204 trường hợp mắc và tỷ lệ tử vong là 0,37% [6],[36]. - Ở miền Nam, dịch SXHD xảy ra lần đầu tiên vào năm 1960 với 60 bệnh nhi tử vong. Đến năm 1963 dịch bùng phát ở Cái Bè, Châu Đốc, Hồng Ngự, Tân Châu, Cao Lãnh với 331 trường hợp phải nhập viện và có 116 trường hợp tử vong [8], [9]. 14 - Miền Trung, dịch SXHD xảy ra năm 1969 có 1.648 trường hợp mắc và tử vong 54 trường hợp. Năm 1974 dịch bùng phát mạnh ở ven biển Miền Trung làm mắc 14.320 trường hợp và tử vong 986. -Tỉnh Bình Thuận là một tỉnh nằm trong vùng dịch SXH ở nam VN. Từ 4/2001 đến 3/2002, mẫu huyết thanh của bệnh nhân sốt không rõ nguyên nhân cấp tính được thu thập ở 12 trạm y tế xã ngay khi vào viện và sau đó 3 tuần để chẩn đoán huyết thanh học. Tất cả 697 bệnh nhân được thu mẫu xét nghiệm tìm kháng thể kháng virus Dengue gồm test IgG và IgM. - Dịch sốt Dengue SXH Dengue bùng nổ theo chu kỳ khoảng 3 – 5 năm. Năm 1998 trên toàn quốc bùng nổ vụ dịch lớn, số mắc bệnh và tử vong cao; số mắc là 234.920 người, tử vong 372 tại 56/61 tỉnh/thành phố. Từ năm 1991, số trường hợp mắc và tử vong do SXHD ở các tỉnh khu vực miền Bắc giảm dần. Trong khi đó, số mắc và chết do SXHD ở các tỉnh miền Trung và miền Nam tăng lên đáng kể mà cao điểm là vụ dịch năm 1998 có 234.920 trường hợp mắc và 377 trường hợp tử vong. Hiện nay SXHD là nguyên nhân tử vong hàng đầu trong 10 bệnh truyền nhiễm nguy hiểm ở nước ta với trung bình là 75.493 trường hợp mắc và 238 trường hợp tử vong mỗi năm [4],[44],[45]. Bảng 1.1.Tỷ lệ mắc và chết SXHD/ 100.000 dân ở Việt Nam. Năm Số mắc Số mắc/100.000 dân Số chết C/M (%) 2005 57.890 70,57 53 0,091 2006 77.640 94,64 68 0,087 2007 104.465 127,34 88 0,084 2008 96.422 112,12 97 0,11 2009 105.370 128,45 87 0,082 (Nguồn: Số liệu của Cục Y tế dự phòng)[8],[9] 15 Bảng 1.2.Tỷ lệ mắc và chết SXHD/ 100.000 dân ở khu vực phía Nam Năm Số mắc Số mắc/100.000 dân Số chết C/M (%) 2005 44.277 153,1 47 0,106 2006 65.706 201,1 62 0,094 2007 87.950 263,6 81 0,092 2008 82.592 248 90 0,11 2009 64.778 183 64 0,098 (Nguồn: Số liệu của Viện Pasteur TPHCM)[6], [7] 1.3. CÁC NGHIÊN CỨU SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM 1.3.1.Các nghiên cứu sốt xuất huyết Dengue trên thế giới - Arun K Raju (2003), Thực hiện chương trình giám sát vector để giảm nguồn lăng quăng của muỗi Aedes aegypti tại cộng đồng khu đô thị Lautoka, Viti Levu, Fiji Islands (Quần đảo Thái Bình Dương) cho thấy tỷ lệ DCCN cho loài Aedes albopictus cũng giảm đáng kể từ 33% xuống 5% đối với lốp xe và từ 42% xuống 8% các vật phế thải khác. Tất cả ba chỉ số muỗi (PI, CI và BI) đã thấp hơn đáng kể sau khi vệ sinh các vật chứa từ tháng 3 đến tháng 5. Đến tháng 9, không tìm thấy lăng quăng [65]. - Anupong Sujariyakul, (2005), Đánh giá các trường hợp sốt xuất huyết ở được thực hiện tại Songkhla, miền nam Thái Lan, trong Tháng 10-12 năm 2001, Các yếu tố loại nhà, sự hiện diện của các vật chứa nước phế thải và nhà láng giềng. Trong số tất cả các loại nhà ở, nhà ở truyền thống có nguy cơ bệnh SXH thấp hơn trong khi cửa hiệu buôn bán (nhà ở tại một hàng kết nối với nhau bởi một con đường đi bộ thông thường) là nguy cơ cao. Trẻ em sống trong một căn vật chứa nước phế thải có tỷ lệ nguy cơ OR =1,76 lần so với những người sống trong một ngôi nhà mà không có chúng [66]. - Farizah Hairi (2003), Nghiên cứu kiến thức, thái độ và thực hành (KAP)về SXH Dengue trong cộng đồng nông thôn huyện Kuala Kangsar 16 (Malaysia) Trong số 200 người được phỏng vấn có 82,0% nguồn thông tin chính về sốt xuất huyết được từ Radio, Tivi. Đánh giá cho thấy rằng tốt kiến thức không nhất thiết dẫn đến thực hành tốt. Thông tin đại chúng là một phương tiện quan trọng để truyền đạt thông điệp về sức khỏe cho cộng đồng ngay cả trong số các dân cư nông thôn. Do đó nghiên cứu và phát triển các chiến lược giáo dục để cải thiện hành vi và thực hành là biện pháp hữu hiệu giảm nguy cơ bệnh SXH. - Kittigul L, Suankeow K (2003), Nghiên cứu mô tả cắt ngang ở tỉnh Ang Thong, khu vực trung tâm của Thái Lan, để đánh giá kiến thức, thái độ, và thực hành (KAP) của người chăm sóc. Để phân biệt các trường hợp sốt xuất huyết, đánh giá lâm sàng và chẩn đoán. Các bệnh sốt xuất huyết (9 cas, 12,2%) và bệnh sốt xuất huyết dengue (65 cas, 87,8%). Có 9 bệnh nhân có hội chứng sốc dengue, nhưng không có tử vong. Có 131 chăm sóc viên trẻ em đã được phỏng vấn về KAP của SXH. Phần lớn trong số họ là các bà mẹ có trình độ học vấn tiểu học Một nửa của chăm sóc viên là người lao động. Kiến thức SXH của chăm sóc viên của các trường hợp bệnh, không bệnh và sinh viên khỏe mạnh gần như giống nhau. Tuy nhiên, các trường hợp sốt xuất huyết có đốm XH được công nhận như một dấu hiệu nguy hiểm, giá trị của p = 0,006. Kết quả chỉ ra rằng bệnh SXH là một vấn đề y tế công cộng mà mọi người cần có kiến thứ để ngăn ngừa và kiểm soát thành công SXH [78]. Matta S., Bhalla S (2006), [81], Nghiên cứu KAP ở NewDeli Ấn Độ. Qua 338 nam và 162 nữ được phỏng vấn. Có 82,4 % được hỏi biết rằng sốt xuất huyết sốt được truyền bởi muỗi và 54 người cho rằng liên quan sốt xuất huyết với người truyền qua người. Có 309 người (61,8%) có thể liệt kê một trong những triệu chứng (sốt), 103 (20,6%) người có thể liệt kê 2 triệu chứng (sốt, chảy máu) và 56 (11,2%) người có thể liệt kê 3 triệu chứng của xuất huyết (sốt, nhức đầu và chảy máu). Có 399 người (79,8%) được biết về nơi muỗi sinh sản. 42,4% người biết ở dụng cụ phế thải. 17 1.3.2.Các nghiên cứu sốt xuất huyết Dengue ở Việt Nam + Năm 1996 sau 04 tuần lễ thả cá thử nghiệm ở ấp 04, xã Tân Thuận Đông, huyện Nhà Bè, TP. Hồ Chí Minh cho kết quả chỉ số lăng quăng Aedes aegypti giảm đi 05 lần, chỉ số vật chứa lăng quăng Aedes aegypti giảm đi 45% + Năm 1996, qua một thử nghiệm tại ấp 03, xã Hưng Long, huyện Bình Chánh, TP. Hồ Chí Minh, dùng cá bảy màu diệt lăng quăng Aedes aegypti cho kết quả rất tốt. Sau 03 tuần lễ, các chỉ số lăng quăng giảm 100% và kéo dài suôts 18 tuần lễ, các chỉ số muỗi trưởng thành cũng giảm dần. kết quả khảo sát muỗi và lăng quăng tại ấp 03, xã Hưng Long, huyện Bình Chánh, TP. Hồ Chí Minh trước và sau thả cá năm 1996. Bảng 1.3. Kết quả khảo sát muỗi và lăng quăng tại ấp 03, xã Hưng Long, huyện Bình Chánh, TP. Hồ Chí Minh [22]. Tuần Trước Sau thả cá Các chỉ số thả cá 1 2 3 4 6 8 10 12 14 16 18 Cs. Breteau 160 80 40 0 0 0 0 0 0 0 0 0 Cs. Vật chứa (+) 19.2 9.8 4.7 0 0 0 0 0 0 0 0 0 MĐ.Ades aegypti 1.8 1.1 0.9 0.7 0.7 0.5 0.6 0.4 0.7 0.2 0.4 0.3 Ghi chú: Các chỉ số muỗi và lăng quăng tại 1(đối chứng) không thay đổi đáng kể. + Năm 2006, Tại huyện Bến Lức, tỉnh Long An học sinh thực hiện diệt lăng quăng xung quanh trường và tại nhà học sinh vào mỗi thứ bảy, chủ nhật cuối tuần trong liên tiếp 8 tuần các chỉ số như HI, BI đều giảm [47]. + Năm 2007, Tại TP Cần Thơ, Nguyễn Trung Nghĩa - Nguyễn Đỗ Nguyên áp dụng biện pháp kiểm soát muỗi truyền bệnh sốt xuất huyết với sự hợp tác của học sinh, kết quả các ca mắc giảm, chỉ số HI, BI đều giảm [26]. 18 Bảng 1.4. Các nghiên cứu về mức độ hiểu biết bệnh SXH Nội dung Tác giả Nguyễn Thị Kim Tiến [60] Lý Lệ Lan [30] Trần Như Hải [21] Trần Kim Long [33] 2009 Huỳnh văn Quyên 2009 [ 51] Trương Đình Định[16] Địa điểm và thời gian Có biết về bệnh Khu vực phía Nam, 1998 91,1% Q5, Tp Hồ Chí Minh, 2004 93,1% H. Đắc Nông, tỉnh Đắc Nông 2001 96,55% Vĩnh Thuận Đông, huyện Long Mỹ, 97,5% Hậu Giang Huyện cần Giuộc, tỉnh Long An Quảng Bình, 2005 Biết nguyên nhân 78,7% 92,2% Biết triệu chứng Sốt: 71,3% XH: 47,6% 92,58% 54% Sốt: 8,61% XH: 2,43% 98,0% Sốt: 85,5% 100% Sốt :83,9% 68,5 98,5% 66,5 90,5% 1.4. TÌNH HÌNH SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE Ở TỈNH CÀ MAU VÀ HUYỆN TRẦN VĂN THỜI TỈNH CÀ MAU. 1.4.1. Tình hình sốt xuất huyết Dengue ở tỉnh Cà Mau Cà Mau là tỉnh cực Nam của tổ quốc, diện tích tự nhiên 5.211 km2, có 9 đơn vị huyện và thành phố, 101 xã phường, số khóm ấp 932. Dân số chung: 1.279.200; tỉnh Cà Mau là vùng đồng bằng ven biển có tỷ lệ bệnh SXH lưu hành quanh năm. Về khí hậu có nhiệt độ từ 26-27oC, độ ẩm khoảng 81%, lượng mưa trung bình 2.300 mm/năm mùa mưa từ tháng 5-10. Lượng nước bề mặt ở những vùng ven biển nuôi tôm chịu ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều. Về môi trường sinh thái, khí hậu có nhiệt độ và lượng mưa trung bình cao nhất trong khu vực. Môi trường sống chưa được cải thiện còn ô nhiễm nặng nề, dân cư trình độ dân trí còn thấp, di biến động dân số cao, bệnh SXH là mối lo ngại rất 19 lớn cho mọi người, những trẻ bụ bẩm đa số con nhà giàu có, con của các quan chức khi mắc bệnh thường nặng và tử vong cao nên mọi người rất lo sợ vào những năm 1985-1995 phương tiện chẩn đoán, thuốc men thiếu thốn, số trẻ em mắc bệnh và tử vong rất cao là vấn đề sức khỏe nghiêm trọng của cộng đồng. Trong 10 năm trở lại đây đã xảy ra 3 vụ dịch, năm 2000, 20004, 2008 với số mắc từ 4.000-8.000 trường hợp tử vong hàng chục trường hợp ở thời điểm này công tác thông kê báo cáo chưa tốt số trường hợp mắc và chết còn bỏ sót do ở Cà Mau lúc này ý thức về khám chữa bệnh SXH của người dân chưa tốt thích chữa ở các phòng mạch tư mà cụ thể là y tá tư của chế độ cũ, tự chữa tại nhà hoặc các lang y nên hậu quả để lại rất nặng nề số trẻ nặng do vào viện muộn và tử vong cao. Cho nên phòng chống SXH là nhiệm vụ lớn mà Đảng chính quyền ngành y tế và nhân dân tỉnh Cà Mau hết sức quan tâm, đầu tư lớn về nguồn lực, kinh phí và giải pháp để phòng chống SXH[12], [63] Bảng 1.5. Tình hình mắc, chết do sốt xuất huyết Dengue giai đoạn 20012009 ở tỉnh Cà Mau Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 Chỉ số Số mắc 789 230 944 Số chết 01 00 02 04 05 05 02 08 00 Sốc độ III&IV 102 11 283 860 351 607 325 1560 240 150 590 217 883 130 SD 4221 1540 3636 1578 8284 924 Nguồn số liệu: Báo cáo Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh Cà Mau [12],[63] 1.4.2. Tình hình sốt xuất huyết Dengue ở Huyện Trần Văn Thời Huyện Trần Văn Thời: phía đông giáp thành phố Cà Mau, phía Nam giáp Vịnh Thái Lan; phía Bắc giáp huyện U Minh; phía Tây giáp huyện Phú Tân. Huyện gồm: 11 xã, 02 thị trấn. Có diện tích tự nhiên là 716 km 2 , Dân số chung 20 205.230 người, trong đó: Nam 100.563, nữ 104.667; trẻ em dưới 1 tuổi 2.479, dưới 5 tuổi 12.395; Phụ nữ tuổi sinh đẻ là 49.580 người [12], [63]. Đây là huyện ven biển cho nên người dân có thói quen lưu trữ nước trong nhà dùng để uống và sinh hoạt đây chính là những yếu tố thuận tiện cho dịch bệnh Bảng 1.6.Tình hình mắc/chết SXHD huyện Trần Văn Thời tỉnh Cà Mau. Năm Nội dung 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 Số mắc 113 31 164 622 199 231 128 1776 377 Số chết 00 00 00 01 02 00 00 04 00 Sốc độ III&IV SD 26 1 45 125 31 49 31 390 50 08 08 08 05 10 ( Nguồn số liệu: Báo cáo Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh Cà Mau)[63]. Bảng 1.7. Tình hình mắc/chết SXHD 05 xã, thị trấn huyện Trần Văn Thời tỉnh Cà Mau. [63] STT Tên xã ( M/C) 2004 2005 2006 2007 2008 2009 1 Khánh Bình 26 6 5 3 74 05 2 Khánh Bình Đông 32 15 17 11 272/1 13 3 Trần Hợi 55 15 21 13 171 17 4 Phong Lạc 44 4 6 5 74 05 5 Thị trấn Trần Văn Thời 24 10 18 12 161 15 181 50 67 44 752/1 55 Tổng cộng 1.5. TÌNH HÌNH PHÒNG CHỐNG SỐT HUYẾT TẠI HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU Hàng năm, ngành y tế Trần Văn Thời có đề ra chỉ tiêu 95% hộ gia đình được củng cố kiến thức phòng chống dịch, ký kết không có lăng quăng trong hộ gia đình[63]. Triển khai chiến dịch diệt lăng quăng 2 lần/năm, đảm bảo không để dịch bùng phát. Công tác xử lý ổ dịch nhỏ được chú trọng bồi dưỡng đủ về
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất