Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu thơ nôm tự trào của nguyễn khuyến và tú xương...

Tài liệu Nghiên cứu thơ nôm tự trào của nguyễn khuyến và tú xương

.PDF
118
970
102

Mô tả:

Nghiên cứu thơ Nôm tự trào của Nguyễn Khuyến và Tú Xương PHẦN MỞ ĐẦU 1. Mục đích ý nghĩa của đề tài 1.1. Về khoa học cơ bản Khi nói đến thơ trào phúng trong giai đoạn cận hiện đại không ai trong chóng ta là không nghĩ đến hai nhà thơ lớn của dân tộc cùng sống trong mét giai đoạn lịch sử và cùng cã chung cái gốc của một nhà nho: Đó chính là Nguyến Khuyến (1835- 1900 ) và Trần Tế Xương (1870 – 1907). Trong mảng thơ trào phúng của hai ông thì thơ tự trào chiếm vị trÝ quan trọng cả về số lượng và giá trị nghệ thuật, nó thể hiện rất rõ tâm trạng của nhà thơ. Thơ tự trào vừa thể hiện ý thức cá nhân lại vừa mang ý nghĩa xã hội. Qua những bài thơ tự trào, chóng ta có thể cảm nhận được tiếng lòng của tác giả. Nh vậy không chỉ thơ trữ tình có thể giúp các nhà thơ bày tỏ tâm trạng, tình cảm mà chính mảng thơ tự trào cũng giúp các nhà thơ bộc lộ cảm xóc, suy tư một cách rất hữu hiệu. Cùng là tự cười mình song mỗi tác giả đều có những cách cười thật khác nhau. Chính vì vậy so sánh thơ tự trào của Nguyễn Khuyến và Tú Xương để từ đó ta có thể thấu hiểu thêm về hai tác giả qua sự tương đồng cũng như khác biệt trong sáng tác thơ của hai nhà thơ, từ đó góp phần làm sáng tỏ phong cách của Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương- hai cây đại thụ lớn của Văn học Trung đại Việt Nam cuối Thế kỷ XIX. 1.2. Về thực tiễn Trong chương trình văn học nhà trường từ trung học đến đại học có rất nhiều những thống kê cho thấy vị trí quan trọng của thơ văn Nguyến Khuyến và Tú Xương ỏ bậc Trung học kể cả trong chương trình cũ và mới là 1 rất quan trọng. Còn ở các Trường đại học và cao đẳng thì thơ Nguyễn KhuyÕn và Tú Xương càng có vị trí quan trọng. Sau đây là bảng thống kê những tác phẩm của Nguyễn Khuyến và Tú Xương được dạy học ở bậc Trung học chương trình đang hiện hành Bậc học Trung học cơ sở Trung thông học NguyÔn Khuyến Bạn đến chơi nhà Câu cá mùa thu Số tiết Tú Xương Số tiết 01 Vịnh khoa thi Đọc thêm 01 Đinh Dậu Khóc Dương Khuê Đọc Thương vợ 01 thêm tháng 01 phổ Ông nghè tám (chương trình nâng cao) Nguyễn Khuyến 02 (chương trình nâng cao) Với chương trình cũ thì số lượng các tác phẩm của Nguyễn Khuyến và Tú Xương được giới thiệu tới các em học sinh nhiều hơn gấp 3 lần so với chương trình mới nhưng không vì thế mà vị trí của hai nhà thơ lớn này sẽ kém đi. So sánh thơ tự trào của hai tác giả Nguyễn Khuyến và Tú Xương chúng tôi mong muốn góp một phần nhỏ vào việc nghiên cứu và giảng dạy thơ Nguyễn Khuyến và Tú Xương được sâu sắc hơn. 2. Lịch sử vấn đề Đã trải qua biết bao những thăng trầm lịch sử nhưng thơ văn của Nguyễn Khuyến và Tú Xương vẫn chiếm một vị trí rất quan trọng trong lòng những người dân Việt Nam và đặc biệt là những độc giả yêu mến thơ trào phúng. Nhiều câu thơ của Nguyễn Khuyến, Tú Xương được dân gian sử dụng nh những câu châm biếm trong ngôn ngữ giao tiếp thường ngày. 2 Thời gian sẽ làm cho mọi cái trở nên phai nhạt nhưng cũng là minh chứng để khẳng định một cách hùng hồn nhất cho những gì có sức sống trường tồn với thời gian. Như chóng ta đã thấy cho dù đã trải qua gần một trăm năm nhưng Nguyễn Khuyến và Tú Xương luôn để lại trong lòng người đọc sự yêu mến kính trọng, Một cô Tam Nguyên Yên Đổ nhẹ nhàng mà sâu sắc một ông Tú Vị Hoàng sắc sảo và dữ dội, đã có nhiều công trình nghiên cứu về Nguyễn Khuyến và Tú Xương. Nhìn chung các công trình nghiên cứu đều có liên quan đến đề tài, luận văn tập chung vào một số hướng chủ yếu: 2.1. Những nghiên cứu về tác giả có liên quan đến đề tài Trong những nghiên cứu về tác giả có không Ýt những nhà nghiên cứu đã đề cập đến con người tác giả qua những vần thơ tự trào. 2.1.1. Về tác giả Nguyễn Khuyến Nguyễn Khuyến được biết đến với tư cách là một nhà thơ từ rất sớm, ngay từ những năm đầu của thế kỷ XX. Thơ nôm của ông đã được giới thiệu trên tạp chí Nam Phong và cuốn sách: Quốc văn trích diễm của Dương Quảng Hàm xuất bản 1925 cũng đã giới thiệu 7 bài thơ nôm của Nguyễn Khuyến. Từ đó trở đi Nguyễn Khuyến luôn là một nhà thơ được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Tác giả Nguyễn Khuyến được khẳng định là một nhà thơ lớn [13]. Nh lời đánh giá của Xuân Diệu: “Nguyễn Khuyến là một nhà thơ lớn có biệt tài và có giá trị tiêu biểu cho văn học nước ta vào hồi cuối thế kỷ XI X” [9; 15] Như chóng ta đã biết Nguyễn Khuyến trưởng thành trong xã hội giao thời thực dân phong kiến ông là một nhà nho là người tiêu biểu cho lớp người được xã hội phong kiến đào tạo Nguyễn Khuyến là một trong rất Ýt người đã nhận ra sù bi thương lố bịch của xã hội phong kiến, cái xã hội đã ở vào giai đoạn cuối mùa 3 Tiếp sau: Quốc văn trích diễm của Dương Quảng Hàm thì trong cuốn sách nổi tiếng Việt Nam Văn học sử yếu (Nha học chính Đông Pháp xuất bản . H. 1943) đã xếp Nguyễn Khuyến vào hàng ngũ các nhà thơ trào phúng nổi tiếng của Văn học dân tộc. Hay trong cuốn: Văn thơ Nguyễn Khuyến, (Bộ Giáo dục xuât bản. H. 1957) còng phong cho ông là một nhà thơ trào phúng Việt Nam có tiếng cười độc đáo Bộ sách Văn học sử quan trọng nhất của Văn học cổ trung đại: Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam (gồm 3 tập của nhóm Lê Quý Đôn, Xây dựng xuất bản. H. 1957) đã dành 20 trang để nghiên cứu về Nguyễn Khuyến với tư cách là một nhà thơ trào phúng lớn Trần Quốc Vượng khi viết về Tam Nguyên Yên Đổ cũng nhận xét “Với nhiều day dứt trong nội tâm, Nguyễn Khuyến đã giải toả mặc cảm bằng nhiều cách và ông đã trở thành một nhà thơ châm biếm lớn; cười mình, cười người. Dùng tiếng cười châm biếm để phủ định để đưa ma cái cũ,” trích trong: Nguyễn Khuyến trong bối cảnh văn hoá xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX- đầu thế kỷ XX. [47; 107] Bài viết của Nguyễn Huệ Chi cũng có những nhận xét về con người Tam Nguyên Yên Đổ: “con người đó cũng không quên nhìn lại mình tự vấn mình như một kẻ sỹ chân chính thầm để những giọt nước mắt chảy vào trong và đành cười nhạo thân phận lơ láo tỉnh say, say tỉnh của mình: Sự đa dạng và thống nhất trên quá trình chuyển động của một phong cách và dấu hiệu chuyển mình của tư duy thơ dân tộc. [4; 39] Trong bài viết, Nguyễn Khuyến – thi hào dân tộc của nhà nghiên cứu PGS.TS Vò Thanh đã nói về điều này: “Nguyễn Khuyến lớn chính vì ông là một trong rất Ýt tri thức thời kỳ Êy sớm nhận ra sự bất lực của giai cấp mình…. Ông đem ra trào phúng và châm biếm thần tượng cao nhất của cả một thể chế xã hội đã tồn tại hàng ngàn năm - Ông tiến sỹ nay đã trở thành thứ đồ chơi bằng giấy để “dứ thằng cu”. “Giá trị phê phán càng trở nên sâu 4 sắc hơn khi bản thân sự phê phán lại chính là sự tự phê phán – tự trào. Bởi trong số những ông nghè tháng tám còn có cả bản thân cụ Tam Nguyên Yên Đổ” [43; 12] Quả thực con người ta tự hài hước mình, tự bôi nhọ mình, tự hạ bệ mình và nói như PGS.TS Vò Thanh là “Tự ăn thịt mình” thì thực là khó lắm. Nhưng còn cay đắng hơn khi Nguyến Khuyến nhận ra mình cũng là “mét quan nhọ, một tiến sỹ giấy, là bậc ăn dưng, là ông phỗng đá, lão giả điếc”… bài viết này PGS.TS Vò Thanh đã nhận xét: “Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ có những bài thơ tự trào vào loại sâu sắc nhất trong thể loại văn thơ trào phúng Việt Nam – người giã từ thế kỷ XI X bằng những bài thơ cười ra nước mắt: “Năm canh máu chảy đêm hè vắng” [44,13] Có lẽ nhà nghiên cứu Vũ Thanh là người có thể nói gần đây nhất, trực tiếp nhất đề cập đến mảng thơ tự trào của Nguyến Khuyến và có những nhận định thật sâu sắc về những vần thơ này. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng có một số tác giả khi nghiên cứu về bản thân nhà thơ Nguyễn Khuyến đã Ýt nhiều đề cập đến mảng thơ tự trào khi nghiên cứu thơ trào phúng 2.1.2. Về nhà thơ Tú Xương Nói đến Tú Xương là độc giả thường nghĩ ngay mét trong những nhà thơ kiệt xuất của thơ ca trào phúng Việt Nam, trong đó mảng thơ tự trào chiếm một vị trí không nhỏ. Thơ tự trào là một mảng thơ thể hiện rất rõ tâm trạng và con người Tú Xương một cách khá chân thực. Trong cuốn sách Trông dòng sông vị, (Trung Bắc tân văn, xuất bản. H.1935, nhà xuất bản Tân Việt, Sài Gòn tái bản 1949) của tác giả Trần Thanh Mại đã đề cấp đến một phần đời của nhà thơ Tú Xương thể hiện qua những vần thơ tự trào của ông. Đó là những tiếng than thở thiết tha đau đớn của một kẻ lỡ thời, bây giờ chỉ cầu lấy một cuộc đời bình thường có được miếng ăn nuôi nhau. Vậy mà ông không hề lên tiếng trách đời, trách người, trái lại vẫn nhìn cảnh ngộ của mình một cách thản nhiên bằng những tiếng 5 cười hóm hỉnh nhưng nhiều khi cũng là tiếng cười rơi nước mắt, những điều Êy ông nói ra bằng giọng trào phúng khôi hài như để nhạo báng bản thân mình hay để che lấp vẻ thảm thiết ảo não của một tâm hồn đau đớn [33] Bài viết Nhà thơ Trần Tế Xương, Nguyễn Văn Hoàn cũng đã nhận xét “lịch sử đời riêng của Tú Xương cũng là một lịch sử thất bại, lịch sử của một người suốt đời long đong lận đận vì thi mà chẳng bao giời toại nguyện. Cùng với xã hội thật lố lăng và lý tưởng tiến thân bằng con đường khoa bảng chính đáng vậy mà suốt đời thất bại, Tú Xương đã tự cười mình qua những vần thơ tự trào của ông”. [21] Bài Tú Xương- đỉnh cao của thơ trào phúng Việt Nam của Lê Đình Kị cũng khẳng định “Tú Xương được thời buổi biến thành nhà thơ trào phúng lớn nhất của nền văn học Việt Nam, và ở nhà thơ này hình thức tự trào là hình thức thường dùng và thấm thía nhất, mang ý nghĩa khái quát phát hiện lớn về tình trạng ý thức đương thời. [22] 2.2. Những nghiên cứu về nội dung thơ Nguyễn Khuyến và Tú Xương có liên quan đến đề tài Thơ Nguyễn Khuyến và Tú Xương phản ánh hiện thực xã hội và cuộc sống, trong đó cuộc sống của chính tác giả được thể hiện khá rõ nét qua mảng thơ tự trào 2.2.1. Những nghiên cứu về nội dung thơ của Nguyễn Khuyến Bài Nguyễn Khuyến trong bối cảnh văn hoá xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu XX của tác giả Trần Quốc Vượng ( Theo thi hào Nguyễn Kuyến đời và thơ) cho thấy sau khi chán ngán quan trường, Nguyễn Khuyến cáo quan về quê làm một cụ nghè sống cuộc đời như “phống đá”, “anh giả điếc”, “mù loà”, “mẹ mốc”, “gái goá”. Sống nh vậy dường nh nhà thơ muốn chạy trốn cuộc đời, chạy trốn giai cấp mà ông đã phục vụ quá nửa đời mình, giai cấp đã đến hồi kết thúc nhưng vẫn cố ngắc ngoải tồn tại khi vai trò lịch sử không còn nữa. [47; 98] 6 Cô Tam nguyên Yên Đổ là một trong những chứng nhân cũng là nạn nhân, nhà thơ đã đem danh vị của mình để giễu để cười là “tiến sỹ giấy”, “là vua chèo, quan chèo” trong một xã hội giả dối như những phương chèo mặt nhọ. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử cũng nhận định: “Nguyễn Khuyến đứng ở tuyệt đỉnh vinh quang của khoa cử và đỗ do thực tài hẳn hoi Êy vậy mà ông lại thấy cái danh vị Êy vô nghĩa, thấy cái danh tiến sỹ đang giễu mình “bỡn ông” và nhử lớp trẻ con “dữ thằng cu”, thấy mình đã lầm khi đem chí bình sinh đặt nơi khoa bảng: “nghĩ rằng đồ thật hoá đồ chơi”. Con người trong sáng tác Nguyễn Khuyến, viết nhân ngày kỷ niệm150 ngày sinh nhà thơ. [41;130] 2.2.2. Những nghiên cứu về nội dung thơ của Tú Xương Nguyễn Đình Chú với bài viết Tú Xương nhà thơ lớn của dân tộc đã chỉ ra mét trong những gốc rễ của bản chất hiện thực và trữ tình trong thơ Tú Xương xuất phát một phần từ cuộc sống hiện thực của ông. “Nghèo đói đã cưa xẻ Tú Xương, sự đểu cáng đã vả vào Tú Xương kết quả Tú Xương cũng phải vất vả cay có phát phẫn buồn phiền như ai” Mặc dù vậy nhưng Tú Xương không chịu để cái nghèo tha hoá mình. [7] Cùng với cái nghèo, chuyện thi cử của Tú Xương còng là một bầu tâm sự đầy kịch tính. Cái bi kịch của nhân vật Tú Xương là muốn sống hồn nhiên nhưng không sao sống nổi, muốn bước ra khỏi cái quẩn quanh vô nghĩa nhưng cũng không sao bứơc nổi. Trong khi đó cứ phải trương mắt ngồi nhìn cái xã hội thực dân nửa phong kiến đang hiện lên từng ngày từng giờ với bao nhiêu sự thối tha rác rưởi cứ phải nhìn cuộc sống như sụp lở dưới chân mình. Cho nên rút cục là phẫn chí có khi nh phát điên phát dại đờ đẫn cả người 7 Trần Lê Văn cũng đã đề cập đến cái nghèo trong bài Nhà thơ lớn trên bến vị Hoàng Xưa “Trong những điều than thở của Tú Xương gửi vào thơ phú có một điều than thở cứ trở đi trở lại nh một điệp khúc “than nghèo”” [47] 2.3. Những nghiên cứu nghệ thuật thơ tự trào của Nguyễn Khuyến, Tó Xương 2.3.1. Những nghiên cứu nghê thuật thơ tự trào Nguyễn Khuyến Có nhiều nhà nghiên cứu khi tìm hiểu về nghệ thuật thơ của NguyÔn Khuyến đã đề cập đến nghệ thuật trào phúng của ông tuy nhiên nghiên cứu riêng về mảng thơ tự trào thì còn rất Ýt. Mét trong những bài viết đáng kể nhất là của tác giả Vũ Thanh: Tâm trạng Nguyễn KhuyÕn qua thơ tự trào Theo nhà nghiên cứu thì “giá trị tư tưởng nghệ thuật lớn nhất ở đây là sự phản ánh sâu sắc tâm trạng trữ tình của tác giả qua từng chặng đường đời, qua những cảnh ngộ của cuộc sống. Những biển đổi của thời cuộc và sự trưởng thành nhận thức của nhà thơ, từ tin tưởng chờ mong đến gan lì chai sạn, từ tin tưởng lạc quan đến thất vọng khổ đau, từ khẳng định nhiệt tình đến hoàn toàn phủ định” [44; 184] Tác giả bài viết đã chia thơ tự trào của Nguyễn Khuyến thành hai giọng điệu trào phúng tiêu biểu thể hiện hai loại thái độ với bản thân: Thái độ tự tin vào bản thân, Từ nghi ngờ đến phủ định. 2.3.2. Những nghiên cứu nghệ thuật thơ tự trào của Tú Xương Trong số những tác giả nghiên cứu thơ trào phúng của Tú Xương, chúng ta cũng thấy không nhiều bài nghiên cứu đề cập đến nghệ thuật tự trào có lẽ tiêu biểu nhất là bài viết: Thơ Tú Xương với kiểu tự trào thị dân của tác giả Đoàn Hồng Nguyên, ở bài viết này tác giả khẳng định: Tú Xương có một lối trào lộng khá độc đáo trong phong cách tự hoạ chân dung bằng lời hí hoạ và lời tự chế giếu bôi xấu mình, đó là kiểu tự trào phủ định” [37; 354] 8 Bên cạnh đó tác giả còn chỉ ra tiếng cười khẳng định của Tú Xương. Đó là một Tú Xương tài hoa phong lưu thế thiệp của chốn thị thành . Đặc biệt hơn cả ở bài viết này nhà nghiên cứu cũng đưa những nhận định để so sánh kiểu thơ tự trào của Nguyễn Khuyến và kiểu thơ tự trào của Tú Xương. Tác giả viết ngoài những bài thơ tự trào một cách trực tiếp là những tiếng cười ý nhị. Nguyễn Khuyến còn thể hiện rõ hình ảnh một ông già tự cười mình, thâm trầm mà kín đáo, đó là kiểu tự trào ngôn chí mang tính chất giáo hoá, phi ngã hoá, chưa thoát khỏi quy phạm của văn chương nhà nho. Khác với Nguyễn Khuyến Tú Xương có một lối trào lộng khá độc đáo với kiểu tự trào thị dân. Nh vậy chúng ta có thể thấy: bộ phận thơ tự trào của Nguyễn Khuyến đã góp phần làm nên một dòng thơ tự trào theo bản ngã trong thơ trào phúng nhà nho. Có thể ghi nhận đây là một biểu hiện của sự vùng vẫy nhằm thoát khỏi khuôn khổ thi pháp văn chương trung đại. Tuy vậy thơ tự trào của Nguyễn Khuyến vẫn còn trong khuôn khổ văn chương quy phạm nhà nho, do Nguyễn Khuyến vẫn sáng tác trong cảm thức của nhà nho phong kiến. Phải đến thơ tự trào của Tú Xương sự bứt phá đó mới thực sự trọn vẹn. Những cảm nhận thị dân của nhà nho thị dân Tú Xương tuy chưa thể hiện được một hình thức diễn đạt mới bằng một thể loại mới, nhưng Ýt nhiều Tú Xương cũng đã tạo nên một giọng điệu riêng trong kiểu tự trào của mình. Trong cảm thức thị dân, bằng lối tự trào, tự vịnh, Tú Xương đã tạo nên một kiểu nhà nho thị dân. Trước Tú Xương chưa hề có và trong văn chương trào phúng hiện đại cũng hiếm có một kiểu tự trào độc đáo nh vậy. 3. Nhiệm vụ của luận văn Thực tế đã cho thấy sức sống và vị trí của hai nhà thơ trong tiến trình hình thành và phát triển nên văn học Việt Nam, thơ văn của hai tác giả như một sinh thể có đời sống riêng có vị trí và tầm quan trọng riêng và nếu thiếu 9 nó thì nên văn học trung đại dường như có một khoảng trống không thể lấp. Thế hệ hậu sinh nh chóng ta khó lòng có thể hiểu được bản chất của một xã hội buổi giao thời tây – ta lẫn lén tranh sáng, tranh tối. Thấy được giá trị của sự nghiệp thơ văn Nguyễn Khuyến và Tú Xương, đã có rất nhiều các nhà nghiên cứu phê bình văn học dành thời gian và tâm huyết để nghiên cứu thơ văn của hai tác giả. Thực tế việc nghiên cứu thơ văn của Nguyễn Khuyến và Tú Xương đã đạt được rất nhiều những thành tựu ở nhiều phương diện khác nhau: sưu tầm, dịch thuật, nghiên cứu cuộc đời, sự nghiệp, nội dung nghệ thuật thơ văn của hai ông. Có nhiều bài viết, công trình có giá trị khoa học cao khi nghiên cứu sự nghiệp của hai ông ở nhiều khía cạnh khác nhau, trong đó thơ tự trào cũng là mét trong những thể loại đã đem lại sự thành công và phong cách riêng cho từng tác giả. Cho đến bây giờ cũng đã có một số bài nghiên cứu về thơ tự trào của Nguyễn Khuyến, Tú Xương. Song chưa có công trình nào đặt vấn đề tìm hiểu so sánh thơ tự trào của hai ông một cách toàn diện và có hệ thống. Như vậy trong luận văn này chúng tôi không tìm hiểu lịch sử nghiên cứu Nguyễn Khuyến, Tú Xương mà cũng không tìm hiểu thơ trào phúng của hai ông nói chung mà chỉ đi vào loại thơ tự trào. Nhiệm vụ của luận văn là so sánh một cách có hệ thống, toàn diện thơ tự trào của hai tác giả để từ đó chỉ ra sự tương đồng cũng như sự khác biệt giữa hai phong cách thơ Nguyến Khuyến và Tú Xương, góp một phần nhỏ vào việc tìm hiểu hai nhà thơ lớn của nên văn học trung đại Việt Nam. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu là thơ Nôm tự trào của Nguyễn Khuyến và Tú Xương ( không đi vào tìm hiểu thơ chữ Hán và câu đối) Trong cuốn sách : + Thơ văn Nguyễn Khuyến (Xuân Diệu giới thiệu, nhà xuất bản Văn học – Hà Nội 1979) 10 + Thơ Trần Tế Xương (Thơ văn Trần Tế Xương, nhà xuất bản Văn học, Hà Nội 1970) 4.2. Phạm vi nghiên cứu Việc tìm hiểu so sánh thơ tự trào của hai tác giả được tiến hành ở các phạm vi sau: a- Nội dung tự trào b- Nghệ thuật tự trào 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp thống kê phân loại Thống kê phân loại là một phương pháp thiết yếu, bởi kết quả thống kê sẽ là cơ sở tư liệu để luận văn có thể phân tích, tổng hợp, rót ra những kết luận khoa học Trong phạm vi luận văn này chúng tôi tiến hành thống kê phân loại theo những yêu cầu sau: + Số bài thơ tự trào + Phân loại nội dung tự trào + Thống kê phân loại hình tượng tự trào, ngôn ngữ tự trào, các thủ pháp tự trào. 5.2. Phương pháp so sánh Phương pháp này được sử dụng để tìm ra những nét tương đồng và khác biệt về thơ tự trào của hai tác giả Nguyễn Khuyến và Tú Xương. So sánh thơ tự trào của hai ông ở hai khía cạnh nội dung và nghệ thuật. 5.3. Phương pháp phân tích 11 Chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích những bài thơ cụ thể để làm sáng tỏ những điểm chung và riêng về nội dung và nghệ thuật thơ tự trào của Nguyễn Khuyến và Tú Xương. 6. CÊu trúc luận văn Luận văn gồm 3 phần: - Phần mở đầu - Phần nội dung: + Chương 1: Thống kê phân loại + Chương 2: Nội dung tự trào + Chương 3: Nghệ thuật tự trào - Phần kết luận 12 PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1: THỐNG KÊ PHÂN LOẠI 1.1. Một số khái niệm về thơ tự trào - Tự trào có thể hiểu là một loại trào phúng nhưng đối tượng trào phúng là chủ thể (có nghĩa chính bản thân tác giả) Vậy muốn hiểu được khái niệm “tự trào” trước hết chúng ta phải tìm hiểu thế nào là “trào phúng” - Trong cuốn “Từ điển Hán Việt” từ “trào phúng” được giải nghĩa nh sau: +Trào: Cười ( cười nhạo), giễu (chế giếu) + Phóng: Nói bóng gió, nói ví + Trào phúng: có nghĩa là nói ví để cười nhạo, là châm biếm giễu cợt, “trào phúng” cũng có nghĩa mượn lời bóng gió để tạo ra tiếng cười châm biếm giễu cợt. - Từ nghĩa của từ “trào phúng” ta có thể suy rộng ra nghĩa của từ “tự trào” + Tự: có thể hiểu là tự mình, tự chính bản thân mình. + Trào: Cười ( cười nhạo) giễu ( chế giễu) nh vậy “tự trào” có thể hiểu là: tự cười mình, tự chế giễu mình. + Thơ tự trào là thơ làm ra để tự cười mình, tự chế giễu mình mà trong đó đối tượng được cười nhạo trong thơ tự trào chính là chủ thể.Nói cách khác đối tượng cười nhạo trong bài thơ là chính tác giả. Cũng có thể nói thơ tự trào là thơ trào phúng mà trong đó đối tượng trào phúng chính là bản thân chủ thể trữ tình 1.2. Thống kê phân loại 13 Để xác định cơ sở cho việc nghiên cứu và so sánh thơ tự trào của hai tác giả một cách có khoa học, chúng tôi thống kê trước hết là số bài thơ tự trào ( kể cả những bài chỉ có một vài câu hoặc những bài ngầm ngụ ý tự trào) Trong việc thống kê nội dung tự trào chúng tôi đã chia thành hai nội dung lớn sau: - Tự trào về diện mạo: + Tự trào về cách ăn mặc + Tự trào về dáng vẻ, đi đứng + Tự trào về phẩm chất, tính cách - Tự trào về cuộc sống: + tự trào bản thân + tự trào về gia đình Trong thực tế khảo sát hai nội dung trên, nổi lên vấn đề: trong nội dung tự trào về diện mạo, đằng sau những tiếng cười nhiều khi Èn chứa biểu lộ phẩm chất, tính cách của chủ thể. Nhiều khi trong tiếng cười về tính cách lại thể hiện phẩm chất, tính cách của nhà thơ của nhà thơ: Ví dụ trong bài Tú Xương tự cười mình Ở phố Hàng Nâu có phỗng sành Mắt thời thao láo mặt thời xanh Vuốt râu nịnh vợ con bu nã Quắc mắt khinh đời cái bộ anh.. Ta thấy dáng vẻ của tác giả trong bài thơ thật không có chút cảm tình Tác giả tự giễu mình với một bộ mặt “mắt thì thao láo” “mặt thì xanh”. Đằng sau hình hài Êy là con người với tính cách khinh đời ngạo thế “tứ đốm tam khoanh” lung tung bừa bãi, và lại hay nịnh vợ, ông phèng sành vô tích sự. Bằng lối cường điệu hoá Tú Xương đã tự giễu chính bản thân mình, từ dáng vẻ, đến phẩm chất tính cách. 14 Nói như vậy để thấy một bài thơ bao gồm nhiều nội dung tự trào: Do đó trong việc thống kê nội dung tự trào chúng tôi tạm chia một cách tương đối thành hai nội dung lớn: - Tự trào diện mạo - Tự trào cuộc sống. Về phần nghệ thuật tự trào, chúng tôi đi vào thống kê nghệ thuật xây dựng hình tượng tự trào gián tiếp (hình tượng Èn dô). Bên cạnh những hình tượng Èn dụ xuất hiện thấp thoáng trong mỗi bài thơ thì có một số bài thơ tự trào mà tác giả đã sử dụng hình ảnh Êy trong toàn bộ bài thơ ( Anh giả điếc, Mẹ mốc, Tiến sỹ giấy….Nguyễn Khuyến) ( Chú mán… Tú Xương) Nghệ thuật sử dụng ngôn từ và các thủ pháp tự trào, chúng tôi sẽ thống kê trong quá trình phân tích. Nội dung tự trào Tự trào về diện mạo Nguyễn Khuyến Tú Xương 11 bài 18 bài 16 bài 24 bài 7 bài 2 bài 23 bài 48 bài Tự trào về cuộc sống Tự trào gián tiếp ( thông qua hình tượng tự trào- Èn dô) ( Tổng số bài thơ tự trào) Nhìn vào bảng thống kê ta thấy có sự khác biệt thật rõ rệt trong mảng thơ tự trào của Nguyễn Khuyến và Tú Xương. Không nói đến số lượng những bài thơ, mà điều ta thấy rõ nhất là ở nôi dung tự trào + Nguyễn Khuyến có 23 bài thơ tự trào, trong đó: - Tự trào về diện mạo: 11 bài - Tự trào về cuộc sống: 16 bài + Tú Xương có 48 bài thơ tự trào, trong đó: 15 - Tự trào về diện mạo: 18 bài - Tự trào về cuộc sống: 24 bài Xin xem bảng thống kê dưới đây: Thơ tự trào của Nguyễn Khuyến: STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 Tên bài thơ Về hay ở Trở về vườn bùi Uống rượu vườn bùi Về nhà nghỉ Nghe hát đêm khuya Tự trào Tự thuật Ngày xuân dặn các con Lên lão Ông phỗng đá Lời gái goá Anh giả điếc Mẹ mốc Vịnh tiến sỹ giấyI, II Chốn quê Than nợ Vịnh lụt Bạn đến chơi nhà Nói chuyện với bạn Lụt hỏi thăm bạn Than già Cáo quan về ở nhà Đai lão Nội dung tự trào Diện mạo Cuộc sống Cách Dáng Phẩm Bản Gia ăn vẻ đi chất, thân đình mặc đứng tính cách + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + 16 Thơ tự trào của Tú Xương: STT Tên bài thơ 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 17 16 18 19 20 21 22 23 24 Tự cười mình I,II Hỏi ông trời Quan tại gia Tự đắc Tự trào Thương vợ Một nén tâm hương Nghèo Đi thi nói ngông Đại hạn Không vay mà phải trả Thú cô đầu Tết dán câu đối Năm mới Cảm tết Mai mà tớ hỏng Ta chẳng ra chi Ngón chầu Ba cái lăng nhăng Bảo người bán sự tắc Giễu người thi đỗ Ngẫu hứng Không chiêu đãi Chú Mán 25 26 27 28 Bần nhi lạc Mất hai hào Than nghèo Đi thi Nội dung tự trào Diện mạo Cuộc sống Dáng Phẩm Cách Bản Gia vẻ, đi chất, tính ăn mặc thân đình đứng cách + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + 17 + 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 Háng khoa Canh Tý Gần tết than việc nhà Bắt được đồng tiền Đau mắt Cảm hoài Sắm tết Cảm hứng Hỏi mình Thầy đồ dạy học I, Thầy đồ dạy học II Than thân chưa đạt Háng thi Buồn háng thi Vô tích Hỏi đùa mình Thói đời Thề với người ăn xin Than cùng Tự vịnh Mùa nực mặc áo bông + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + + 18 + + + + Với Nguyễn Khuyến nội dung tự trào của nhà thơ dường nh được chia đều từ dáng vẻ, phẩm chất, tính cách đến bản bản thân và gia đình. Còn với Tú Xương, số lượng những bài thơ tự trào của ông nghiêng hẳn sang nội dung tự cười, tự giễu bản thân và gia đình mình. Điều này cũng một phần cho ta thấy hai nhà thơ cùng xuất thân là một nhà nho cùng quê hương cùng sống trong xã hội phong kiến buổi giao thời nhưng là hai con người khác nhau ắt phải có sự khác nhau trong “tiếng cười” của họ. Bên cạnh những điều khác nhau hiển nhiên Êy thì chúng ta cũng thấy hai nhà thơ cũng đã gặp nhau ở nhiều điểm chung trong loại thơ tự trào, tự cười chính bản thân mình. Từ mảng thơ trào phúng chế giễu, cười cợt thiên hạ, cười cợt xã, đến mảng thơ tự trào đã góp phần không nhỏ để làm nên cái “tôi” riêng của hai nhà thơ. Vậy do đâu mà có sự giống nhau và khác nhau giữa Nguyễn Khuyến và Tú Xương ở mảng thơ tự trào Trước hết là những điểm giống nhau: Thơ tự trào là thơ tự cười mình hay nói cách khác là thơ lấy đối tượng trào phúng là chủ thể trữ tình Trong thể loại thơ tự trào, chúng ta đều thấy cả Nguyễn Khuyến và Tú Xương đều cười mình từ hình dáng, đến tính cách, phẩm chất, sở thích cá nhân, tự trào cuộc sống gia đình . Nguyễn Khuyến và Tú Xương cùng sống trong giai đoạn xã hội phong kiến đã hết thời, thay vào đó là một bộ máy thống trị quan liêu do bọn thực dân Pháp cầm đầu cùng với hệ thống bọn tay sai từ lớn đến bé với biết bao nhiêu điều ngang trái lố bịch nhố nhăng nửa tây nửa ta “dở ông dở thằng”. Với một cái gốc “nho” hai nhà thơ của chúng ta chắc hẳn cũng hết sức đau lòng khi phải chứng kiến xã hội đảo điên nh vậy. 19 Trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ, Nguyễn Khuyến và Tú Xương không có nơi phát huy tài năng, chí lớn. Nguyễn Khuyến đã phải từ quan về quê. Còn Tú Xương có muốn ra làm quan cũng thật khó. Cuộc đời của con người nhiều chữ nh Tú Xương vẫn cứ chìm đắm trong thi cử và hỏng thi. Chính vì thế, họ cùng cất lên tiếng cười chế giễu chính bản thân mình, qua đó phản ứng lại trước hiện thực xã hội Sống và phục vụ xã hội nhố nhăng với tầng lớp vua quan bù nhìn thì một bậc “đại nho” như Nguyễn Khuyến cho dù có giữ chức quan to danh giá thì cuối cùng nhà thơ cũng nhận ra được bản chất xã hội đã hết thời mà vẫn còn cố cựa quậy để lấy chút sinh khí. Nhà thơ đã cương quyết từ quan để trở về sống cuộc sống thanh sạch chứ nhất quyết không chịu hợp tác với chính quyền thực dân. Còn Tú Xương đã từng dành cả cuộc đời để theo nghiệp nghiên cứu bút, mong được đậu khoa bảng để cống hiến bằng chính năng lực của mình nhưng vẫn cả đời lận đận cả đời hỏng thi cả đời phải “phó mặc” cơm áo gạo tiền cho “con bu nó”, Êy vậy mà nhà thơ vẫn không chịu bán mình cho bè lũ tay sai cùng với lũ cướp nước Với những phẩm chất cao đẹp nh vậy, Nguyễn Khuyến và Tú Xương đương nhiên sẽ trở nên lạc lâng, khác lạ với thời cuộc. Hai nhà thơ càng cảm thấy sự bất lực, vô tích sự của bản thân mình. Họ nhận thức được rõ điều gì đang sảy ra, nhận ra cái xấu xa ôi bẩn đang lấn dần sự trong sạch thuần khiết mà chính bản thân mình bất lực Điểm khác nhau: Chóng ta thấy nội dung thơ tự trào của hai nhà thơ có khá nhiều những điểm khác nhau. Điều này xuất phát từ hai con người khác nhau, hai cuộc sống khác nhau, và hai hoàn cảnh khác nhau. Nguyễn Khuyến lớn lên trong gia đình nho học danh giá và ông cũng là một trong những người thành công trong con đường khoa bảng. Ông đã làm quan gần 10 năm điều đó Ýt nhiều giúp gia đình ông, cuộc sống của ông 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan