ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong nền kinh tế thị trường, đối với các doanh nghiệp thì lợi nhuận là vấn đề
quan tâm hàng đầu. Lợi nhuận vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy kinh
doanh phát triển. Lợi nhuận là chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp,vì vậy mà sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp phụ
thuộc vào việc doanh nghiệp có tạo ra được lợi nhuận hay không. Công việc sản
xuất kinh doanh nhằm thu được lợi nhuận . Ngược lại thu được lợi nhuận lại là
điều kiện cơ bản để đảm bảo tình hình tài chính,đảm bảo sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp được lâu dài và ổn định.
Tuy nhiên trong thực tế không Ýt các doanh nghiệp bị giải thể,phá sản do
chưa thích ứng với nền kinh tế thị trường ,tổ chức sản xuất kinh doanh chưa hộp
lý,không khai thác tốt các tiềm lực vốn có của doanh nghiệp,và kết quả là doanh
nghiệp bị thua lỗ triền miên.
Trong thời gian thực tập tốt nghiệp ở Xí nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng
Hàm Rồng - Thanh Hoá ,được sự đồng ý của khoa quản trị kinh doanh ,dưới sự
hướng dẫn của thầy giáo Phạm Khắc Hồng,tôi tiến hành thực tập và nghiên cứu đề
tài : “Nghiên cứu tình hình sản xuất kinh doanh và khả năng tăng lợi nhuận
tại Xí nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng Hàm Rồng - Thanh Hoá".
Tôi hy vọng nghiên cứu đề tài trên tôi sẽ có điều kiện cũng cố và nâng cao
kiến thức đã học ở trường ,đồng thời học hỏi thêm kiến thức thực tế,và chuẩn bị
sau khi nra trường làm việc ngoài thực tiễn được tốt hơn.
Nội dung của đề tài gồm các phần sau đây:
Phần đặt vấn đề
Phần I : Cơ sở lý luận về doanh nghiệp - Sản xuất kinh doanh và lợi nhuận .
Phần II : Đặc điểm tình hình chung của Xí nghiệp.
Phần III: Phân tích tình hình sản xuất kinh doanh và sự biến động lợi nhuận
của Xí nghiệp trong 3 năm (1999 - 2000 - 2001).
Phần IV: Một số biện pháp đề suất nhằm tăng lợi nhuận cho Xí nghiệp.
Phần kết luận.
PHẦN I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP - SẢN XUẤT
KINH DOANH VÀ LỢI NHUẬN
I. DOANH NGHIỆP VÀ NHIỆM VỤ CỦA DOANH NGHIỆP:
1. Khái niệm kinh doanh .
Kinh doanh là việc thực hiện một,một số hoặc tất cả các công đoạn của quá
trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện một dịch vụ nào đó
trên thị trường nhằm mục đích thu lợi nhuận .
2. Doanh nghiệp .
2.1. Khái niệm doanh nghiệp và vị trí của doanh nghiệp trong nền kinh tế
quốc dân.
2.1.1. Khái niệm doanh nghiệp .
Doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế được đăng ký thành lập để thực hiện các
hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục tiêu thu lợi nhuận .
Doanh nghiệp có thể là một tổ chức pháp nhân hoặc cá nhân có đầy đủ điều
kiện về vốn, lao động, cơ sở vật chất kỹ thuật . . . theo quy định của pháp luật,
đứng ra kinh doanh , hoạt động theo nguyên tắc, mục tiêu và thống nhất thực hiện
hạch toán kinh doanh hoàn chỉnh, có nghĩa vụ và được pháp luật thừa nhận cũng
như bảo vệ.
2.1.2. Vị trí của doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân:
Như chóng ta đã biết nền kinh tế của nước ta đã chuyển từ nền kinh tế tự cấp,
tự túc sang nền kinh tế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Do đó doanh nghiệp có vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân. Nã là một đơn vị sản xuất trong nền kinh tế quốc dân. ngoài lợi Ých về
mặt kinh tế ra doanh nghiệp còn mang lại lợi Ých về mặt xã hội, . . . Góp phần phát
triển nền kinh tế của đất nước, xã hội ổn định. . .
- Doanh nghiệp là một chủ thể sản xuất hàng hoá: Khác với nền kinh tế tập
trung, trong thời kỳ nền kinh tế thị trường doanh nghiệp đóng vai trò là chủ thể sản
xuất chứ không phải đóng vai trò là một cấp quản lý thừa hành mệnh lệnh của cấp
trên. Doanh nghiệp có quyền chủ động trong sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ
pháp luật cho phép và chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của mình.
- Doanh nghiệp là một pháp nhân kinh tế bình đẳng trước pháp luật: Trước
pháp luật doanh nghiệp được xem là một chủ thể có đầy đủ tư cách pháp nhân như
các tổ chức khác trong nền kinh tế thị trường .
- Doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế, là tế bào của nền kinh tế quốc dân:
Nền kinh tế của nước ta hiện nay là nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ
chế thị trường. Vì vậy doanh nghiệp cũng là một trong những thành phần kinh tế
đó. Nền kinh tế quốc dân là một tổng thể thống nhất, mỗi thành phần kinh tế trong
đó là một tế bào, là một mắt xích của tổng thể đó. Nhà nước tạo môi trường thuận
lợi để các tế bào này tự do kinh doanh trong hành lang pháp luật cho phép. Môi
trường mà Nhà nước tạo ra đảm bảo sự thống nhất giữa lợi Ých của mỗi thành
phần kinh tế với lợi Ých của nền kinh tế quốc dân.
- Doanh nghiệp là một tổ chức xã hội : Doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế
do vậy mà nó bao gồm một tập hợp người gắn bó với nhau, cùng tiến hành hoạt
đông kinh doanh theo mục tiêu đã đặt ra. Ngoài việc chăm lo đời sống vật chất,
tinh thần doanh nghiệp còn bồi dưỡng, nâng cao trình độ văn hoá, khoa học kỷ
thuật và chuyên môn cho cán bộ công nhân viên chức. Ngoài việc kinh doanh ,
doanh nghiệp còn làm tốt trách nhiệm về các vấn đề xã hội như : Bảo vệ môi
trường, giữ gìn sự ổn định về chính trị, trật tự an ninh, an toàn xã hội . . .
2.2. Các mục tiêu của doanh nghiệp :
Trong nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay có rất nhiều các loại hình doanh
nghiệp , các đơn vị kinh doanh , có nhiều loại doanh nghiệp hoạt động trong các
lĩnh vực khác nhau. nhưng dù là loại hình nào hay ở lĩnh vực nào ? Thì các doanh
nghiệp đều có hệ thống các mục tiêu chung gồm có : Mục tiêu lợi nhuận , mục tiêu
cung ứng, mục tiêu phát triển và mục tiêu trách nhiệm xã hội. Trong đó mục tiêu
lợi nhuận là mục tiêu cơ bản, hàng đầu mà tất cả các doanh nghiệp đều mong muốn
đạt được mục tiêu này và nó được xem là mục tiêu trung taam của hệ thống các
mục tiêu.
2.2.1.Mục tiêu thu lợi nhuận :
Là một đơn vị kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Lợi nhuận có ý nghĩa
vô cùng quan trọng để một doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Doanh nghiệp cần
phải thu được lợi nhuận sau khi đã bù đắp đủ những chi phí sản xuất kinh doanh ,
làm nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước và trang trải những thiệt hại bất thường mà
doanh nghiệp phải chấp nhận để doanh nghiệp có thể phát triển.
Không có lợi nhuận doanh nghiệp chỉ có thể hoạt động cầm chõng và không
thể tái sản xuất mở rộng. Nếu thua lỗ thì doanh nghiệp không thể bảo toàn được
vốn và nhất định sẽ bị phá sản. Lợi nhuận là động lực thúc đẩy hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp .
2.2.2.Mục tiêu cung ứng:
Tất cả các doanh nghiệp muốn tồn tại đều phải có nhiệm vụ sản xuất , cung
ứng những sản phẩm, hàng hoá của mình để thoả mãn nhu cầu của thị trường . Đó
là lý do để doanh nghiệp tồn tại và đứng vững trong kinh doanh và thu được lợi
nhuận . Chất lượng các loại sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ mà doanh nghiệp cung
cấp ra thị trường càng cao thì càng được nhiều người tiêu dùng ưa chuộng, việc
kinh doanh càng phát triển và lợi nhuận thu được càng lớn. Vì vậy doanh nghiệp
phải biết dự đoán nhu cầu và thị hiếu của khách hàng, nắm bắt cơ hội, có kế hoạch,
chiến lược hợp lý và lâu dài, đưa ra những mặt hàng mới với mẫu mã và chất
lượng cao tạo điều kiện cạnh tranh và đứng vững trong thị trường.
2.2.3.Mục tiêu phát triển:
Mở mang sản xuất và phát triển không những là yêu cầu bình thường của một
doanh nghiệp mà còn là dấu hiệu lành mạnh của một nền kinh tế phát triển. Do đó
phấn đấu cho doanh nghiệp phát triển cũng có nghĩa là góp phần vào củng cố và
phát triển nền kinh tế quốc gia. Để thực hiện mục tiêu nayfnhaf kinh doanh cần bỏ
thêm vốn hoặc dành một phần lợi nhuận để mở rộng đàu tư, tăng thêm cơ sở vật
chất - kỹ thuật cho doanh nghiệp .
2.2.4.Mục tiêu trách nhiệm xã hội:
Doanh nghiệp vừa là một đơn vị kinh doanh thu lợi nhuận, vừa là một tổ chức
xã hội. Do vậy mục tiêu trách nhiệm xã hội là không thể thiếu, doanh nghiệp phải
có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của khách hàng, của những người cung ứng cho
mình và của cán bộ công nhân viên chức trong doanh nghiệp.
Quyền quan trọng nhất của người tiêu dùng là được thoả mãn nhu cầu ngày
càng tăng về số lượng và chất lượng sản phẩm mình cần. Doanh nghiệp phải có
trách nhiệm tạo công ăn việc làm cho người lao động, đảm bảo đời cống vật chất,
tinh thần của người lao động trong doanh nghiệp của mình ngày càng cao
Để thực hiện mục tiêu này doanh nghiệp phải tạo được uy tín với khách hàng,
từ đó sẽ tiêu thụ được nhiều sản phẩm, doanh thu lớn, lợi nhuận cao.
2.3. Nhiệm vụ của doanh nghiệp.
- Tổ chức quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Sử dụng có hiệu quả, bảo toàn và phát triển nguồn vốn hiện có trong doanh
nghiệp.
- Đổi mới hiện đại hoá công nghệ, trang thiết bị và các phương thức quản lý
doanh nghiệp.
- Thực hiện các nghĩa vụ đối với người lao động theo quy định của bộ luật lao
động, đảm bảo cho người lao động tham gia quản lý doanh nghiệp.
- Thực hiện chế độ kế toán thống kê thống nhất và chế độ báo cáo cho các cơ
quan nhà nước theo đúng pháp luật quy định.
- Chịu sự kiểm tra, thanh tra của nhà nước theo quy định của pháp luật.
2.4.Các vấn đề cần quan tâm để phát triển doanh nghiệp trong cơ chế thị
trường:
Trong nền kinh tế thị trường luôn luôn đòi hỏi các doanh nghiệp phải năng
động sáng tạo và thích nghi với nền kinh tế mới, thì doanh nghiệp với có thể tồn tại
được. Chính vì vậy các doanh nghiệp phải chủ động sản xuất kinh doanh, phát
triển ngành nghề, tăng số lượng sản phẩm bán ra. Làm được những điều trên doanh
nghiệp sẽ có khả năng tăng thêm lợi nhuận để tiếp tục tái sản xuất. Chủ động trong
sản xuất kinh doanh đòi hỏi doanh nghiệp phải năng động, sáng tạo, tìm ra những
nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng và sản xuất ra những sản phẩm hàng hoá
đang khan hiếm trên thị trường mà người tiêu dùng đang có nhu cầu cao. Sản phẩm
hàng hoá bán ra trên thị trường phải đảm bảo chất lượng, mẫu mã mới và đẹp, hợp
thị hiếu và hợp tói tiền của người tiêu dùng, đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Do
vậy mà trước khi tiến hành sản xuất các doanh nghiệp phải trả lời được các câu hỏi
sau: Sản xuất cái gì ? Sè lượng bao nhiêu ? Sản xuất như thế nào ? Sản xuất cho ai?
Trên cơ sở được thị trường chấp nhận các sản phẩm hàng hoá, với các điều
kiện của mình các doanh nghiệp có thể tăng sản phẩm bán ra, sau đó phát triển
ngành nghề. Để thực hiện được điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải áp dụng
khoa học kỹ thuật vào sản xuất, quản lý sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và
một điều hết sức quan trọng là phải luôn luôn bảo toàn và phát triển vốn sản xuất.
Trong su thế toàn cầu hoá nền kinh tế đất nước đã có nhiều thuận lợi cho các
doanh nghiệp tiếp thu, áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất. Từ đó sẽ
nâng cao được chất lượng sản phẩm hàng hoá để đủ sức cạnh tranh trên thị truờng.
Nguồn tài nguyên của đất nước có hạn và ngày càng bị cạn kiệt dần, để có thể tiếp
tục sản xuất liên tục, ổn định và lâu dài thì vấn đề quản lý, sử dụng hiệu quả nguồn
tài nguyên hết sức cấp bách và thiết thực. Vì vậy các doanh nghiệp phải biết tiết
kiệm, chống sử dụng lãng phí tài nguyên và các biện pháp tìm kiếm nguồn tài
nguyên khác rẻ hơn.
Vốn là yếu tố quyết định quan trọng trong sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Nếu không có vốn doanh nghiệp sẽ không thể tiến hành sản xuất kinh
doanh được. Vốn càng nhiều thì càng thuận lợi trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Nên điều mà doanh nghiệp phải thực hiện là làm thế nào
bảo toàn được vốn của doanh nghiệp và phát triển vốn cả về mặt số lượng và chất
lượng. Có như vậy doanh nghiệp với thực hiện được các nghĩa vụ đối với nhà nước
và xã hội, khẳng định được vai trò của mình trong nền kinh tế quốc dân.
3. Cơ cấu tổ chức sản xuất của doanh nghiệp :
Bất kỳ một doanh nghiệp sản xuất nào cũng gồm có 4 bộ phận chính trong cơ
cấu tổ chức sản xuất :
- Bé phận sản xuất chính
- Bé phận phục vụ sản xuất .
- Bé phận phân phối và tiêu thụ sản phẩm .
- Bé phận phục vụ đời sống.
3.1. Bộ phận sản xuất chính:
Bộ phận sản xuất chính là bộ phận trực tiếp sản xuất, kết hợp các yếu tố đầu
vào để tạo ra sản phẩm hàng hoá. Bộ phận này có nhiệm vụ sản xuất ra sản phẩm
hàng hoá theo kế hoạch, quy định của doanh nghiệp. Đây là bộ phân quan trọng
nhất của doanh nghiệp. Có vai trò rất quan trọng, tạo ra sản phẩm hàng hoá của
doanh nghiệp, quyết định số lượng và chất lượng sản phẩm. Ngoài ra còn tổ chức
lao động, sản xuất, quản lý lao động, tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Góp phần vào sự phát triển của doanh nghiệp và xã hội.
3.2. Bộ phận phục vụ sản xuất :
Là mét bộ phận của doanh nghiệp có vai trò phục vụ cho bộ phận sản xuất
chính nâng cao năng suất. Người sản xuất cứ sản xuất còn người phục vụ cứ phục
vụ. Bộ phận phục vụ sản xuất trong doanh nghiệp gồm có các công việc sau:
- Sửa chữa cơ khí: Làm nhiệm vụ bảo dưỡng và sửa chữa nhỏ hoặc lớn các
máy móc thiết bị, sửa chữa hoạc sản xuất các công cụ sản xuất thủ công. Những
công việc này không đòi hỏi kỹ thuật phức tạp nhưng lại thường xuyên xảy ra và
cần phài phục vụ kịp thời cho sản xuất. Riêng đối với công việc sửa chữa lớn nếu
cần thiết thì thuê ngoài là tốt hơn.
- Việc cung cấp năng lượng – vật tư cho sản xuất : Năng lượng – Vật tư cần
phải được cung cấp đủ, liên tục, ổn định và lâu dài.Nếu thiếu thì doanh nghiệp phải
ngừng hoạt động. đối với điện thì nên tạo mọi điều kiện để sử dụng điện của mạng
lưới điện quốc gia vì nó ổn định và rẻ hơn. Nếu doanh nghiệp có quy mô lớn cần
có máy phát điện phục vụ cho cán bộ công nhân viên. Về vật tư cần tìm đối tác tin
cậy có thể cung cấp vật tư cho doanh nghiệp được đảm bảo cả về số lượng và chất
lượng, phải có nhiều nguồn cung cấp vật tư để phục vụ sản xuất đảm bảo.
3.3. Bộ phận phục vụ đời sống:
Đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp
cũng là một yếu tố quan trọng góp phần vào kết quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp . Vì vậy mà doanh nghiệp phải tổ chức bộ phận phục vụ đời sống để đảm
bảo đời sống cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp được cải thiện và
nâng cao để họ yên tâm sản xuất thì cần phải có nhà ăn tập thể, căng tin, bệnh xá,
các nhà trẻ và trường học cho con em công nhân viên, các hoạt động văn hoá vui
chơi giải trí . . .
3.4. Bộ phận phân phối và tiêu thụ sản phẩm:
II. LỢI NHUẬN VÀ CÁC PHƯƠNG HƯỚNG NÂNG CAO LỢI NHUẬN DOANH
NGHIỆP.
1. Khái niệm và ý nghĩa của lợi nhuận.
1.1. Khái niệm lợi nhuận.
Lợi nhuận là một bộ phận của tích luỹ tiền tệ nó là số thu nhập còn lại sau khi
đã bù đắp chi phí bỏ ra trong quá trình sản xuất và nép thuế cho Nhà nước.
Lợi nhuận là mục tiêu rất quan trong, là mục tiêu hàng đầu đối với mỗi doanh
nghiệp tồn tại trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Mục tiêu cuối cùng của mỗi
doanh nghiệp là thu được lợi nhuận. để thu được lợi nhuận cao các nhà sản xuất
phải đưa ra các phương án sản xuất, cải tiến tổ chức bộ máy quản lý, cải tiến máy
móc thiết bị, kỹ thuật…sao cho hợp lý và hiệu quả nhất.
1.2. Ý nghĩa của lợi nhuận.
- lợi nhuận không chỉ là động lực của nền sản xuất hàng hoá tư bản mà còn là
động lực của nền kinh tế hàng hoá, nền kinh tế thị trường nói chung. Lợi nhuận
kích thích các chủ thể sản xuất kinh doanh hàng hoá cạnh tranh, ra sức đổi mới kỹ
thuật, công nghệ, đổi mới cơ chế quản lý, sử dụng tiết kiệm lao động, vật tư, máy
móc thiết bị, nhằm tăng năng suất lao động, tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá
thành, nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp.
- Lợi nhuận là chi tiêu phản ảnh chất lượng sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Thông qua lợi nhuận mà có thể thấy được sự phát triển hay suy sụp của
doanh nghiệp.
- Lợi nhuận là nguồn thu chủ yếu để thực hiện tái sản xuất củ toàn bộ nền
kinh tế và doanh nghiệp. Vì lợi nhuận là nguồn hình thành nên thu nhập của ngân
sách Nhà nước thông qua việc thu thuế lợi tức, trên cơ sở đó giúp Nhà nước phát
triển nền kinh tế xã hội. Một bộ phận lợi nhuận khác được để lại hình thành các
quỹ của doanh nghiệp, tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao đời sống
cán bộ công nhân viên.
- Lợi nhuận còn là một đòn bảy hết sức quan trọng thúc đẩy khuyến khích cán
bộ công nhân viên trong doanh nghiệp phát huy hết khả năng của mình nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Qua đó ta thấy lợi nhuận của doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng, chỉ có
qua phân tích mới đề ra được các biện pháp nhằm không ngừng nâng cao lợi nhuận
cho doanh nghiệp.
2. Các chỉ tiêu đánh giá lợi nhuận doanh nghiệp.
2.1. Mức lợi nhuận tuyệt đối.
Là tổng số lợi nhuận đã thực hiện được hoặc sẽ thực hiện được trong một thời
kỳ nào ( thường là 1 năm). Nó chính là phần thu nhập thuần tuý còn lại sau khi đã
nép thuế cho Nhà nước. Lợi nhuận tuyệt đối phụ thuộc vào tổng doanh thu, giá
thành và thuế phải nép.
Tổng lợi nhuận của doanh nghiệp được xác định theo công thức sau:
Lợi nhuận =
Trong đó: LN: Là tổng số lợi nhuận
DTi: Doanh thu của sản phẩm
Ztbi: Giá thành toàn bộ của sản phẩm i
Thi: Thuế doanh thu của sản phẩm i
I : Số loại sản phẩm
Chỉ tiêu này cho ta biết tổng lợi nhuận đạt được hoặc có khả năng đạt được
trong một thời kỳ nào đó của doanh nghiệp. Lợi nhuận tuyệt đối phản ánh tổng hợp
mọi mặt sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phản ánh tình hình sản xuất, tiêu
thụ mặt hàng của doanh nghiệp. Tuy nhiên chỉ tiêu này chỉ phản ánh được về quy
mô to hay nhỏ của lợi nhuận đạt được trong kỳ mà không thể dùng để so sánh chất
lượng sản xuất kinh doanh và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Bởi chỉ tiêu này không
chỉ chịu sự tác động của bản thân chất lượng công tác của doanh nghiệp mà còn
chịu sự ảnh hưởng bởi quy mô sản xuất của doanh nghiệp. Tức là chưa nói rõ được
mối quan hệ giữa lợi nhuận và các chi phí bỏ ra. Vì vậy để đánh giá được hiệu quả
sản xuất kinh doanh ta phải đi vào phân tích các chỉ tiêu lợi nhuận tương đối.
2.2. Tỷ suất lợi nhuận tương đối.
Là tỷ lệ phần trăm so sánh giữa tổng lợi nhuận đã thực hiện được hoặc sẽ thực
hiện được với tổng vốn kinh doanh, tổng doanh thu tiêu thụ và tổng giá thành toàn
bộ.
2.2.1. Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu.
Là tỷ lệ giữa tổng lợi nhuận thu được và toàn bộ doanh thu mà doanh nghiệp
thu được.
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu=
Chỉ tiêu này cho biết kết cấu của lợi nhuận trong doanh thu bán hàng hay mức
lãi trong giá bán đơn vị sản phẩm. Qua đó biết được hàm lượng lợi nhuận trong
mỗi sản phẩm cao hay thấp.
2.2.2. Tỷ suất lợi nhuận trên giá thành toàn bộ:
Là tỷ lệ phần trăm giữa tổng lợi nhuận thu được và giá thành sản phẩm hàng
hoá, dịch vụ tiêu thụ trong năm.
Tỷ suất lợi nhuận/ giá thành toàn bé =
Chỉ tiêu này cho biết 1 đồng chi phí bỏ ra thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Trong trường hợp không có sự biến động về giá cả và cơ cấu mặt hàng sản phẩm
tiêu thụ thì chỉ tiêu này phụ thuộc hoàn toàn vào giá thành sản phẩm hàng hoá. Nó
cho biết tình hình thức hiện kế hoạch hạ giá thành và mức độ tiết kiệm chi phí sản
xuất.
2.2.3. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn.
Là tỷ lệ phần trăm giữa tổng lợi nhuận thu được và toàn bộ số vốn doanh
nghiệp bỏ ra.
Tỷ suất lợi nhuận/ vốn=
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng vốn bỏ ra sau một thời kỳ nhất định thu
được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Nó cho biết được hiệu quả sử dụng vốn cố định,
vốn lưu động đưa vào sản xuất của doanh nghiệp. Từ đó nó cho phép đánh giá hiệu
quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp khác nhau về quy mô sản xuất.
Các chỉ tiêu biểu hiện lợi nhuận của doanh nghiệp càng lớn chứng tỏ hiệu quả
sản xuất kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp càng lớn. Vì vậy
doanh nghiệp cần phải tìm mọi biện pháp để không ngừng tiết kiệm hoa phí lao
động sống và lao động quá khứ, hạ giá thành sản phẩm, đồng thời đẩy mạnh việc
hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất kinh doanh đã đề ra, đảm
bảo chất lượng sản phẩm, mở rộng kinh doanh các loại hình khác để nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh.
Mục đích ta xây dựng lợi nhuận tuyệt đối là để so sánh, đánh giá các loại sản
phẩm khác nhau. từ đó làm cơ sở lùa chọn loại sản phẩm sản xuất tối ưu.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận và phương hướng nâng cao lợi
nhuận doanh nghiệp.
Nâng cao lợi nhuận là nhiệm vụ quan trọng nhất của tất cả các doanh nghiệp.
để tìm ra các biện pháp tăng lợi nhuận thì ta phải đi sâu phân tích các nhân tố ảnh
hưởng đến lợi nhuận. Từ đó giúp cho doanh nghiệp có thể khai thác triệt để khả
năng tiềm tàng của doanh nghiệp, góp phần nâng cao lợi nhuận.
Từ công thức xác định tổng lợi nhuận:
LN=
Ta thấy lợi nhuận có mối quan hệ tỷ lệ thuận với doanh thu tiêu thụ và tỷ lệ
nghích với chỉ tiêu giá thành toàn bộ và thuế. Mặt khác lợi nhuận là chỉ tiêu tổng
hợp, nói lên kết quả cuối cùng của sản xuất kinh doanh, mọi hoạt động diễn ra
trong quá trình sản xuất kinh doanh đều ảnh hưởng đến lợi nhuận, có những nhân
tố thuộc về chủ quan, có nhân tố thuộc khách quan:
3.1. Nhóm nhân tố chủ quan:
Đây là những nhân tố thuộc phạm vi của doanh nghiệp. Nhóm nhân tố này có
tác dụng tích cực hay tiêu cực đến lợi nhuận đều do các hoạt động chủ quan của
doanh nghiệp. Do đó các doanh nghiệp phải quan tâm, nghiên cứu và phân tích
chính xác ảnh hưởng của từng nhân tố đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp mình, đồng thời làm cơ sở cho việc lập kế hoạch cho năm sau.
đây cũng là hướng chính để có thể tìm biện pháp phát huy những nhân tố làm tăng
lợi nhuận và hạn chế các nhân tố làm giảm lợi nhuận. Thông qua nhóm nhân tố này
ta có thể biết được điều kiện sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp giữa các năm,
biết được mức độ cố gắng của doanh nghiệp trong việc phấn đấu hoàn thành kế
hoạch.
3.1.1. Ảnh hưởng của nhân tố khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ:
đây là nhân tố có quan hệ tỷ lệ thuận với lợi nhuận, trong điều kiện các nhân
tố khác không đổi thì việc tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ sẽ làm tăng lợi
nhuận.
Ảnh hưởng của nhân tố này đến lợi nhuận được xác định theo công thức:
trong đó:
Q1: khối lượng sản phẩm tiêu thụ kỳ phân tích
Qo: Khối lượng sản phẩm tiêu thụ kỳ gốc
go: Giá bán sản phẩm tiêu thụ năm trước
Tpo =
Đây là nhân tố quan trọng nhất, phản ảnh chất lượng của hoạt động sản xuất
kinh doanh. Việc phận tích một cách chính xác ảnh hưởng của nhân tố này để tìm
biện pháp tăng lợi nhuận là hướng cơ bản và đúng đắn, mang tính chất tích cực
nhất.
Trong kỳ để khối lượng sản phẩm tăng lên thì đòi hỏi khối lượng sản phẩm
sản xuất trong kỳ cũng phải tăng.
Để tăng khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ thì doanh nghiệp phải khai
thác và tận dụng triệt để các năng lực, tiềm năng của mình. Cải tiến kỹ thuật, máy
móc thiết bị đưa vào sản xuất, thực hiện tốt công tác phục vụ sản xuất và đời sống
của người lao động. Nâng cao trình độ chuyên môn và tay nghề cho cán bộ công
nhân viên phù hợp với máy móc thiết bị hiện đại và kỹ thuật tiên tiến.
Trong nền kinh tế thị trường sản phẩm hàng hoá sản xuất ra là để bán. chính
vì vậy doanh nghiệp muốn bán được nhiếu sản phẩm để tăng lợi nhuận thì trước
hết sản phẩm đem bán phải đảm bảo về chất lượng, mẫu mã đáp ứng nhu cầu
người tiêu dùng. Phải bố trí mạng lưới tiêu thụ hợp lý, có các chính sách và chiến
lược bán hàng như: quảng cáo và yểm trợ bán hàng…
Một yếu tố quyết định việc tiêu thụ sản phẩm đó là thị trường. Doanh nghiệp
phải tạo cho mình có được một thị trường tiêu thụ rộng lớn, ổn định, lâu dài.
Doanh nghiệp phải luôn tìm kiếm thị trường tiêu thụ mới cho mình.
3.1.2. Ảnh hưởng của nhân tố kết cấu sản phẩm.
Lợi nhuận của doanh nghiệp được hình thành từ nhiều loại hình kinh doanh
mặt hàng khác nhau. việc thay đổi loại hình sản xuất kinh doanh và kết cấu sản
phẩm theo phương hướng tăng sản lượng sản phẩm có tỷ lệ lợi nhuận đang được
ưa chuộng trên thị trường sẽ làm cho lợi nhuận của doanh nghiệp tăng lên.
ảnh hưởng của nhân tố này đến lợi nhuận được xác định theo công thức sau:
trong đó:
tp1- tpo: Là chênh lệch tỷ lệ lợi nhuận kỳ phân tích so với kỳ báo cáo
tp1=
tỷ lệ lợi nhuận năm trước =
3.1.3. Ảnh hưởng của giá thành sản xuất đến lợi nhuận.
Giá thành một đơn vị sản phẩm nhất định phụ thuộc vào năng suất lao động
của quá trình sản xuất ra sản phẩm, vừa phụ thuộc vào “đầu vào” của các yếu tố
sản xuất. Giá thành sản xuất có vai trò quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh
doanh của các đơn vị kinh tế. Do đó, trong nền kinh tế thị trường, việc tiết kiệm chi
phí sản xuất để hạ giá thành sản phẩm là yêu cầu thiết thực của mọi chủ thể sản
xuất kinh doanh đều phải quan tâm.
Giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh chất lượng công tác
của các hoạt động sản xuất kinh doanh. Nó được xác định theo công thức sau:
Trong đó:
Qtt: Là khối lượng sản phẩm tiêu thụ trong kỳ
Qđ: Là khối lượng sản phẩm tồn đầu kỳ
Zo: Giá thành đơn vị sản phẩm năm trước
Hz: Tỷ lệ hạ giá thành
Hz =
Hạ giá thành sản phẩm được coi là con đường ngắn nhất để tăng lợi nhuận.
Muốn hạ được giá thành sản phẩm phải thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp khác
nhau làm giảm chi phí sản xuất cụ thể là: Tiết kiệm nguyên vật liệu, tiết kiệm chi
phí tiến lương, chi phí cố định trong giá thành…
Hạ giá thành sản phẩm là một nhiệm vụ quan trọng của quản lý kinh tế trong
quá trình sản xuất kinh doanh. Hạ giá thành sản phẩm là cơ sở để tăng lợi nhuận, là
nguồn gốc để tái sản xuất mở rộng và nâng cao cơ sở vật chất của doanh nghiệp,
nâng cao đời sống của người lao động.
3.2. Nhóm nhân tố khách quan:
Đây là những nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp không phụ
thuộc vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp . nhưng việc xác định
ảnh hưởng của các nhân tố này đến lợi nhuận sẽ có ảnh hưởng tích cực cho các
doanh nghiệp. Do đó việc xác định các chỉ tiêu giá cả, các chính sách của Nhà
nước phải đảm bảo mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng trong nội bộ doanh
nghiệp, trong toàn ngành và trong toàn xã hội.
3.2.1. Ảnh hưởng của giá bán sản phẩm.
Giá bán đơn vị sản phẩm là nhân tố khách quan quan trọng có ảnh hưởng lớn
đến lợi nhuận. Trong điều kiện các nhân tố khác không thay đổi, thì giá cả thay
đổi sẽ làm cho lợi nhuận thay đổi theo tỷ lệ thuận.
Ảnh hưởng của nhân tố này được xác định theo công thức:
Trong đó:
Qtt1: Khối lượng sản phẩm tiêu thụ năm kế hoạch
Go: Giá bán năm trước
Hg: Tỷ lệ tăng (giảm) giá bán kỳ phân tích so với kỳ trước
Tho: Tỷ suất thuế năm trước
Trong cơ chế thị trường thì giá bán phụ thuộc vào chất lượng sản phẩm bán ra
và quan hệ cung – cầu. Là nhà sản xuất ai cũng muốn bán giá cao và người tiêu
dùng ai cũng muốn mua giá rẻ. Do đó giá bán được hình thành do sự mặc cả, thoả
thuận giữa người mua và người bán để 2 bên cùng có lợi.
3.2.2. Ảnh hưởng của các chính sách của Nhà nước:
a) Ảnh hưởng của tỷ suất thuế:
Thuế là một khoản tích luỹ của Nhà nước có tính chất bắt buộc đối với các tổ
chức kinh tế, các cá nhân. thông qua thuế để hình thành quũ tài chính tập chung
đáp ứng mục tiêu chi tiêu chung của xã hội và thực hiện tái sản xuất trong phạm vi
toàn bộ nền kinh tế. Mọi doanh nghiệp đều bình đẳng về thuế trước pháp luật. Chỉ
có áp dụng thống nhất chính sách thuế đối với doanh nghiệp mới tạo điều kiện và
môi trường thuận lợi thúc đầy hạch toán kinh doanh, tiết kiệm chi phí, nâng cao
hiệu quả kinh tế, nâng cao lợi nhuận, cạnh tranh lành mạnh với các doanh nghiệp
khác.
Ảnh hưởng của tỷ suất thuế đến lợi nhuận được xác định bằng công thức sau:
Trong đó:
Qtt1: Khối lượng sản phẩm tiêu thụ kỳ phân tích
g1: Giá bán kỳ phân tích
Th1: Tỷ suất thuế kỳ phân tích
Tho: Tỷ suất thuế kỳ gốc
Thuế được xác định trên cơ sở mức thuế suất do Nhà nước quy định ở từng
thời kỳ cho từng loại sản phẩm, từng mặt hàng. Tuy mức thuế suất của mỗi loại
hàng hoá khác nhau nhưng thuế suất thay đổi sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận của
doanh nghiệp.
b) Hội nhập khu vực và quốc tế ( nhập khẩu).
Từ khi nền kinh tế của nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường thì Nhà
nước luôn có chính sách khuyến khích các đơn vị kinh tế xuất khẩu các mặt hàng
của mình và nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu trong nước không
có hoặc hiếm. Từ đó khuyến khích các doanh nghiệp phát triển góp phần phát triển
nền kinh tế của đất nước, hội nhập với nền kinh tế trong khu vực và Quốc tế. Hiện
nay,việc nhập khẩu được hạn chế để khai thác, sử dụng triệt để tài nguyên thiên
nhiên, năng lực nội bộ, phát huy khả năng phát minh, sáng tạo của nguồn nhân lực
trong nước để từ đó tăng doanh thu, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp, cho nền kinh
tế quốc dân.
Phần II
ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH CHUNG CỦA XÍ NGHIỆP
Xí nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng Hàm Rồng - Thanh Hoá là xí nghiệp
trực thuộc Công ty xây dựng công trình kỹ thuật đô thị Thanh Hoá, cơ sở của xí
nghiệp đặt tại: Số 4 - Đường Trần Hưng Đạo - Phường Hàm Rồng - thành phố
Thanh Hoá.
1. Lịch sử hình thành của xí nghiệp.
Công ty xây dựng công trình kỹ thuật đô thị Thanh Hoá là doanh nghiệp Nhà
nước thuộc Sở Xây dựng Thanh Hoá được thành lập theo quyết định số
1433TC/UBTB ngày 21 tháng 11 năm 1992 của UBND tỉnh Thanh Hoá, Công ty
có nhiệm vụ tổ chức sản xuất kinh doanh các ngành nghề sau:
- Xây dựng công trình dân dụng, công nghiệp và công trình hạ tầng kỹ thuật
đô thị.
- Xây dựng công trình giao thông.
- Xây dựng công trình thuỷ lợi.
- Xây dựng đường dây và trạm biến thế điện đến 35KW.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về việc sắp xếp và đổi mới
doanh nghiệp Nhà nước, ngày 26 tháng 7 năm 2000 UBND tỉnh ra quyết định số
1831/QĐ - UB sát nhập Công ty vật liệu xây dựng Thanh Hoá vào Công ty xây
dựng công trình kỹ thuật đô thị Thanh Hoá.
Sau đó, ngày 22 tháng 9 năm 2000 Giám đốc Sở xây dựng Thanh Hoá đã ra
quyết định só 348/TC - XD thành lập "xí nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng Hàm
Rồng - Thanh Hoá" trực thuộc Công ty xây dựng công trình kỹ thuật đô thị Thanh
Hoá, trên cơ sở số lao động, MMTB, nhà xưởng sản xuất, vật liệu tiền vốn và các
ngành nghề sản xuất kinh doanh của Công ty vật liệu xây dựng Thanh Hoá trước
đây.
Theo phân cấp của Công ty, xí nghiệp được chủ động ký kết các hợp đồng
kinh doanh, được hạch toán đến lãi, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ các hoạt động
sản xuất kinh doanh, xí nghiệp phải bảo tồn và phát triển nguồn vốn được giao,
đảm bảo các chế độ chính sách đối với người lao động, trích nép các khoản cho
Nhà nước và Công ty theo quy định.
Xí nghiệp là đơn vị có tư cách pháp nhân và có con dấu riêng để giao dịch.
2. Nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của xí nghiệp.
Xí nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng Hàm Rồng - Thanh Hoá chi phí nhiệm
vụ sản xuất kinh doanh các ngành nghề theo mục tiêu, nhiệm vụ của Công ty giao
cụ thể là:
- Tổ chức sản xuất gạch Bock (gạch lát).
- Tổ chức khai thác kinh doanh cát
- Kinh doanh than
- Bốc xếp hàng hoá qua cảng Hàm Rồng.
Ngoài ra xí nghiệp còn thực hiện các công việc như thi công xây dựng công
trình theo nhiệm vụ của Công ty giao.
3. Cơ cấu tổ chức và quy mô sản xuất kinh doanh của xí nghiệp.
a. Cơ cấu tổ chức sản xuất kinh doanh.
Để thực hiện nhiệm vụ, xí nghiệp đã thành lập ra 4 đội sản xuất kinh doanh.
- Đội sản xuất gạch Bôck: 13 người
- Đội khai thác cát và vận tải: 22 người
- Đội trưởng: 1người
- Nhân viên thống kê và bán cát: 1người
+ Tổ sửa chữa cơ khí: 3 người
+ Tổ vận tải thuỷ bộ: 5người.
+ Tổ khai thác: 12 người
làm nhiệm vụ: tổ chức khai thác cát, một phần dùng để sản xuất gạch Blôck,
còn lại là bàn, sửa chữa máy móc thiết bị, dụng cụ và vận tải hàng hoá cho xí
nghiệp và cho khách hàng khi có nhu cầu.
- Trạm kinh doanh dịch vụ: 10 người
Làm nhiệm vô: kinh doanh than, bàn cát, bàn gạch Blôck.
- Đội xếp dở hàng hoá: 43 người.
Làm nhiệm vụ: tổ chức bốc xếp hàng hoá qua cảng Hàm Rồng, và nạo vét bến
bãi, bến than, bến cát.
b. Quy mô sản xuất:
- Hiện nay sản phẩm chính của xí nghiệp là gạch Blôck: Gạch Blôck được
sản xuất bằng nwax cơ giới, nửa thủ công, công suất dây chuyền công nghệ đạt
90.000 viên/năm.
Quy trình sản xuất gạch Blôck gồm có các công đoạn sau:
Nguyªn liÖu:
- N-íc
- §¸ OS
M¸y trén
M¸y t¹o
h×nh
M¸y nÌn
S¶n phÈm
- C¸t vµng
- Xi m¨ng
- Bè trí lao động vào dây truyền sản xuất.
- Bét đá và bột đá được trộn qua máy trộn riêng, dùng để phủ lên bề mặt của
gạch trước khi nén.
- Tác dụng của gạch Blôck: gạch blôck là loại gạch lát dùng để lát vỉa hè, sân
công sở, khu vui chơi, giải trí... Rất đẹp và bền, không trơn vì nó chống được rêu
mọc, sản phẩm gạch blôck của xí nghiệp gồm có hai loại mẫu mã.
Loại 1: có chiều dài 25cm, chiều rộng 10cm và chiều cao 5cm
- Xem thêm -