Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu tình hình phát triển kinh tế trang trại ở thị xã bỉm sơn, tỉnh thanh ...

Tài liệu Nghiên cứu tình hình phát triển kinh tế trang trại ở thị xã bỉm sơn, tỉnh thanh hoá

.DOC
114
96
99

Mô tả:

Luận văn Nghiên cứu tình hình phát triển kinh tế trang trại ở thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hoá 1 PHẦN 1. MỞ ĐẦU 1.1 TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Hơn 20 năm qua, thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách, trong đó có Nghị quyết 10/NQ/TW của Bộ chính trị (tháng 4/1988) về khoán đến hộ xã viên đã tạo động lực mới thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển. Sự thay đổi kinh tế nông thôn phải kể đến đóng góp thành phần kinh tế trang trại. Từ những năm 1990 đã hình thành các mô hình kinh tế trang trại nông, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản. Để tiếp sức cho kinh tế trang trại phát triển, Chính phủ đã có Nghị quyết số 03/2000/NQ CP ngày 02/02/2000 về phát triển kinh tế trang trại. Đây là cơ sở pháp lý để các cơ quan chức năng đưa ra các thông tư hướng dẫn về đầu tư, phát triển kinh tế trang trại, gần đây Bộ Nông nghiệp và PTNT đã đưa ra Thông tư số 74/2003/TT - BNN ngày 4/7/2003 về tiêu chí xác định kinh tế trang trại. Căn cứ vào tiêu chí này, qua báo cáo sơ bộ kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thuỷ sản năm 2006, tính đến thời điểm 1/7/2006, cả nước có 113.730 trang trại, so với năm 2001 tăng 52.713 trang trại (+ 86,4%). Kinh tế trang trại tiếp tục phát triển và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản [6]. Tuy nhiên, tuỳ điều kiện các nguồn lực của từng khu vực, vùng và ở mỗi địa phương việc phát triển kinh tế trang trại lại có sự khác nhau. Thị xã Bỉm Sơn là một trong những đơn vị có lợi thế về đất đai, nguồn nhân lực dồi dào, đây là điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế trang trại. Những năm qua, nhờ phát triển kinh tế trang trại đã làm cho cơ cấu sản xuất nông nghiệp có sự chuyển dịch mạnh mẽ, từ sản xuất tự túc, nay đã chuyển mạnh sang sản xuất hàng hoá. Năm 2006, trang trại đã giải quyết công ăn việc làm cho 2.066 lao động của thị xã và đã khai thác, sử dụng 444,9 ha đất các loại; huy động được 13.912,8 triệu đồng vốn đầu tư SXKD của trang trại và giá trị sản phẩm 2 tạo ra trong năm từ nông, lâm nghiệp & thuỷ sản (NLTS) là 10.260,8 triệu đồng, thu được 8.033,1 triệu đồng từ giá trị sản phẩm và dịch vụ NLTS bán ra. Bên cạnh những kết quả trên, phát triển trang trại còn bộc lộ nhiều điểm bất cập đó là vẫn mang tính tự phát, thiếu qui hoạch và đầu tư chưa đồng bộ, số lượng trang trại được cấp giấy chứng nhận kinh tế trang trại, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn thấp nên nhiều chủ trang trại chưa yên tâm đầu tư vốn để sản xuất, thiếu vốn sản xuất, khó khăn về tiêu thụ sản phẩm, lao động của trang trại chưa qua đào tạo ngày càng chiếm tỷ lệ cao, tỷ lệ trang trại có trang thiết bị để cơ giới hoá, ứng dụng công nghệ thông tin còn thấp; hiệu quả sản xuất kinh doanh chưa cao và chưa đồng đều ở các vùng… Xuất phát từ tình hình trên, để góp phần thúc đẩy kinh tế trang trại ở thị xã Bỉm Sơn phát triển hơn nữa, chúng tôi tiến hành nghiên cứa đề tài "Nghiên cứu tình hình phát triển kinh tế trang trại ở thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hoá". 1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 1.2.1 Mục tiêu chung Trên cơ sở đánh giá thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở thị xã Bỉm Sơn thời gian qua đề xuất các giải pháp thúc đẩy sự phát triển của kinh tế trang trại ở địa phương trong những năm tới, góp phần thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở thị xã Bỉm Sơn. 1.2.2 Mục tiêu cụ thể  Góp phần hệ thống hoá cơ sở lý luận về kinh tế trang trại, sự phát triển của kinh tế trang trại trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam, ở tỉnh Thanh Hoá và của thị xã Bỉm Sơn. 3  Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở thị xã Bỉm Sơn thời gian qua.  Phân tích các nguyên nhân đã ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh tế trang trại ở thị xã Bỉm Sơn.  Đề xuất một số giải pháp chủ yếu thúc đẩy sự phát triển kinh tế trang trại ở thị xã Bỉm Sơn trong thời gian tới. 1.3 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 1.3.1 Đối tượng nghiên cứu Các trang trại sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản đủ tiêu chí trang trại theo qui định tại Thông tư số 74/2003/TT-BNN ngày 4/7/2003 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn được xác định là đối tượng nghiên cứu của đề tài. 1.3.2 Phạm vi nghiên cứu  Nội dung của đề tài: Nghiên cứu đánh giá tình hình phát triển kinh tế trang trại ở thị xã Bỉm Sơn về quy mô, kết quả và hiệu quả sản xuất, các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của trang trại.  Địa điểm nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu các trang trại trong phạm vi thị xã Bỉm Sơn.  Thời gian nghiên cứu: Thu thập thông tin và số liệu về tình hình phát triển kinh tế trang trại từ năm 2005 - 2007 và dự báo đến năm 2010. 4 PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 2.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ TRANG TRẠI 2.1.1 Khái niệm trang trại, kinh tế trang trại Đến nay, đã có nhiều nghiên cứu và đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về trang trại và kinh tế trang trại. Tuy nhiên, đều có quan điểm chung, phát triển kinh tế trang trại là sản xuất hàng hoá, khác với nền kinh tế tiểu nông tự cấp, tự túc. Marx đã phân biệt chủ trang trại với người tiểu nông ở hai khía cạnh đó là: người chủ trang trại bán ra thị trường toàn bộ sản phẩm làm ra; còn người tiểu nông dùng đại bộ phận sản phẩm làm ra và mua bán càng ít càng tốt. Theo những tư liệu nước ngoài có thể hiểu “kinh tế trang trại” hay “trang trại” hoặc “kinh tế nông trại” hay “nông trại”, là một mô hình mà ở đó sản xuất nông nghiệp được tiến hành có tổ chức dưới sự điều hành của một người và ở đây phần đông là chủ hộ gia đình nông dân theo hướng sản xuất hàng hoá gắn liền với thị trường. Hai thuật ngữ “trang trại” hay “kinh tế trang trại”, trong nhiều trường hợp được sử dụng như là những thuật ngữ đồng nghĩa. Về thực chất, trang trại và kinh tế trang trại là những khái niệm không đồng nhất. Bởi vì, ”Kinh tế trang trại là tổng thể các yếu tố vật chất của sản xuất và các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình tồn tại và hoạt động của trang trại, còn trang trại là nơi kết hợp các yếu tố vật chất của sản xuất và là chủ thể của các quan hệ kinh tế đó” [18]. Khi chúng ta nói về “trang trại” tức là nói đến những cơ sở SXKD nông nghiệp của một loại hình tổ chức sản xuất nhất định theo nghĩa rộng bao gồm cả hoạt động xã hội kinh doanh trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, lâm 5 nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản (NTTS)... Bản thân cụm từ “trang trại” là đề cập đến tổng thể những mối quan hệ KT- XH, môi trường nảy sinh trong quá trình hoạt động SXKD của các trang trại, quan hệ giữa các trang trại với nhau, giữa các trang trại với các tổ chức kinh tế khác, với Nhà nước, với thị trường, với môi trường sinh thái tự nhiên [18]. Khi nói về ”kinh tế trang trại” tức là nói đến mặt ”kinh tế” của trang trại. Ngoài mặt kinh tế còn có thể nhìn nhận trang trại từ phía xã hội và môi trường. Tuy nhiên, trong nghiên cứu và quản lý người ta thường chú trọng đến kinh tế của trang trại mà ít chú ý đến nội dung xã hội và môi trường của trang trại. Cho nên, khi nói kinh tế trang trại người ta thường gọi tắt là trang trại, vì mặt kinh tế là là mặt cơ bản chứa đựng những nội dung cốt lõi. Do vậy, trong văn phong khẩu ngữ tiếng Việt, ở một số trường hợp cụ thể, cụm từ “trang trại” và “kinh tế trang trại” có thể được dùng thay thế cho nhau, mà ý nghĩa của câu văn, câu nói không bị thay đổi và coi chúng như những cụm từ đồng nghĩa [25]. Ở Việt Nam, trước năm 2000 do có nhiều cách tiếp cận, phân tích đánh giá khác nhau nên có rất nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm trang trại và kinh tế trang trại. Có quan điểm cho rằng, "trang trại là một tổ chức sản xuất cơ sở trong nông nghiệp (bao gồm nông, lâm, ngư nghiệp) có mục đích là sản xuất hàng hoá, tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một người chủ độc lập, sản xuất được tiến hành trên qui mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất tập trung đủ lớn với phương thức tổ chức quản lý sản xuất tiến bộ và trình độ kỹ thuật cao, hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị trường" [27]. PGS.TS. Hoàng Việt đã đưa ra khái niệm "Trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất sản phẩm hàng hoá, tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc 6 quyền sử dụng của một người chủ độc lập, sản xuất được tiến hành trên qui mô diện tích ruộng đất và các yếu tố sản xuất được tập trung đủ lớn, với cách thức tổ chức quản lý tiến bộ và trình độ kỹ thuật cao, hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị trường" [32]. Khi nghiên cứu về trang trại, tác giả Trần Trác viết "Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất và kinh doanh hàng hoá nông, lâm, thuỷ sản của một hộ gia đình theo cơ chế thị trường" [21]. Theo GS.TS Nguyễn Đình Hương, "kinh tế trang trại là một hình thức tổ chức cơ sở trong nông, lâm, ngư nghiệp, mục đích chủ yếu là sản xuất hàng hoá, tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một người chủ độc lập, sản xuất được tiến hành trên qui mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất được tập trung đủ lớn với cách thức tổ chức quản lý tiến bộ và trình độ kỹ thuật cao, hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị trường” [18]. Đề tài nghiên cứu kinh tế trang trại ở Nam Bộ đã đưa ra khái niệm như sau "Kinh tế trang trại là một loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp, phổ biến được hình thành và phát triển trên nền tảng kinh tế hộ và về cơ bản mang bản chất của kinh tế hộ. Quá trình hình thành và phát triển kinh tế trang trại là quá trình nâng cao năng lực sản xuất dựa trên cơ sở tích tụ tập trung vốn và các yếu tố sản xuất khác và nhờ đó tạo ra sản phẩm hàng hoá với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao" [26]. Trong nghiên cứu kinh tế, chính sách và thị trường mới đây đã đưa ra khái niệm "Kinh tế trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp, được hình thành và phát triển trên cơ sở kinh tế hộ gia đình nông dân có mức độ tích tụ và tập trung cao hơn về đất đai, vốn, lao động, kỹ thuật... nhằm tạo ra khối lượng hàng hoá nông sản lớn hơn, với lợi 7 nhuận cao hơn theo yêu cầu của kinh tế thị trường, có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa" [31]. Nhìn chung, quan niệm và nhận thức về bản chất, đặc trưng của kinh tế trang trại đã gần gũi, thống nhất về cơ bản. Tuy nhiên, về mặt nhận thức cũng còn những ý kiến khác nhau về tích tụ vốn, qui mô hạn điền, các doanh nghiệp nông nghiệp vừa và nhỏ, các loại hình công ty có phải là trang trại hay không... đang được các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu. Từ những khái niệm trên chúng tôi thấy mỗi quan điểm đều có cách nhìn nhận đánh giá khác nhau, nhưng chung qui “kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá trong nông, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản với qui mô về đất đai, vốn, lao động, đầu con gia súc, gia cầm, giá trị sản xuất nông, lâm, thuỷ sản phải lớn, hiệu quả sản xuất cao và có thu nhập vượt trội so với kinh tế hộ”. Kinh tế trang trại là tổng hợp các yếu tố sản xuất kinh doanh và các mối quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình hoạt động của trang trại. Còn trang trại là nơi diễn ra các hoạt động và các mối quan hệ đó. 2.1.2 Vị trí, vai trò của kinh tế trang trại Trong những năm gần đây, kinh tế trang trại phát triển nhanh về số lượng, đa dạng về ngành sản xuất ở tất cả các vùng, địa phương trong cả nước. Mặc dù mới được phát triển trong những năm gần đây nhưng kinh tế trang trại đã thể hiện rõ vai trò quan trọng và tích cực không những về kinh tế mà còn cả về xã hội và môi trường. Về mặt kinh tế, KTTT là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp, nông thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình, nhằm mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, trồng rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ, nông, lâm, thuỷ 8 sản. Các trang trại phát triển sẽ góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao, khắc phục dần tình trạng sản xuất phân tán, manh mún tạo nên những vùng chuyên môn hóa, tập trung hàng hóa và thâm canh cao [17, tr 18]. Về mặt xã hội, phát triển KTTT, sử dụng có hiệu quả đất đai, vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý góp phần phát triển nông nghiệp bền vững, tạo việc làm tăng thu nhập, khuyến khích làm giàu đi đôi với xoá đói giảm nghèo, phân bố lại lao động, dân cư, xây dựng lại nông thôn mới. Bên cạnh đó phát triển kinh tế trang trại còn góp phần quan trọng trong việc làm tăng số hộ giàu trong nông thôn; điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong giải quyết vấn đề lao động và việc làm, một trong những vấn đề bức xúc trong nông nghiệp và nông thôn ở nước ta hiện nay. Về vấn đề môi trường, do sản xuất kinh doanh tự chủ và vì lợi ích thiết thực, lâu dài của mình mà các chủ trang trại đã luôn có ý thức khai thác hợp lý và quan tâm bảo vệ các yếu tố môi trường, trước hết là trong phạm vi không gian sinh thái trang trại và sau nữa là trong phạm vi từng vùng. Đặc biệt, các trang trại trung du miền núi đã góp phần tích cực vào việc phủ xanh đất trống, đồi núi trọc bảo vệ môi trường sinh thái. 2.1.3 Đặc trưng của kinh tế trang trại Thi hành Nghị quyết 03/2000/NQ-CP ngày 02/02/2000 của Chính phủ về kinh tế trang trại; Liên Bộ Nông nghiệp và PTNT và Tổng cục Thống kê đã có Thông tư liên tịch số 69/2000/TTLT/BNN-TCTK ngày 23/6/2000 về hướng dẫn tiêu chí để xác định kinh tế trang trại; theo Thông tư này thì kinh tế trang trại so với kinh tế hộ có những đặc trưng chủ yếu sau: - Mục đích chủ yếu của KTTT là sản xuất nông, lâm, thuỷ sản hàng hoá với quy mô lớn. 9 - Mức độ tập trung và chuyên môn hoá các điều kiện và yếu tố sản xuất cao hơn hẳn (vượt trội) so với sản xuất của nông hộ, thể hiện ở quy mô sản xuất như đất đai, đầu con gia súc, lao động, giá trị nông, lâm, thuỷ sản hàng hoá. - Chủ trang trại có kiến thức và kinh nghiệm trực tiếp điều hành sản xuất, biết áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới vào sản xuất, sử dụng lao động gia đình và thuê lao động bên ngoài sản xuất hiệu quả cao, có thu nhập vượt trội so với kinh tế hộ [10]. 2.1.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế trang trại  Các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất Quá trình sản xuất là quá trình kết hợp các yếu tố đầu vào (nguồn lực sản xuất) theo các cách thức nhất định để tạo ra các đầu ra theo nhu cầu xã hội. - Đất đai là yếu tố sản xuất, không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với nông nghiệp mà còn quan trọng đối với sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Đất đai là yếu tố cố định, lại bị giới hạn bởi qui mô, nên người ta phải đầu tư thêm vốn, lao động trên một đơn vị diện tích nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai [30]. Do vậy, để hình thành trang trại cần phải có quĩ đất cần thiết để phát triển trang trại. Để làm được điều này, Nhà nước phải đưa ra được những chính sách về đất đai phù hợp để chủ trang trại yên tâm sản xuất trên thửa đất được giao. Theo Nghị quyết số 03/CP ngày 02/02/2000 thì hộ gia đình có nhu cầu và khả năng sử dụng đất để phát triển trang trại được nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (CNQSDĐ) [10]. Thẩm quyền giao đất cho thuê, được áp dụng theo quy định tại Nghị định số 85/NĐ-CP ngày 28/08/1999 của Chính phủ về sửa đổi bổ sung một số quy định về giao đất nông nghiệp cho một số hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài và Nghị định số 163/1999/ NĐ-CP ngày 16/11/1999 của Chính phủ về giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp [9]. 10 Mặt khác, theo điều 82 Luật Đất đai năm 2003, đất sử dụng cho kinh tế trang trại còn được quy định "Nhà nước khuyến khích hình thức KTTT của hộ gia đình, cá nhân nhằm khai thác có hiệu quả đất đai để phát triển sản xuất, mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sử dụng đất trong sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối gắn với dịch vụ chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp... Nghiêm cấm việc lợi dụng hình thức KTTT để bao chiếm, tích tụ đất đai không vì mục đích sản xuất" [20]. - Lực lượng lao động là yếu tố đặc biệt quan trọng của quá trình sản xuất. Mọi hoạt động sản xuất đều do lao động của con người quyết định, nhất là người lao động có kỹ thuật, kinh nghiệm và kỹ năng lao động. Do đó, chất lượng lao động quyết định kết quả và hiệu quả sản xuất [30]. Bởi vậy, để phát triển trang trại, trước hết chủ trang trại phải là người có khát khao, ý chí làm giàu, có kinh nghiệm từ sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản và là người sử dụng có hiệu quả từ nguồn lao động gia đình cũng như lao động thuê mướn bên ngoài. Bên cạnh đó, Nhà nước cần khuyến khích và tạo điều kiện hỗ trợ để các chủ trang trại mở rộng quy mô SXKD, tạo được nhiều việc làm cho người lao động trong nông thôn. Ưu tiên sử dụng lao động của hộ nông dân không đất, thiếu đất sản xuất nông nghiệp, hộ nghèo thiếu việc làm. Chủ trang trại được thuê lao động không hạn chế số lượng, trả công lao động trên cơ sở thoả thuận với người lao động theo quy định của pháp luật về lao động. Để kinh tế trang trại phát triển một cách bền vững, ngoài việc giao đất lâu năm cho các hộ yên tâm sản xuất thì Nhà nước cũng như các địa phương cần phải mở các lớp đào tạo ngắn hạn hoặc trung hạn cho các chủ trang trại nhằm nâng cao trình độ kiến thức. - Vốn sản xuất là những tư liệu sản xuất như máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, kho tàng, kết cấu hạ tầng và kỹ thuật... Vốn là yếu tố vô cùng quan trọng. Trong điều kiện năng suất lao động không đổi thì tăng tổng số vốn sẽ 11 dẫn đến tăng thêm giá trị sản lượng hàng hoá. Tất nhiên, trong thực tế sự tăng thêm giá trị sản lượng hàng hoá còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa, chẳng hạn chất lượng lao động, trình độ kỹ thuật... [30]. Đặc biệt, đối với phát triển trang trại, vốn là nhân tố có tính quyết định tới việc hình thành và phát triển KTTT, bởi trang trại cần nhiều vốn để đầu tư cơ sở hạ tầng, mua con giống... - Khoa học và công nghệ, là yếu tố sản xuất quan trọng, nó quyết định sự thay đổi năng suất lao động và chất lượng sản phẩm; đây là một trong những yếu tố có vai trò quan trọng và đối với một nền sản xuất hàng hoá với quy mô lớn trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Bới vì, chỉ có ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại vào sản xuất mới giảm được giá thành để cạnh tranh với hàng hoá của các nước trên thế giới. - Ngoài bốn yếu tố cơ bản của sản xuất nêu trên, còn rất nhiều yếu tố khác tác động tới phát triển kinh tế trang trại như qui mô sản xuất, các hình thức tổ chức tổ chức tối ưu, mối quan hệ cân đối tác động qua lại lẫn nhau giữa các ngành, các thành phần kinh tế, quan hệ cung cầu và thị trường tiêu thụ sản phẩm... Đối với phát triển trang trại, để sản phẩm sản xuất ra tiêu thụ được, ngoài việc phải nâng cao chất lượng sản phẩm, mẫu mã thì vấn đề cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn cũng phải được nâng lên, bên cạnh đó Nhà nước cũng cần hỗ trợ việc đầu tư nâng cấp mở rộng và xây dựng mới các cơ sở công nghiệp chế biến ở các vùng tập trung, chuyên canh: hướng dẫn việc ký kết hợp đồng cung ứng vật tư và tiêu thụ nông sản. Kinh tế trang trại phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá ngày càng lớn và gắn với thị trường. Tuy nhiên, sản phẩm hàng hoá của các trang trại chủ yếu tiêu thụ ở dạng thô, giá cả bấp bênh, không ổn định...  Các yếu tố phi kinh tế 12 Ngoài các yếu tố kể trên, để phát triển kinh tế trang trại thì yếu tố thể chế chính trị, đường lối phát triển kinh tế; đặc điểm dân tộc, tôn giáo, văn hoá ở mỗi vùng sẽ có tác động không nhỏ đến tập quán sản xuất hướng đến phát triển sản xuất hàng hoá có sự khác nhau. 2.1.5 Phân loại trang trại Hiện nay có nhiều cách phân loại khác nhau đối với trang trại, mỗi tác giả dựa vào những tiêu chí khác nhau để phân loại và tùy vào đặc điểm, điều kiện cụ thể từng địa phương mà trang trại chia thành các loại khác nhau. Nhìn chung trang trại được chia thành các loại sau: - Theo quy mô đất đai: bao gồm trang trại quy mô nhỏ (2 - 5 ha), trang trại quy mô vừa (5 - 10 ha), trang trại có quy mô lớn (10 - 30 ha) và trang trại có quy mô vượt hạn điền lớn hơn 30 ha. - Theo cơ cấu sản xuất các loại trang trại: + Trang trại chuyên môn hóa: là loại trang trại chỉ tạo ra một hoặc hai sản phẩm chính như: trang trại chuyên trồng cây hàng năm như mía, sắn..., trang trại chuyên trồng cây lâu năm như cao su, quế, vải, nhãn, cam..., trang trại chuyên chăn nuôi như lợn thịt, lợn sinh sản, bò sinh sản, gà, vịt..., trang trại chuyên trồng cây lâm nghiệp như luồng, keo, bạch đàn..., trang trại chuyên nuôi trồng thuỷ sản như tôm, cá... + Trang trại sản xuất kinh doanh tổng hợp: là loại trang trại kết hợp giữa một trong ba ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, với nhau hoặc với tiểu thủ công nghiệp. Tuy nhiên, để thống nhất theo hướng dẫn của Tổng Cục Thống kê và Bộ nông nghiệp & PTNT, trong nghiên cứu của đề tài trang trại SXKD tổng hợp là loại hình chỉ kết hợp giữa trồng trọt với chăn nuôi, hoặc nuôi trồng thủy sản với ngành nghề khác... khi mà nó không đạt một trong các tiêu chí về trang trại chuyên môn hoá. 13 - Phân theo hình thức quản lý: + Trang trại gia đình: là trang trại độc lập sản xuất kinh doanh do chủ hộ đứng ra quản lý, thường 1 trang trại là của 1 hộ gia đình. + Trang trại liên danh: do 2-3 trang trại gia đình kết hợp lại thành 1 trang trại có quy mô và năng lực sản xuất lớn, đủ sức cạnh tranh với trang trại khác. + Trang trại hợp doanh: được tổ chức theo nguyên tắc như công ty cổ phần hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản. Loại này thường có quy mô lớn, thực hiện chuyên môn hoá sản xuất, sử dụng lao động làm thuê là chủ yếu. - Phân theo cơ cấu thu nhập: + Trang trại thuần nông, nguồn thu nhập chủ yếu hoàn toàn hay phần lớn từ nông nghiệp. Số trang trại này đang có xu hướng giảm đi ở các nước công nghiệp phát triển. + Trang trại có thu nhập chủ yếu ngoài nông nghiệp, loại này tập trung chủ yếu ở những nước có nền công nghiệp phát triển. - Phân loại theo hình thức sở hữu tư liệu sản xuất + Chủ trang trại sở hữu toàn bộ tư liệu sản xuất từ đất đai, công cụ, máy móc, chuồng trại, kho bãi. + Chủ trang trại chỉ sở hữu một phần tư liệu sản xuất, một phần phải đi thuê bên ngoài (có đất đai nhưng phải thuê máy móc, công cụ, kho tàng..) + Chủ trang trại hoàn toàn không có tư liệu sản xuất mà phải đi thuê toàn bộ từ đất đai, máy móc, thiết bị, kho tàng… - Phân loại theo phương thức điều hành sản xuất + Chủ trang trại sống cùng gia đình ở nông thôn, trực tiếp điều hành sản xuất và trực tiếp lao động. + Trang trại uỷ thác: uỷ nhiệm cho anh em họ hàng, bạn bè thân thiết còn ở tại quê để canh tác. 14 Chủ trang trại uỷ nhiệm cho người thân quen làm một hoặc nhiều công việc như làm đất, gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch trên một phần hoặc toàn bộ ruộng đất của mình trong thời gian nhất định theo giá thoả thuận [16]. 2.1.6 Tiêu chí nhận dạng trang trại Thông tư số 74/2003/ TT- BNN ngày 04/7/2003 (Thông tư này sữa đổi, bổ sung mục III của Thông tư liên tịch số 69/2000/TTLT/BNN - TCTK ngày 23/06/2000) của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn còn giải thích rõ: Đối tượng và ngành sản xuất được xem xét để xác định là KTTT đó là hộ nông dân, hộ công nhân viên nhà nước và lực lượng vũ trang đã nghỉ hưu, các loại hộ thành thị và cá nhân chuyên sản xuất (bao gồm nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản) hoặc sản xuất nông nghiệp là chính có kiêm nhiệm các hoạt động dịch vụ phi nông nghiệp ở nông thôn. Mục đích sản xuất của trang trại là sản xuất nông, lâm, thuỷ sản hàng hoá với quy mô lớn. Mức độ tập trung hoá và chuyên môn hoá các điều kiện và yếu tố sản xuất cao hơn hẳn (vượt trội) so với sản xuất của nông hộ, thể hiện ở qui mô sản xuất như đất đai, đầu con gia súc, lao động, giá trị nông lâm thuỷ sản hàng hoá Chủ trang trại có kiến thức và kinh nghiệm trực tiếp điều hành sản xuất, biết áp dụng tiến bộ KHKT tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới vào sản xuất, sử dụng lao động gia đình và thuê lao động bên ngoài sản xuất hiệu quả cao có thu nhập vượt trội so với kinh tế nông hộ.  Tiêu chí định lượng của trang trại Đối với hộ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản được xác định là trang trại phải đạt một trong hai tiêu chí về giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ bình quân một năm hoặc về quy mô sản xuất của trang trại sau đây: 15 1. Giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ bình quân một năm: - Đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung từ 40 triệu đồng trở lên. - Đối với các tỉnh phía Nam và Tây nguyên từ 50 triệu đồng trở lên. 2. Quy mô sản xuất phải tương đối lớn và vượt trội so với kinh tế nông hộ tương ứng với từng ngành sản xuất và từng vùng kinh tế. - Đối với trang trại trồng trọt: + Trang trại trồng cây hàng năm: Từ 2 ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung; từ 3 ha trở lên đối với các tỉnh phía Nam và Tây nguyên. + Trang trại trồng cây lâu năm: Từ 3 ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung; từ 5 ha trở lên đối với các tỉnh phía Nam và Tây nguyên; trang trại trồng hồ tiêu 0,5 ha trở lên. + Trang trại lâm nghiệp: Từ 10 ha trở lên đối với các vùng trong cả nước. - Đối với trang trại chăn nuôi: + Chăn nuôi đại gia súc: trâu, bò, ngựa… Đối với chăn nuôi sinh sản, lấy sữa có thường xuyên từ 10 con trở lên; chăn nuôi lấy thịt có thường xuyên từ 50 con trở lên. + Chăn nuôi gia súc: lợn, dê, cừu… Đối với chăn nuôi sinh sản có thường xuyên đối với lợn từ 20 con trở lên; đối với dê, cừu từ 100 con trở lên. Chăn nuôi lợn thịt có thường xuyên từ 100 con trở lên (không kể lợn sữa); dê thịt từ 200 con trở lên. + Chăn nuôi gia cầm: gà, vịt, ngan, ngỗng… có thường xuyên từ 2000 con trở lên (không tính số đầu con dưới 7 ngày tuổi). - Trang trại nuôi trồng thuỷ sản: Diện tích nuôi trồng thuỷ sản có từ 2 ha trở lên (riêng đối với nuôi tôm thịt theo kiểu công nghiệp từ 1 ha trở lên). - Trang trại sản xuất kinh doanh tổng hợp: Là những trang trại có từ hai hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản khác nhau trở lên và mỗi hoạt động đều đạt về qui mô hoặc mức giá trị hàng hoá và dịch vụ 16 như qui định cho trang trại. Ví dụ: Trang trại nhà ông A có 3 ha chuyên trồng lúa và có nuôi cá đạt mức bình quân 50 triệu sản phẩm hàng hoá một năm; trường hợp này ghi trang trại nhà ông A là trang trại tổng hợp [8], [19]. 2.2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN VÀ PHÁT TRIỂN TRANG TRẠI 2.2.1 Quan điểm về tăng trưởng và phát triển Tăng trưởng và phát triển là những vấn đề quan tâm hàng đầu đối với xã hội loài người trên thế giới và trong từng quốc gia. Mục đích cuối cùng cần đạt được của mọi hoạt động của con người là nhằm có được cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc. Tăng trưởng và phát triển đôi khi được coi là đồng nghĩa, nhưng thực ra chúng có liên quan với nhau và có những nội dung khác nhau. Theo nghĩa chung nhất, tăng trưởng là nhiều sản phẩm hơn, còn phát triển không những nhiều sản phẩm hơn mà còn phong phú hơn về chủng loại và chất lượng, phù hợp hơn về cơ cấu và phân bố của cải [15]. Tăng trưởng được hiểu là sự gia tăng về mặt số lượng của một sự vật nhất định. Trong kinh tế, tăng trưởng thể hiện sự gia tăng hơn trước về sản phẩm hay lượng đầu ra của một quá trình sản xuất hay hoạt động [12]. Phát triển bao hàm ý nghĩa rộng hơn, được coi như tiến trình biến chuyển của xã hội, là chuỗi những biến chuyển có mối quan hệ qua lại với nhau. Phát triển theo khái niệm chung nhất là việc nâng cao hạnh phúc của người dân, bao hàm nâng cao các chuẩn mực sống, cải thiện các điều kiện giáo dục, sức khõe, sự bình đẳng về các cơ hội... Trong kinh tế, phát triển là quá trình chuyển biến về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định, trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về qui mô sản lượng sản phẩm, sự hoàn thiện về cơ cấu nền kinh tế và việc nâng cao chất lượng mọi mặt của cuộc sống [12]. 17 Qua đây chúng ta thấy, tăng trưởng là điều kiện, tiền đề cho phát triển. Bởi vì, nền kinh tế có tăng trưởng thì mới có khả năng tăng ngân sách Nhà nước, tăng thu nhập của dân cư. Tuy nhiên, tăng trưởng chỉ là điều kiện cần, nhưng nó chưa phải là điều kiện đủ để phát triển. Tăng trưởng mà không phát triển sẽ dẫn đến mất cân đối trong nền kinh tế và phân hoá xã hội, ngày càng tăng lên. Ngược lại, phát triển mà không tăng trưởng là không tồn tại trong thực tế [30]. 2.2.2 Quan điểm về phát triển bền vững Trong những năm gần đây, do dân số gia tăng mạnh mẽ, do nhu cầu nâng cao mức sống, hoạt động của con người nhằm khai thác các nguồn lực, tài nguyên thiên nhiên đã làm cho môi trường bị cạn kiệt. Loài người đã phải đương đầu với những thách thức lớn do suy thoái về nguồn lực và giảm cấp môi trường. Trước những vấn đề của phát triển, vào nửa cuối của thế kỷ 20, Liên Hợp Quốc đã đưa ra ý tưởng về phát triển bền vững. Theo quan điểm của Liên Hiệp Quốc thì một thế giới phát triển bền vững là thế giới không sử dụng các nguồn tài nguyên có thể tái tạo (nước, đất đai, sinh vật) nhanh hơn khả năng tái tạo của chúng. Phát triển ý tưởng của Liên Hiệp Quốc, ủy ban quốc tế về phát triển và môi trường (1987) đã định nghĩa: Phát triển bền vững là một quá trình của sự thay đổi, trong đó, việc khai thác và sử dụng tài nguyên, hướng đầu tư, hướng phát triển của công nghệ và kỹ thuật, và sự thay đổi về tổ chức là thống nhất, làm tăng khả năng đáp ứng nhu cầu hiện tại và tương lai của con người [12], [30]. Hội nghị thượng đỉnh về trái đất năm 1992 tổ chức tại Riode Janeiro năm 1992 đưa ra định nghĩa vắn tắt về phát triển bền vũng là: Phát triển nhằm thoả mãn nhu cầu của thế hệ ngày nay mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai [12], [30]. Ở Việt Nam, quan điểm về phát triển bền vững đã được khẳng định trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX: ”Phát triển nhanh, hiệu 18 quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”. Gần đây, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg ngày 17/8/2004 về định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam” (Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam) nêu lên những thách thức mà Việt Nam đang phải đối mặt, đề ra những chủ trương, chính sách, công cụ pháp luật và những lĩnh vực hoạt động ưu tiên cần thực hiện để phát triển bền vững trong thế kỷ 21. Định hướng này bao gồm 5 nội dung: Một là, phát triển bền vững – con đường tất yếu của Việt Nam. Hai là, những lĩnh vực kinh tế cần ưu tiên nhằm phát triển bền vững. Ba là, những lĩnh vực xã hội cần ưu tiên nhằm phát triển bền vững. Bốn là, những lĩnh vực sử dụng tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và kiểm soát ô nhiễm cần ưu tiên nhằm phát triển bền vững. Năm là, tổ chức thực hiện phát triển bền vững [30]. 2.2.3 Quan điểm về phát triển trang trại Chúng ta biết, phát triển kinh tế trang trại tức là phát triển sản xuất của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản. Đây là ngành kinh tế đặc biệt, khác với công nghiệp và các ngành khác là vì, đối tượng sản xuất là các sinh vật, đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu, đặc biệt và không thể thay thế; được phân bố trên một không gian rộng lớn; sản phẩm làm ra vừa được tiêu dùng tại chỗ lại vừa trao đổi trên thị trường; cung về nông sản hàng hoá và cầu các yếu tố đầu vào mang tính thời vụ và nó có liên quan chặt chẽ đến các ngành công nghiệp. Do vậy, để phát triển kinh tế trang trại cần phải nghiên cứu các đặc tính trên từ đó để có hướng đầu tư sản xuất. Phát triển trang trại thể hiện ở sự gia tăng về qui mô trang trại cả về bề rộng và bề sâu. 19 Phát triển bề rộng, đó là sự gia tăng về số lượng trang trại ở một vùng, một quốc gia hay một địa phương nào đó. Hiện nay, Bỉm Sơn còn khoảng 1.176 ha đất bằng, mặt nước có khả năng đưa vào sử dụng, dân số gần 6 vạn người và nguồn lao động ở một số huyện lân cận... đây là một trong những thuận lợi cho phép phát triển trang trại theo bề rộng. Phát triển bề sâu, cùng với phát triển bề rộng thì chúng ta phát triển theo chiều sâu thể hiện thông qua về qui mô vốn đầu tư vốn, đào tạo lao đông, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất... phát triển trang trại phải gắn công nghiệp chế biến, cần có sự liên kết, hợp tác giữa các cấp các, ngành, các doanh nghiệp với chủ trang trại nhằm đạt hiệu quả sản xuất cao nhất, đem lại thu nhập ngày một tăng cho người lao động. Phát triển nhưng không làm phá vỡ môi trường sinh thái... Quan điểm phát triển trang trại ở thị xã Bỉm Sơn cũng như của tỉnh là, phát triển nhằm khai thác thế mạnh về điều kiện tự nhiên, lao động để chuyển từ nền sản xuất truyền thống sang sản xuất hàng hoá và hướng đến một nền sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản công nghệ cao, sản phẩm sạch, an toàn và hướng đến xuất khẩu. Phát triển trang trại hướng đến nhu cầu thị trường, phát huy lợi thế cây, con của từng vùng để ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nhằm đạt năng suất cao, chất lượng tốt, sản phẩm có tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Phát triển trang trại phải gắn kết chặt chẽ với công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ, hình thành các vùng nguyên liệu sản xuất hàng hoá tập trung. Phát triển trang trại nhằm nâng cao giá trị trên một ha đất canh tác, tạo việc làm và tăng thu nhập cho một phần không nhỏ lao động trang trại ở khu vực nông thôn... góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi và cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. 2.3 CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất