BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI CẤP BỘ
NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG TRUYỀN THÔNG
GIÁO DỤC SỨC KHỎE TUYẾN HUYỆN VÀ XÂY DỰNG
MÔ HÌNH THÍ ĐIỂM PHÒNG TRUYỀN THÔNG GIÁO DỤC
SỨC KHỎE Ở TRUNG TÂM Y TẾ DỰ PHÒNG HUYỆN
Chủ nhiệm đề tài:
TS. Nguyễn văn Hiến
Cơ quan chủ trì đề tài: Trường Đại học Y Hà Nội
Mã số đề tài:
8159
HÀ NỘI 2010
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI CẤP BỘ
NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG TRUYỀN THÔNG
GIÁO DỤC SỨC KHỎE TUYẾN HUYỆN VÀ XÂY DỰNG
MÔ HÌNH THÍ ĐIỂM PHÒNG TRUYỀN THÔNG GIÁO DỤC
SỨC KHỎE Ở TRUNG TÂM Y TẾ DỰ PHÒNG HUYỆN
Chủ nhiệm đề tài:
TS. Nguyễn văn Hiến
Cơ quan chủ trì đề tài: Trường Đại học Y Hà Nội
Mã số đề tài:
Thời gian thực hiện:
từ 11/2007 - 4/2010
Tổng kinh phí thực hiện đề tài: 430 triệu đồng
Trong đó kinh phí SNKH:
HÀ NỘI 2010
430 triệu đồng
BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI CẤP BỘ
1. Tên đề tài: “Nghiên cứu thực trạng truyền thông giáo dục sức khỏe tuyến
huyện và xây dựng mô hình thí điểm phòng truyền thông giáo dục sức khoẻ ở
Trung tâm y tế dự phòng huyện”
2. Chủ nhiệm đề tài:
TS. Nguyễn Văn Hiến
3. Cơ quan chủ trì đề tài:
Trường Đại học Y Hà Nội
4. Cơ quan quản lý:
Bộ Y Tế
5. Thư ký đề tài:
TS. Lê Thị Tài
6. Phó chủ nhiệm đề tài hoặc ban chủ nhiệm đề tài: không có
7. Danh sách những người thực hiện chính:
TS. Nguyễn Văn Hiến
BM Giáo dục sức khỏe, Khoa Y tế công cộng
Trường Đại học YHN
TS. Lê Thị Tài
BM Giáo dục sức khỏe, Khoa Y tế công cộng
Trường Đại học YHN
ThS. Trần Thị Nga
BM Tổ chức và Quản lý y tế, Khoa Y tế công
cộng Trường Đại học YHN
TS. Kim Bảo Giang
BM Giáo dục sức khỏe, Khoa Y tế công cộng
Trường Đại học YHN
ThS. Phạm Bích Diệp
BM Giáo dục sức khỏe, Khoa Y tế công cộng
Trường Đại học YHN.
BS. Nguyễn Lập Quyết
Sở Y tế tỉnh Hà Nam
BS. Ngô Văn Sâm
Sở Y tế tỉnh Hà nam
BS. Nguyễn Xuân Sỹ
Trung tâm Y tế huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam
CN. Lê Thị Tuyết
Phòng Tài chính kế toán trường Đại học YHN
8. Các đề tài nhánh (đề mục) của đề tài: không có
9. Thời gian thực hiện đề tài từ tháng 11 năm 2007 đến tháng 4 năm 2010
i
Môc lôc
Nội dung
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ
1
Chương 1: TỔNG QUAN
3
1.1. Vai trò của truyền thông giáo dục sức khỏe trong công tác chăm sóc
sức khỏe
3
1.2. Những đóng góp của hệ thống truyền thông giáo dục sức khỏe trong
thành quả chung của ngành Y tế ở Việt Nam
5
1.3. Các yếu tố làm cho truyền thông giáo dục sức khỏe có hiệu quả
7
1.4. Hệ thống Truyền thông Giáo dục sức khỏe ở Việt Nam
10
1.5. Chỉ đạo của Bộ Y tế về công tác Truyền thông Giáo dục sức khỏe
14
1.6. Nghiên cứu hoạt động truyền thông giáo dục sức khoẻ
15
Chương 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
20
2.1. Thiết kế nghiên cứu
20
2.2. Thời gian nghiên cứu
20
2.3. Địa bàn nghiên cứu
20
2.4. Đối tượng nghiên cứu
21
2.5. Chọn mẫu và cỡ mẫu nghiên cứu
22
2.6. Công cụ và phương pháp thu thập thông tin
23
2.7. Nội dung nghiên cứu chính
24
2.8. Xây dựng mô hình can thiệp
25
2.9. Phân tích số liệu
27
2.10. Sai số và cách khống chế
27
2.11. Khía cạnh đạo đức trong nghiên cứu
27
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
30
3.1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu
30
3.2. Thực trạng cơ sở vật chất, trang thiết bị, nhân lực của các phòng
TT-GDSK
32
3.3. Thực trạng về hoạt động TT-GDSK ở tuyến huyện hiện nay
37
3.4. Những thuận lợi khó khăn trong thực hiện hoạt động TT-GDSK ở
tuyến huyện hiện nay
40
ii
3.5. Ý kiến đề xuất về xây dựng phòng TT-GDSK Hoạt động tại trung 45
tâm y tế huyện
3.6. Kết quả xây dựng và hoạt động của phòng TT-GDSK huyện Bình 49
Lục
66
Chương 4. BÀN LUẬN
4.1. Thực trạng về cơ sở vật chất, trang thiết bị, nhân lực của phòng 66
TT-GDSK thuộc Trung tâm y tế huyện
4.2. Thực trạng hoạt động TT-GDSK tuyến huyện
70
4.3. Những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động TT-GDSK ở tuyến
huyện
73
4.4. Hoạt động xây dựng và đánh giá mô hình thí điểm Phòng TT-GDSK
tại huyện Bình Lục tỉnh Hà Nam
77
4.5. Ảnh hưởng của phòng TT-GDSK đến hoạt động TT-GDSK ở tuyến
xã và kiến thức, thực hành của dân về một số vấn đề sức khỏe, bệnh tật
thường gặp
81
4.6. Một số hạn chế của nghiên cứu
83
KẾT LUẬN
84
KHUYẾN NGHỊ
87
TÀI LIỆU THAM KHẢO
89
PHỤ LỤC
93
iii
BẢN TỰ ĐÁNH GIÁ
Về tình hình thực hiện và những đóng góp mới
của đề tài khoa học & công nghệ cấp bộ
1. Tên đề tài: “Nghiên cứu thực trạng truyền thông giáo dục sức khỏe tuyến
huyện và xây dựng mô hình thí điểm phòng truyền thông giáo
dục sức khỏe ở trung tâm y tế dự phòng huyện”.
• Mã số:
2. Thuộc chương trình (nếu có): Tuyển chọn
3. Chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Văn Hiến
4. Cơ quan chủ trì đề tài: Trường Đại học Y Hà Nội
5. Thời gian thực hiện (BĐ-KT): 11/2007 - 4/2010
6. Tổng kinh phí thực hiện Đề tài: 430 triệu đồng
Trong đó, kinh phí từ NSNN:
430 triệu đồng
7. Tình hình thực hiện đề tài so với đề cương:
7.1. Về mức độ hoàn thành khối lượng công việc: Đã hoàn thành đầy đủ khối
lượng công việc như đã viết trong đề cương với các sản phẩm:
- Hoàn thành báo cáo tổng kết đề tài trên 90 trang với các số liệu đảm bảo tính
khoa học và tin cậy.
- Công bố 8 bài báo khoa học trên 3 tạp chí là: 03 bài trên tạp chí Y học thực
hành, 02 bài trên tạp chí Y học Việt Nam và 02 bài trên tạp chí Nghiên cứu y học,
01 bài trên tạp chí Y học dự phòng.
- Hướng dẫn hai khóa luận tốt nghiệp đại học của sinh viên y đa khoa đã bảo vệ
đạt loại xuất sắc.
- Một đề cương luận văn cao học đã thông qua hiện đang thực hiện.
- Một đề cương nghiên cứu sinh đã thông qua hiện đang thực hiện.
7.2. Về các yêu cầu khoa học và chỉ tiêu cơ bản của các sản phẩm KHCN:
Thực hiện đầy đủ và đảm bảo chất lượng khoa học.
7.3. Về tiến độ thực hiện:
Thực hiện đúng tiến độ theo đề cương nghiên cứu được phê duyệt và sự gia hạn
của Bộ y tế.
iv
8. Về những đóng góp mới của đề tài:
Nghiên cứu về TT-GDSK gần như là lĩnh vực mới ở Việt Nam, các số liệu đã
được công bố của đề tài trên các tạp chí khoa học đều là các thông tin mới. Khi
so sánh với các thông tin và số liệu đã được công bố trên các ấn phẩm trong và
ngoài nước đến thời điểm kết thúc đề tài, đề tài có những điểm mới sau đây:
8.1. Về giải pháp khoa học - công nghệ
8.1.1. Lần đầu tiên chúng tôi đưa ra các số liệu đáng tin cậy về thực trạng
nguồn lực của các phòng truyền thông giáo dục sức khoẻ (TT-GDSK) và hoạt
động TT-GDSK ở tuyến huyện của 6 tỉnh/thành phố. Các kết quả về thực trạng
nguồn lực và hoạt động TT-GDSK ở tuyến huyện cho thấy hiện nay các phòng
TT-GDSK rất thiếu về nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực vì thế chưa đáp ứng
được nhiệm vụ chuyên môn được giao. Hoạt động TT-GDSK ở tuyến huyện
được thực hiện đa dạng nhưng chất lượng còn hạn chế do năng lực cán bộ hạn
chế, phần lớn chưa được đào tạo kiến thức và kỹ năng TT-GDSK.
8.1.2. Mô tả được các thuận lợi, khó khăn trong hoạt động TT-GDSK ở tuyến
huyện:
Thuận lợi: Những thuận lợi chính đối với hoạt động TT-GDSK ở tuyến huyện
là phòng TT-GDSK được thành lập là cơ sở pháp lý để đẩy mạnh triển khai các
hoạt động TT-GDSK ở huyện. Do có tổ chức chịu trách nhiệm về hoạt động
TT-GDSK nên cán bộ được bố trí cho hoạt động TT-GDSK rõ ràng hơn. Nhóm
tuổi 31-45 tuổi: chiếm 43,2%, đây là nhóm tuổi trẻ, nhiệt tình, thời gian làm
việc còn dài, đây cũng là nhóm tuổi đã có số năm công tác nhất định, tích lũy
được kinh nghiệm, kiến thức trong công việc. Hoạt động TT-GDSK có sự trợ
giúp của đội ngũ cộng tác viên đông đảo và nhiệt tình ở địa phương. Một thuận
lợi khác được tỷ lệ lớn cán bộ nhấn mạnh là: Hoạt động TT-GDSK của huyện
được sự quan tâm của lãnh đạo các cấp là một thuận lợi rất lớn. Có sự phối hợp
với các ban ngành đoàn thể và phối hợp liên ngành giúp làm giảm những khó
khăn do thiếu nhân lực. Hoạt động TT-GDSK được chỉ đạo theo ngành dọc từ
tuyến trung ương đến tuyến huyện, đây là thuận lợi rất cơ bản.
Khó khăn: Các khó khăn chung của huyện đề cập đến nhiều nhất là thiếu nhân
lực; sau đó là thiếu TTB, phương tiện, thiếu tài liệu/ấn phẩm; thiếu cơ sở vật
chất; thiếu kinh phí. Rất ít cán bộ muốn lựa chọn công tác ở phòng TT-GDSK
v
vì theo ý kiến của cán bộ được phỏng vấn thì đây là lĩnh vực mà điều kiện làm
việc còn rất khó khăn, thu nhập lại thấp. Tình trạng phổ biến ở các phòng
TT-GDSK là các cán bộ đều mới làm công tác TT-GDSK: >90% có thâm niên
≤2 năm, chưa được đào tạo/tập huấn gì, 89,9% cán bộ nêu ý kiến họ thiếu kiến
thức kỹ năng TT-GDSK. Phòng TT-GDSK có cán bộ trình độ đại học chiếm tỉ lệ
thấp dưới 40%.
8.1.3. Đề xuất mô hình phòng TT-GDSK và thực hiện đánh giá kết quả bước
đầu xây dựng phòng TT-GDSK ở huyện Bình Lục tỉnh Hà Nam
8.1.3.1. Xây dựng mô hình phòng TT-GDSK tuyến huyện
Căn cứ vào Nghị định số 172/2005/NĐ-CP quy định về tổ chức cơ quan chuyên
môn thuộc Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã thành phố thuộc tỉnh và dựa
trên kết quả điều tra thực trạng, các ý kiến đề xuất của các cán bộ trong lĩnh vực
TT-GDSK, sau hội thảo lấy ý kiến của các chuyên gia về xây dựng phòng
TT-GDSK chúng tôi đề xuất các hoạt động xây dựng phòng TT-GDSK như sau:
- Thành lập phòng Truyền thông giáo dục sức khỏe thuộc Trung tâm y tế huyện.
- Cơ cấu nhân sự cho phòng: 4 cán bộ, một trưởng phòng, một phó phòng và 2
nhân viên.
- Sắp xếp địa điểm làm việc độc lập cho phòng truyền thông GDSK.
- Cung cấp trang thiết bị cần thiết cho hoạt động của phòng TT-GDSK huyện và
cho hai trạm y tế xã thực hiện thí điểm.
- Xây dựng chức năng nhiệm vụ và triển khai các hoạt động của phòng TT-GDSK,
trong đó chú trọng đến chức năng quản lý của phòng TT-GDSK.
- Đào tạo các kiến thức, kỹ năng cần thiết cho cán bộ phòng TT-GDSK và cán
bộ y tế xã.
8.1.3.2. Các kết quả xây phòng TT-GDSK
- Sở Y tế Hà Nam đã ra quyết định thành lập Phòng TT-GDSK để đảm bảo tính
pháp lý chính thức cho phòng đi vào hoạt động (phụ lục 2)
- Cơ cấu nhân sự của phòng gồm 4 người: trưởng, phó phòng và 2 nhân viên.
- Sắp xếp địa điểm làm việc độc lập cho phòng truyền thông
- Cung cấp trang thiết bị: Thực hiện việc mua các trang thiết bị cần thiết cho
hoạt động của phòng TT-GDSK huyện và cho 2 trạm y tế xã thực hiện thí điểm
dựa trên kết quả khảo sát nhu cầu thực tế (phụ lục 8).
vi
- Thảo luận xây dựng chức năng nhiệm vụ cụ thể làm cơ sở cho triển khai các
hoạt động của phòng TT-GDSK (phụ lục 3).
- Phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng cán bộ của phòng (phụ lục 4).
- Thực hiện đào tạo để trang bị kiến thức, kỹ năng về TT-GDSK cho cán bộ, là
điều kiện tiên quyết để đẩy mạnh các hoạt động TT-GDSK trong huyện.
- Phòng TT-GDSK xây dựng kế hoạch hoạt động theo tháng, quý, năm, chú
trọng đến cả các hoạt động TT-GDSK định kỳ theo chủ đề và đột xuất khi có
nhu cầu, đồng thời hướng dẫn các trạm y tế xã cùng xây dựng kế hoạch.
- Phân công cán bộ phòng TT-GDSK thực hiện theo dõi/giám sát hàng tháng để
hỗ trợ, đào tạo cho cán bộ y tế xã/thôn là hoạt động rất hiệu quả.
- Ban giám đốc TTYT huyện chỉ đạo hoạt động phối hợp, lồng ghép TT-GDSK
theo các chương trình y tế và phối hợp các cán bộ các khoa chuyên môn của
TTYT huyện cùng tham gia thực hiện TT-GDSK.
- Thống nhất trưởng TYT các xã chịu trách nhiệm phụ trách công tác TT-GDSK.
- Thực hiện giao ban chuyên đề về TT-GDSK trong giao ban hàng tháng của
trưởng TYT với TTYT huyện. Thông qua giao ban thực hiện đào tạo, chia sẻ
kinh nghiệm và động viên khuyến khích cán bộ đẩy mạnh công tác TT-GDSK ở
xã/thôn.
- Khi so sánh một số hoạt động TT-GDSK năm 2008 (chưa có phòng TT-GDSK)
và năm 2009 (có phòng TT-GDSK) tại các xã mà trưởng TYT đã nêu cho thấy
hoạt động TT-GDSK ở các xã năm 2009 đã có các bước phát triển tốt hơn năm
2008.
- Những thay đổi chính trong hoạt động TT-GDSK mà các trưởng TYT xã nêu
ra là: Số cán bộ TYT xã được đào tạo về kiến thức kỹ năng TT-GDSK năm
2009 đã tăng lên 2 lần so với năm 2008, số cán bộ đánh giá kỹ năng TT-GDSK
của cán bộ ở mức độ khá năm 2009 cũng tăng lên hơn 2 lần so với năm 2008.
Các hoạt động TT-GDSK cả trực tiếp và gián tiếp năm 2009 đều tăng có ý
nghĩa thống kê so với năm 2008.
- Ảnh hưởng của việc đẩy mạnh hoạt động TT-GDSK ở các xã cũng đã có tác
động đến thay đổi kiến thức thực hành của dân về một số vấn đề sức khoẻ bệnh
tật thường gặp ở cộng đồng.
vii
8.2. Về phương pháp nghiên cứu
- Chọn lựa được phương pháp nghiên cứu phù hợp với tình hình thực tế và tính
chất của đề tài. Chúng tôi đã kết hợp phương pháp nghiên cứu mô tả với nghiên
cứu can thiệp, sử dụng cả phương pháp nghiên cứu định lượng và định tính,
trong đó có sử dụng phương pháp xin ý kiến chuyên gia để xây dựng phòng
TT-GDSK và đánh giá kết quả cũng như đề xuất để hoàn thiện xây dựng phòng
TT-GDSK của TTYT huyện.
- Xây dựng bộ công cụ nghiên cứu bao gồm bộ câu hỏi cho nghiên cứu định
lượng và các hướng dẫn cho nghiên cứu định tính để đánh giá thực trạng hoạt
động TT-GDSK ở tuyến huyện và xã, cũng như để thu thập thông tin sau khi
thực hiện hoạt động can thiệp xây dựng phòng TT-GDSK.
- Đề xuất xây dựng mô hình phòng TT-GDSK và đã thực hiện các hoạt động
triển khai mô hình phòng TT-GDSK ở huyện Bình Lục. Trong đó có các hoạt
động chính là đào tạo cán bộ.
- Các kết quả bước đầu đã cho thấy phòng TT-GDSK được thành lập và đi vào
hoạt động đã có ảnh hưởng tích cực đến các hoạt động TT-GDSK trong huyện
Bình Lục. Các hoạt động và quản lý hoạt động TT-GDSK từ huyện đến xã, thôn
của huyện Bình Lục đã đi vào nề nếp và chất lượng đang được tiếp tục nâng cao.
- Sở Y tế tỉnh Hà Nam đánh giá cao hoạt động phòng TT-GDSK tại huyện Bình
Lục và đã có chỉ đạo phổ biến mở rộng áp dụng mô hình phòng TT-GDSK
huyện Bình Lục ra tất cả các huyện/thành phố của tỉnh Hà Nam (Phụ lục 6).
8.3. Những đóng góp mới khác:
Đóng góp cho sự nghiệp khoa học: Đã công bố 8 bài báo trên các tạp chí khoa
học của ngành, qua đó nhiều người có thể tham khảo các kết quả nghiên cứu
của đề tài.
Đóng góp cho đào tạo đại học và sau đại học:
- Đào tạo được 2 bác sĩ đa khoa làm khóa luận tốt nghiệp đó là:
•
Tên khóa luận 1: Thực trạng hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe
tại tuyến huyện của 6 tỉnh/thành phố: Yên Bái, Hà Nam, Đắc Lắc, Tiền
Giang, Hải Phòng và Cần Thơ Năm 2008. Sinh viên thực hiện: Đỗ Thị
Thu Trang; Khóa 2003-2009; Tổ 14 Y6D; Người hướng dẫn: TS. Lê Thị Tài.
viii
•
Tên khóa luận 2: Hoạt động Truyền thông giáo dục sức khỏe và kiến thức,
thực hành của dân về một số vấn đề sức khỏe bệnh tật tại xã Đồng Du và
Tràng An huyện Bình Lục tỉnh Hà Nam năm 2008. Sinh viên thực hiện:
Trần Vũ Hoàng khóa 2003-2009; Tổ 14 Y6D; Người hướng dẫn: TS.
Nguyễn Văn Hiến.
- Xây dựng được một đề cương nghiên cứu sinh cho một thành viên của nhóm
nghiên cứu là ThS. Trần Thị Nga, nghiên cứu sinh chuyên ngành Y tế Công
cộng khóa 27 của Trường Đại học Y Hà Nội, đề cương đã được thông qua, hiện
nay nghiên cứu sinh đang thực hiện đề tài nghiên cứu.
- Xây dựng một đề cương cho một thạc sỹ: Nguyễn Bích Ngọc; học viên cao
học Y tế Công cộng khóa 17 của Trường Đại học Y Hà Nội, đề cương đã được
thông qua, hiện nay học viên đang thực hiện đề tài nghiên cứu.
Ngày 28/4/2010 đề tài đã được Hội đồng khoa học công nghệ nghiệm thu cơ sở
đề tài cấp Bộ đánh giá đạt mức A (xuất sắc).
Ngày 18/6/2010 đề tài được Hội đồng khoa học công nghệ nghiệm thu cấp Bộ
đánh giá đạt mức A (xuất sắc).
Hà Nội, ngày 21 tháng 6 năm 2010
CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI
(Họ, tên và chữ ký)
Nguyễn Văn Hiến
ix
Danh môc c¸c ch÷ viÕt t¾t
BHYT
Bảo hiểm y tế
BVSK
Bảo vệ sức khỏe
BVTV
Bảo vệ thực vật
CMNV
Chuyên môn nghiệp vụ
CSSK
Chăm sóc sức khỏe
CSSKBĐ
Chăm sóc sức khỏe ban đầu
CT/DA
Chương trình/Dự án
ĐB
Đồng bằng
ĐT
Đô thị
GDSK
Giáo dục sức khỏe
LĐ
Lãnh đạo
LKH
Lập kế hoạch
MN
Miền núi
NĐTP
Ngộ độc thực phẩm
NS-VSMT
Nước sạch -Vệ sinh môi trường
PV
Phỏng vấn
TCC
Tiêu chảy cấp
TCYTTG
Tổ chức y tế thế giới
TLN
Thảo luận nhóm
TTB
Trang thiết bị
TT-GDSK
Truyền thông Giáo dục sức khỏe
TTYT
Trung tâm y tế
TTYTDP
Trung tâm y tế dự phòng
TYT
Trạm Y tế
x
ĐẶT VẤN ĐỀ
Truyền thông giáo dục sức khỏe (TT-GDSK) có vai trò quan trọng
trong công tác chăm sóc sức khỏe (CSSK) cộng đồng vì thế đã được Tổ chức
y tế Thế giới (TCYTTG) xếp là nội dung số một trong các nội dung về Chăm
sóc sức khỏe ban đầu (CSSKBĐ) [6], [40]. Ở nước ta nhận thức được vai trò
quan trọng của TT-GDSK trong chăm sóc sức khỏe nhân dân, Đảng, Nhà
nước và Bộ Y tế rất quan tâm đến hoạt động TT-GDSK. Nghị quyết số 46NQ/TW ngày 23 tháng 02 năm 2005 của Bộ Chính trị đã khẳng định công tác
thông tin, truyền thông, giáo dục sức khỏe là một trong những nhiệm vụ quan
trọng và giải pháp chủ yếu để bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân
dân trong tình hình mới [1]. Truyền thông giáo dục sức khỏe góp phần tích
cực trong tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước
về y tế, trang bị kiến thức và kỹ năng cần thiết để mỗi người, mỗi gia đình,
mỗi cộng đồng có thể chủ động phòng bệnh, xây dựng nếp sống vệ sinh, rèn
luyện thân thể, hạn chế những lối sống và thói quen có hại với sức khỏe,
phòng chống dịch bệnh và tham gia hoạt động bảo vệ, chăm sóc sức khỏe tại
cộng đồng, góp phần tạo ra sự bình đẳng trong CSSK [5].
TT-GDSK là hoạt động mang tính xã hội và áp dụng các phương pháp hợp lý
để thông tin và gây tác động đến quyết định của mỗi cá nhân và cộng đồng
nhằm nâng cao sức khỏe (NCSK), bao gồm quá trình giúp đỡ, động viên để
mọi người hiểu được vấn đề sức khỏe của họ và từ đó lựa chọn được cách giải
quyết vấn đề thích hợp. TT-GDSK là một quá trình thường xuyên, liên tục và
lâu dài, nó tác động đến ba lĩnh vực của đối tượng được TT-GDSK: kiến thức
của đối tượng về vấn đề sức khỏe, thái độ của đối tượng đối với vấn đề sức
khỏe và thực hành hay hành vi ứng xử của đối tượng để giải quyết vấn đề sức
khỏe, bệnh tật [12], [14].
Hiện nay ở nước ta hệ thống TT-GDSK đã được hình thành từ tuyến trung
ương đến tuyến cơ sở. Tuy nhiên, tổ chức phòng TT-GDSK của Trung tâm y
tế (TTYT) huyện chỉ mới được hình thành theo Nghị định của Chính phủ số
172/2005/NĐ-CP [10], [9]. Theo chương trình hành động TT-GDSK đến
năm 2010 do Bộ trưởng Y tế phê duyệt, tuyến huyện là tuyến có vai trò quan
trọng trong chỉ đạo và thực hiện chương trình hành động TT-GDSK [8]. Để
có thể đảm nhận các chức năng nhiệm vụ của phòng TT-GDSK và tổ chức
1
thực hiện, quản lý tốt các hoạt động TT-GDSK trên địa bàn huyện, phòng
TT-GDSK phải có đủ các điều kiện tối thiểu về nguồn lực. Trước hết cần có
đội ngũ cán bộ đủ về số lượng và được đào tạo kiến thức, kỹ năng TTGDSK. Bộ Y tế-Bộ Nội vụ cũng đã có Thông tư liên tịch số 08/2007/TTLTBYT-BNV, ngày 05/6/2007 hướng dẫn định mức biên chế sự nghiệp trong các
cơ sở y tế nhà nước [13], nhưng thực tế tình hình nhân lực của các phòng TTGDSK thuộc TTYT huyện hiện nay như thế nào? Liệu đội cán bộ có đủ năng
lực thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình không? Họ cần được đào tạo và
quản lý như thế nào để đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ chuyên môn? Mặt khác, để
thực hiện tốt nhiệm vụ, phòng TT-GDSK cũng cần có cơ sở vật chất, trang
thiết bị/phương tiện tối thiểu để thực hiện TT-GDSK. Điều quan trọng khác là
phòng TT-GDSK phải có những quy định cụ thể về phân công nhiệm vụ, xây
dựng kế hoạch và cơ chế hoạt động, quản lý thích hợp. Nhưng hiện nay chúng
ta còn thiếu thông tin về các vấn đề này để có thể xác định cụ thể hơn nhu cầu
về nhân lực, cơ sở vật chất, trang thiết bị/phương tiện cho thực hiện TT-GDSK
ở tuyến huyện như thế nào? Mô hình hoạt động của phòng TT-GDSK tuyến
huyện như thế nào là thích hợp? Đây là các câu hỏi đặt ra cần được trả lời. Để
cung cấp thông tin cho việc lập kế hoạch và xây dựng các phòng TT-GDSK
chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu thực trạng truyền thông giáo dục sức
khỏe tuyến huyện và xây dựng mô hình thí điểm phòng truyền thông giáo dục
sức khỏe ở trung tâm y tế dự phòng huyện”.
Nghiên cứu này tìm hiểu những khía cạnh thực tế hiện nay liên quan đến hoạt
động TT-GDSK tại tuyến huyện và đề xuất mô hình phòng TT-GDSK của
TT-YTDP huyện với mong muốn đẩy mạnh hoạt động TT-GDSK tại tuyến
huyện, góp phần tích cực nâng cao sức khỏe cộng đồng.
Mục tiêu nghiên cứu:
1. Đánh giá thực trạng về nguồn lực, tổ chức và hoạt động TT-GDSK
khỏe của Trung tâm Y tế Dự phòng huyện.
2. Xác định các yếu tố tăng cường và hạn chế năng lực hoạt động của
Phòng TT-GDSK huyện thuộc Trung tâm Y tế dự phòng huyện.
3. Thực hiện và đánh giá mô hình thí điểm Phòng TT-GDSK tại một
huyện đồng bằng.
2
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. Vai trò của truyền thông giáo dục sức khỏe trong công tác chăm sóc
sức khỏe
Truyền thông Giáo dục sức khỏe được xếp là nội dung số một trong các nội
dung CSSKBĐ mà hội nghị Alma Ata năm 1978 về CSSKBĐ đã nêu ra.
Nhiều tài liệu của TCYTTG đã đề cập đến vai trò quan trọng của TT-GDSK
trong CSSKBĐ [6], [14]. Để đẩy mạnh công tác CSSK nói chung và
CSSKBĐ nói riêng có thể lựa chọn hai giải pháp, giải pháp thứ nhất là đầu tư
cho đào tạo nhiều loại hình cán bộ y tế để mở rộng thực hiện các nhiệm vụ
CSSK cho nhân dân; Giải pháp thứ hai là cung cấp các kiến thức, nâng cao
trình độ hiểu biết để mọi người có thể tự CSSK cho mình, cho gia đình và cho
cộng đồng. Thực tế cho thấy các cá nhân, gia đình và cộng đồng đưa ra hầu
hết các quyết định CSSK cho họ chứ không phải cán bộ y tế. Chính vì vậy,
giải pháp thứ hai mang tính khả thi cao, được nhiều người ủng hộ vì giá thành
đầu tư thường thấp và được nhân dân chấp nhận. Lựa chọn giải pháp thứ hai
có nghĩa là phải đẩy mạnh các hoạt động TT-GDSK ở các tuyến, nhất là tuyến
cơ sở vì TT-GDSK là quá trình giúp đỡ, động viên để mọi người hiểu và chọn
được cách giải quyết thích hợp nhất vấn đề sức khỏe của họ [12], [14], [45].
TT-GDSK là một quá trình cần được tiến hành thường xuyên, liên tục, lâu
dài, kết hợp nhiều phương pháp. Hoạt động TT-GDSK không phải chỉ đơn
thuần là phát đi các thông tin hay thông điệp về sức khỏe, hay cung cấp thật
nhiều thông tin về sức khỏe cho mọi người, mà là quá trình tác động có mục
đích, có kế hoạch vào con người nhằm thay đổi kiến thức, thái độ và cách
thực hành của mỗi người nhằm NCSK cho họ và cho cả cộng đồng. Hoạt
động TT-GDSK thực chất là tạo ra môi trường hỗ trợ cho quá trình thay đổi
hành vi sức khỏe của mỗi người nhằm đạt được tình trạng sức khỏe tốt nhất
có thể được [39].
Sự tập trung của TT-GDSK là vào lý trí, tình cảm và các hành động nhằm
thay đổi hành vi có hại, thực hành hành vi có lợi mang lại cuộc sống khỏe
mạnh, hữu ích cho mọi người. TT-GDSK cũng là phương tiện hỗ trợ nhằm
3
phát triển ý thức con người, phát huy tính tự lực cánh sinh và chủ động phòng
ngừa và giải quyết vấn đề sức khỏe của cá nhân và cộng đồng [36].
Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII về
những vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân
đã khẳng định nhiệm vụ quan trọng của TT-GDSK: “... làm tốt công tác tuyên
truyền, giáo dục sức khỏe và hỗ trợ về mặt kỹ thuật - chuyên môn, để nhân
dân tự giác, chủ động xây dựng nếp sống trật tự, vệ sinh, có ý thức phòng
bệnh, phòng dịch, bảo vệ môi trường, môi sinh, thường xuyên rèn luyện thân
thể và tham gia tích cực vào các hoạt động chăm sóc sức khỏe ở cơ sở”.
Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 23 tháng 02 năm 2005 của Bộ Chính trị xác
định rõ vai trò của TT-GDSK trong tình hình mới: Truyền thông giáo dục sức
khỏe “Tạo sự chuyển biến rõ rệt về nhận thức, trách nhiệm của toàn bộ hệ
thống chính trị đối với công tác bảo vệ chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân
dân, trang bị kiến thức và kỹ năng để mỗi người, mỗi gia đình, mỗi cộng đồng
có thể chủ động phòng bệnh, xây dựng nếp sống vệ sinh, rèn luyện thân thể,
hạn chế những lối sống và thói quen có hại với sức khỏe, tham gia tích cực
các hoạt động bảo vệ chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân...” [1].
Nhiệm vụ của TT-GDSK là làm cho mọi người thay đổi các hành vi sức khỏe
có hại, thực hành các hành vi, lối sống lành mạnh. Quá trình thay đổi hành vi
thường diễn ra một cách phức tạp, quá trình này chịu tác động của rất nhiều
yếu tố bên trong và bên ngoài, diễn ra qua nhiều giai đoạn [12], [14], [36].
Hầu hết các vấn đề sức khỏe không thể chỉ giải quyết bằng thuốc hay các
phương pháp điều trị, mà cần kết hợp với các biện pháp khác trong đó có vai
trò quan trọng của TT-GDSK và các hoạt động tư vấn hỗ trợ thay đổi hành vi
và duy trì hành vi lành mạnh [31], [41]. Chẳng hạn như chương trình CSSK
bà mẹ và trẻ em trong đó có dân số và kế hoạch hóa gia đình ở Việt Nam đã
thu được nhiều kết quả tốt, phải nói đến sự đóng góp rất lớn cho thành công
của chương trình này đó là hoạt động truyền thông dân số [15].
Hoạt động TT-GDSK không thay thế được các dịch vụ CSSK khác, nhưng nó
góp phần nâng cao hiệu quả của các dịch vụ CSSK khác. Đầu tư cho TT-GDSK
chính là đầu tư có chiều sâu, lâu dài cho công tác bảo vệ và NCSK. Hoạt động
TT-GDSK thể hiện quan điểm dự phòng trong CSSK, mang lại hiệu quả lâu
dài, bền vững vì nếu mọi người có hiểu biết và có những kỹ năng nhất định về
4
phòng chống bệnh tật, NCSK, họ có thể chủ động quyết định hành vi CSSK
đúng đắn. Hiện nay, rất nhiều chương trình CSSK sẽ không thể thành công
nếu không chú trọng đến vai trò của TT-GDSK nhằm thay đổi các hành vi
liên quan đến sự tồn tại của các vấn đề sức khỏe, bệnh tật.
1.2. Những đóng góp của hệ thống truyền thông giáo dục sức khỏe trong
thành quả chung của ngành Y tế ở Việt Nam
TT-GDSK được đánh giá là có vai trò vô cùng quan trọng trong công tác
CSSKBĐ. Nhờ có TT-GDSK mà tất cả mọi người dân trong cộng đồng đều
có cơ hội tiếp cận với những thông tin, những kiến thức và dịch vụ chăm sóc
sức khỏe cho họ. Việt Nam là một trong các nước đã tham dự và cam kết thực
hiện các mục tiêu của Tuyên ngôn Alma-Ata về CSSKBĐ năm 1978. Năm
1980 Chính phủ chỉ đạo ngành y tế triển khai thực hiện Chiến lược chăm sóc
sức khỏe ban đầu. Dưới sự chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, với nguyên tắc cơ
bản là đảm bảo phục vụ nhân dân tốt nhất và có hiệu quả cao, các cơ sở y tế
trong ngành y tế của nước ta đã có khả năng đáp ứng được nhu cầu CSSK
thiết yếu cho nhân dân.
Năm 1999, trong công trình nghiên cứu của một số nhà khoa học của Bộ Y tế
và Bộ Quốc phòng đã tiến hành đánh giá 20 năm thực hiện CSSKBĐ ở Việt
Nam. Kết quả nghiên cứu khẳng định: Trong 20 năm thực hiện CSSKBĐ
nước ta đã triển khai thực hiện đầy đủ và có hiệu quả cả 10 nội dung
CSSKBĐ, góp phần cải thiện tình trạng sức khỏe của nhân dân ta ngang tầm
với một số nước trên thế giới và trong khu vực có mức thu nhập cao hơn nước
ta nhiều lần. Trong báo cáo kết quả nghiên cứu đã nêu hai nhận xét quan
trọng về vai trò của TT-GDSK: Một là công tác TT-GDSK khỏe ngày càng
đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân
dân. Hai là TT-GDSK là sự nghiệp của cả cộng đồng, trong đó ngành Y tế giữ
vai trò nòng cốt và các Trung tâm TT-GDSK sức khỏe là hạt nhân [23].
Công tác TT-GDSK trong những năm qua đã có đóng góp to lớn trong thành
quả chung của ngành Y tế. Cả hệ thống truyền thông đã góp phần cùng với
các đơn vị ngành y tế làm tốt công tác phòng chống dịch bệnh, khắc phục hậu
quả của thiên tai, thảm hoạ, những nỗ lực trong việc giảm quá tải tại bệnh
viện, chuyển tải một số nội dung và chính sách của Đảng, Nhà nước, của
ngành y tế về công tác y tế đến được người dân. Nhìn chung, hoạt động của
5
các Trung tâm TT-GDSK tại các tỉnh/thành phố đã dần mang tính chủ động,
có định hướng và hệ thống từ tuyến tỉnh đến tuyến cơ sở. Năm 2006, Bộ Y tế
cũng đã triển khai hội thảo tổng kết hoạt động giáo dục sức khỏe trong bệnh
viện và cũng đã đề cập đến nhu cầu cần đẩy mạnh và lồng ghép hoạt động
TT-GDSK trong công tác chăm sóc bệnh nhân [30], [31], [32].
Trong Báo cáo Y tế Việt Nam năm 2006 Chương 21 nhấn mạnh đến vai trò
của TT-GDSK được coi là một biện pháp dự phòng có chi phí thấp nhưng
hiệu quả cao và bền vững, đồng thời cũng là giải pháp quan trọng trong thực
hiện các chính sách lớn về y tế. Hoạt động TT-GDSK có vai trò quan trọng
trong thực hiện một chủ trương quan trọng của ngành y tế là thực hiện xã hội
hóa các hoạt động y tế, tạo ra chuyển biến rõ rệt về nhận thức, trách nhiệm
của toàn bộ hệ thống chính trị đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao
sức khỏe nhân dân, đồng thời cung cấp thông tin, trang bị kiến thức và kỹ
năng để mỗi người, mỗi gia đình mỗi cộng đồng có thể tham gia tích cực các
hoạt động bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe cho cộng đồng [11]. Trong
chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Số 46-NQ/TW
ngày 23 táng 02 năm 2005 của Bộ Chính trị, nhiệm vụ tăng cường công tác
TT-GDSK được nhắc đến đầu tiên.
Nâng cao
sức khỏe
Quản lý
sức khỏe
Dinh
dưỡng
VSATTP
Kiện toàn
mạng lưới
y tế
Nước
sạch,
VSMT
Truyền
thông
GDSK
Thuốc
thiết yếu
ĐT bệnh
thông
thường
Dự phòng
dịch bệnh
Chăm
sóc SK
BMTE
Tiêm
chủng
mở rộng
Sơ đồ 1.1. TT-GDSK cần thiết trong nhiều lĩnh vực chăm sóc,
bảo vệ sức khỏe nhân dân*
* Nguồn: Báo cáo y tế Việt Nam 2006 - Bộ Y tế [11].
6
Công tác TT-GDSK là một trong những giải pháp thiết yếu để nâng cao nhận
thức và thay đổi hành vi của người dân trong phòng bệnh, chữa bệnh và
NCSK. Hiện nay TT-GDSK được đặc biệt quan tâm trong các chương trình
phòng chống HIV/AIDS, phòng chống suy dinh dưỡng, vệ sinh an toàn thực
phẩm, phòng chống bệnh cúm A H5N1 và H1N1 .
Thực tế cho thấy thực hiện tốt công tác TT-GDSK sẽ góp phần triển khai có
hiệu quả các chương trình y tế quốc gia, tránh lãng phí nguồn lực sẵn có do
hậu quả của việc thiếu thông tin, kiến thức về các vấn đề liên quan đến sức
khỏe cũng như các hành vi có hại cho sức khỏe của người dân trong cộng
đồng gây ra [34].
TT-GDSK không chỉ quan trọng trong công tác phòng bệnh mà còn có ý
nghĩa trong công tác điều trị và quản lý các trường hợp bệnh. Hiện nay công
tác thông tin, truyền thông, giáo dục về sử dụng thuốc an toàn hợp lý và quản
lý các bệnh mạn tính đang là một trong những trọng tâm công tác của ngành y
tế. Nguy cơ sử dụng thuốc không an toàn như người dân tự mua thuốc điều trị
không theo chỉ định của bác sĩ hoặc sử dụng thuốc theo thói quen không có sự
hướng dẫn và giám sát của nhân viên y tế là khá phổ biến. Đó là do sự thiếu
tiếp cận thông tin và thiếu hiểu biết của người dân về hậu quả của việc tự
dùng thuốc. Kết quả điều tra y tế quốc gia năm 2001-2002 cho thấy có 73%
người ốm tự mua thuốc về chữa bệnh [35].
1.3. Các yêu tố làm cho truyền thông giáo dục sức khỏe có hiệu quả
Truyền thông bao gồm 3 khâu cơ bản có liên quan chặt chẽ với nhau:
Nguồn
phát tin
Kênh truyền tin
Nơi
nhận tin
Sơ đồ 1.2: Ba khâu cơ bản của truyền thông
Hiệu quả của quá trình truyền thông phụ thuộc vào cả 3 khâu cơ bản: nguồn
phát tin, kênh truyền tin và nơi nhận tin. Vì vậy, để đạt được hiệu quả của quá
trình truyền thông cần phải đảm bảo những điều kiện cần thiết đối với cả 3
khâu này.
7
1.3.1. Yêu cầu đối với nguồn phát tin
Nguồn phát tin chính là những người thực hiện TT-GDSK. Người thực hiện
TT-GDSK là mắt xích quan trọng nhất, quyết định đến kết quả và hiệu quả
của quá trình truyền thông. Để đạt được kết quả và hiệu quả tốt, các cán bộ
làm công tác TT-GDSK trước hết cần phải có kiến thức về y học. Đó là những
kiến thức cần thiết về những vấn đề sức khỏe, bệnh tật cần TT-GDSK để có
thể soạn thảo các nội dung và thông điệp phù hợp với từng loại đối tượng
đích. Bên cạnh đó, những kiến thức về tâm lý học và khoa học hành vi, kiến
thức và kỹ năng về giáo dục học, kiến thức và kỹ năng truyền thông giao tiếp,
sự hiểu biết về phong tục tập quán, văn hóa xã hội và những vấn đề kinh tế,
chính trị của cộng đồng là những điều kiện cần thiết hỗ trợ cho quá trình TTGDSK diễn ra thuận lợi, phù hợp và đạt hiệu quả cao. Kiến thức về tâm lý học
và khoa học hành vi giúp hiểu được tình cảm, tâm lý, các yếu tố ảnh hưởng
đến hành vi, quá trình thay đổi hành vi của các đối tượng đích, từ đó chọn các
cách giao tiếp, các phương tiện và phương pháp TT-GDSK cho thích hợp với
từng loại đối tượng đích. Thực chất của TT-GDSK là quá trình dạy và học, vì
thế người TT-GDSK cần vận dụng các kiến thức giáo dục học, tạo điều kiện
hỗ trợ cho quá trình học tập của đối tượng đích. Kiến thức và kỹ năng truyền
thông giao tiếp là điều kiện cần thiết để thực hiện mọi hoạt động TT-GDSK
hiệu quả [14]. Song, để đảm bảo có cách tiếp cận và thực hiện giáo dục thích
hợp, được sự chấp nhận của đối tượng và của cộng đồng, người TT-GDSK cũng
cần nắm được các thông tin cơ bản về cộng đồng, bao gồm các thông tin về đời
sống văn hóa, chính trị, xã hội của cộng đồng. Người cán bộ TT-GDSK phải có
sự hiểu biết về phong tục tập quán, văn hóa xã hội và những vấn đề kinh tế,
chính trị của cộng đồng [45].
Trên đây là những yếu tố chủ quan cần có đối với người làm công tác TT-GDSK.
Tuy nhiên, để khuyến khích họ phát huy được năng lực chuyên môn và nhiệt
tình, gắn bó với nghề nghiệp thì cần tạo cho họ môi trường làm việc thuận lợi,
trước hết là đảm bảo những điều kiện về cơ sơ sở vật chất, trang thiết bị
chuyên môn cần thiết và điều kiện làm việc tối thiểu. Nước ta còn nghèo, cơ
sở vật chất cũng như các trang thiết bị, điều kiện làm việc cho cán bộ y tế nói
chung, đặc biệt cán bộ thuộc hệ thống TT-GDSK nói riêng còn nhiều khó
8
- Xem thêm -