Cù Ngọc Bắc
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ
62(13): 151 - 155
NGHIÊN CỨU THIẾT KẾ MẪU MÁY GIEO NGÔ LIÊN HỢP
VỚI MÁY KÉO NHỎ
Cù Ngọc Bắc*
Trường Đại học Nông Lâm - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Trong công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nƣớc, việc đƣa cơ giới hóa vào sản xuất
nông nghiệp là rất quan trọng và cần thiết. Cơ giới hóa sẽ làm thay đổi phƣơng thức sản xuất, giảm
nhẹ sức lao động cho con ngƣời, nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí trong sản xuất nông
nghiệp. Nhờ cơ giới hoá mà bộ mặt của nông thôn thay đổi, phát triển thành một nông thôn văn
minh, hiện đại vì cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp cũng là tiền đề cho việc phát triển cơ sở hạ tầng
nông thôn.
Tuy nhiên cơ giới hoá nhƣ thế nào để phù hợp với điều kiện tự nhiên, điều kiện địa hình, điều kiện
canh tác và đạt hiệu quả cao nhất thì cần phải tính toán cụ thể cho từng vùng. Với vùng trung du,
miền núi có địa hình phức tạp, kích thƣớc ruộng nhỏ và trung bình là chủ yếu nên việc đồng bộ
hoá các khâu canh tác bằng cơ giới là cực kỳ khó. Với những điều kiện này thì chỉ có thể áp dụng
cơ giới cho một số khâu canh tác độc lập và chỉ sử dụng các loại máy vừa và nhỏ. Một vấn đề khác
là nguồn vốn để đầu tƣ máy móc, hiện nay phần nhiều ngƣời dân mới chỉ đầu tƣ những máy có
công suất nhỏ phục vụ chủ yếu cho khâu làm đất, vận chuyển và một số công việc đơn lẻ trong
chăm sóc và thu hoạch. Các loại máy khác do khả năng ứng dụng và giá cả còn quá cao nên hiện
tại chƣa đƣợc sử dụng phổ biến.
Vì các lý do trên đề tài tập trung nghiên cứu để bƣớc đầu thiết kế loại máy gieo ngô công suất nhỏ có
thể liên hợp đƣợc với các loại máy kéo có công suất từ 8 đến 20 mã lực, là loại máy kéo có số lƣợng lớn
mà ngƣời dân đang sử dụng. Sau khi thiết kế, chế tạo thử mẫu máy và tiến hành khảo nghiệm để hoàn
thiện mẫu máy tiến tới sẽ sản xuất để đƣa ra thị trƣờng phục vụ cho ngƣời dân.
Từ khoá: Máy gieo ngô, mô hình, lý thuyết, vùng cao
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay chủ sở hữu các thiết bị, máy móc
nông nghiệp về cơ bản đã chuyển từ sở hữu
tập thể sang sở hữu tƣ nhân. Trên 90% máy
kéo lớn, 97% máy kéo nhỏ, động cơ điezen và
hầu hết máy nông nghiệp đi kèm đều do hộ
nông dân quản lý và sử dụng. Nhiều hộ nông
dân đã mạnh dạn ứng dụng các tiến bộ khoa
học công nghệ mới vào sản xuất. Xu hƣớng
chuyên môn hoá trong sử dụng máy móc thiết
bị cơ điện nông nghiệp đang hình thành và
phát triển.
Tốc độ tăng trƣởng máy kéo hàng năm trong
các năm qua. Tính đến hết năm 2006 theo
điều tra của Cục thống kê Việt Nam cả nƣớc
có 348429 chiếc máy kéo các loại, trong đó
máy kéo nhỏ dƣới 12 mã lực là 240562 chiếc
chiếm 69,04% máy kéo từ 12 đến 35 mã lực
là 88937 chiếc chiếm 25,53%. Tuy nhiên các
loại máy kéo này mới chỉ sử dụng cho các
công việc nhƣ làm đất, vận chuyển, bơm
nƣớc... Chính vì vậy nếu có thể đầu tƣ nghiên
cứu các loại máy nông nghiệp khác có thể
liên hợp với các loại máy kéo này nhƣ gieo
hạt, sới, chăm sóc, thu hoạch là rất cần thiết
vừa nâng cao hiệu quả sử dụng máy vừa phù
hợp với nhu cầu sử dụng của ngƣời dân.
Cây ngô là một trong những loại cây lƣơng
thực chính của nƣớc ta và của khu vực trung
du, miền núi phía Bắc trong một thời gian dài,
cho đến hiện nay ngô vẫn là một trong những
loại cây lƣơng thực quan trọng. Cho đến năm
2006 ở Việt Nam có đến trên 1 triệu ha ngô
đƣợc trồng, tuy nhiên các khâu canh tác của
ngƣời dân hầu hết đều làm thủ công. Trên thế
giới nhiều nƣớc đã ứng dụng đồng bộ các
khâu canh tác bằng máy từ gieo trồng đến thu
hoạch, đã có một vài loại máy nhập về Việt
Nam nhƣ máy gieo hạt, máy thu hoạch ngô
Tel: 0982758752, Email:
[email protected]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
151
Cù Ngọc Bắc
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ
tuy nhiên do kích thƣớc lớn nên không có khả
năng ứng dụng. Gần đây Viện Cơ điện nông
nghiệp Việt Nam đã nghiên cứu và chế tạo
thành công máy thu hoạch ngô 2 hàng liên kết
với máy kéo MTZ 50 tuy nhiên chỉ ứng dụng
đƣợc ở những vùng trồng ngô có diện tích lớn
và bằng phẳng. Đã có một vài nhà nghiên cứu
chế tạo ra các loại công cụ, máy gieo hạt
nhƣng hoặc là giá thành đắt hoặc là khả năng
ứng dụng không cao nên không đƣợc phổ
biến rộng rãi.
Chính vì vậy chúng tôi đề xuất nghiên cứu đề
tài: “Nghiên cứu thiết kế, chế tạo mẫu máy
gieo ngô liên hợp với máy kéo nhỏ” với mục
đích chế tạo loại máy gieo ngô cỡ nhỏ có thể
liên hợp với các máy kéo sẵn có của ngƣời
dân. Mẫu máy này khi làm việc gieo đƣợc 2
hàng ngô có thể sử dụng cùng với các loại
máy kéo từ 8 đến 15 mã lực.
NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
Nội dung nghiên cứu
- Tìm hiểu tình hình trồng ngô ở Việt Nam,
quy trình trồng ngô, đặc điểm của các loại hạt
giống ngô đƣợc trồng phổ biến ở Việt Nam.
- Tìm hiểu về tình hình sử dụng máy nông
nghiệp tại các địa phƣơng.
- Tìm hiểu kết cấu của các loại máy gieo hạt
nói chung và máy gieo ngô.
- Nghiên cứu lý thuyết chung về máy gieo hạt
và máy gieo ngô.
- Thiết kế mẫu máy, chế tạo thử nghiệm và
khảo nghiệm sơ bộ mẫu máy.
Phương pháp nghiên cứu
- Thu thập số liệu thứ cấp qua các kênh thông
tin nhƣ Tổng cục thống kê và cục thống kê
các địa phƣơng, các viện nghiên cứu, trƣờng
đại học.
- Thu thập các số liệu sơ cấp qua các phƣơng
pháp đo, khảo nghiệm dùng trong cơ khí.
- Phƣơng pháp chuyên gia sử dụng trong
quá trình thiết kế và chế tạo, khảo nghiệm
mẫu máy.
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Để nghiên cứu thiết kế mẫu máy phù hợp với
ngƣời dân chúng tôi đã điều tra về tình hình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
152
62(13): 151 - 155
trồng ngô, quy trình gieo trồng ngô ở các vụ
khác nhau, các giống ngô thƣờng đƣợc trồng
ở Việt Nam. Các giống ngô chủ yếu trồng ở
Việt Nam là các dòng ngô lai Việt Nam
(LVN), ngô nếp, ngô Bioseed, ngô CP... Với
các giống ngô khác nhau thì kích thƣớc hạt
giống cũng khác nhau khá nhiều, chính vì vậy
khi nghiên cứu chế tạo máy chúng tôi phải
xác định kích thƣớc của các hạt giống ngô
đƣợc trồng phổ biến.
Chúng tôi đã tìm hiểu và xác định đƣợc kích
thƣớc của một số giống ngô trồng phổ biến ở
miền Bắc Việt Nam. Các giống ngô lai VN có
chiều dài trung bình từ 9,8 đến 10,60 mm,
chiều rộng trung bình từ 7,9 đến 8,6 mm
chiều dầy hạt có kích thƣớc trung bình từ 4,6
đến 6,4 mm. Các giống ngô nếp có kích thƣớc
trung bình là 8,8 x 8,5 x 4,5 mm. Nhƣ vậy khi
thiết kế bộ phận gieo hạt cần phải nhiều chiếc
có các kích thƣớc phù hợp để có thể gieo
đƣợc các giống khác nhau.
Với các giống ngô khác nhau thì mật độ và
khoảng cách gieo trồng cũng khác nhau vì
vậy tốc độ làm việc của máy, độ rộng của
hàng gieo cũng cần phải có khả năng điều
chỉnh một cách cơ động. Mật độ và khoảng
cách gieo trồng cây ngô chúng tôi sử dụng
theo quy trình đã đƣợc các chuyên gia của
ngành trồng trọt xây dựng cho các giống.
Về kết cấu chung của một máy gieo hạt cần
phải có các bộ phận nhƣ sau:
+ Bộ phận rạch hàng: Bộ phận rạch hàng có
nhiệm vụ rạch đất thành rãnh hẹp để chứa hạt
khi gieo. Bộ phận rạch hàng cần phải có khả
năng điều chỉnh đƣợc chiều sâu rạch trong
một giới hạn nhất định, đối với cây ngô thì bộ
phận rạch hàng cần phải điều chỉnh đƣợc
trong khoảng cách từ 3 đến 7 cm. Do trong
quá trình làm việc bộ phận rạch phải cắm
xuống đất nên khi máy quay vòng đầu bờ hệ
thống này phải nâng lên khỏi mặt đất, do đó
cần thiết kế thêm hệ thống nâng hạ lƣỡi rạch
và bộ phận lấp đất. Ngoài ra để có thể thay
đổi áp lực rạch đất với các loại đất có độ chặt
khác nhau thì hệ thống lƣỡi rạch cần phải lắp
các lò xo ép. Đối với máy gieo ngô chúng tôi
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
Cù Ngọc Bắc
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ
62(13): 151 - 155
lựa chọn loại lƣỡi rạch hàng kiểu sống tàu là
loại có lực cản nhỏ và có khả năng làm việc
với đất ẩm.
Nếu chiều dày tối đa của hạt là Cmax thì chọn
chiều sâu của lỗ đĩa là:
b = Cmax + (0,7 0,8)mm
+ Thùng chứa hạt để chứa lƣợng hạt cần thiết
cho quá trình gieo, trên thùng chứa hạt có lắp
bộ phận gieo và có cửa để đƣa hạt ra. Với
máy gieo ngô có 2 thùng chứa hạt đƣợc thiết
kế dạng hình trụ với đƣờng kính từ 25 đến 30
cm, chiều cao thùng 25 cm, đáy thùng chế tạo
rời và lắp khớp với thùng gieo qua khớp bản
lề và các khoá để có thể mở ra khi thay đổi
đĩa gieo hoặc để lấy hạt còn thừa. Dƣới đáy
thùng chứa hạt có gia công cửa ra hạt để lắp
với ống dẫn hạt.
+ Bộ phận gieo hạt: có nhiệm vụ đƣa ra một
lƣợng hạt nhất định tuỳ theo mật độ gieo, tốc
độ đƣa hạt ra phải đồng bộ với tốc độ di
chuyển của máy. Bộ phận gieo phải có khả
năng gieo đƣợc các loại hạt có kích thƣớc
khác nhau và phải có khả năng điều chỉnh mật
độ hạt gieo trong một giới hạn nhất định. Khi
làm việc bộ phận gieo nhận mômen quay và
làm việc với tốc độ đồng bộ với vận tốc tiến.
Với máy gieo ngô chúng tôi sử dụng loại bộ
phận gieo kiểu đĩa với các thông số cơ bản
xác định nhƣ sau:
- Kích thước đĩa gieo:
Bộ phận gieo loại đĩa có lỗ hình chữ nhật bố
trí ở vành ngoài đĩa có chất lƣợng gieo tốt
hơn nên đƣợc dùng phổ biến. Kích thƣớc của
đĩa gieo thể hiện trên hình (1). Khi thiết kế
chúng tôi chọn kích thƣớc lỗ đĩa gieo để mỗi
lỗ đĩa khi gieo từ thùng rơi vào và chứa đúng
một hạt.
Thực tế nếu lmax là chiều dài lớn nhất của hạt
gieo thì chiều dài lỗ chọn là:
Nếu bề rộng tối thiểu của hạt là b min ta chọn
bề dày lỗ (chiều dày đĩa) là B > bmin.
Chúng tôi đã tiến hành đo kích thƣớc một số
loại hạt ngô đang đƣợc trồng phổ biến ở Việt
Nam và đƣa ra kích thƣớc đĩa nhƣ sau:
Để tiện cho việc lựa chọn đĩa phù hợp với
kích thƣớc hạt khi sử dụng, chúng tôi đề xuất
chế tạo bộ đĩa có kích thƣớc các đĩa khác
nhau. Với các giống ngô nếp kích thƣớc đĩa
gieo là: 11,5x10x5 cm, với các giống ngô lai
VN4, 9 kích thƣớc đĩa gieo là: 13x7,5x9 cm,
với các giống ngô lai VN 919, 999 kích thƣớc
đĩa gieo là: 13x10x5 cm - Hệ thống truyền
động cho đĩa gieo: Mômen quay truyền cho
đĩa gieo đƣợc lấy từ bánh xe lấp hạt thông
qua một bộ truyền xích và một bộ truyền
bánh răng côn. Mỗi đĩa gieo có một bộ
truyền riêng để truyền động và có thể điều
chỉnh độ lệch giữa các hạt trên 2 hàng gieo
khi cần thiết. Với bộ truyền xích khi thiết
kế có khả năng thay đổi tỉ số truyền để thay
đổi mật độ hạt trên hàng tƣơng ứng với
khoảng cách 25, 28, 30 cm.
+ Hệ thống lấp hạt có nhiệm vụ phủ lên hạt
gieo một lớp đất và nén chặt lại để tránh thoát
ẩm sau khi gieo. Với máy gieo ngô chúng tôi
đề xuất sử dụng loại bánh xe lấp nén. Bánh xe
vừa có chức năng lấp hạt vừa có chức năng
truyền động cho các hệ thống làm việc khác.
+ Ống dẫn hạt có chức năng đƣa hạt từ bộ
phận gieo xuống rãnh đất đã rạch sẵn. Do đặc
điểm hạt ngô trơn nhẵn nên chúng tôi sử dụng
loại ống nhựa mềm có lõi kim loại dạng lò xo
để có thể thay đổi vị trí đƣa hạt xuống một
cách dễ dàng.
L = lmax + (1
1,5)mm.
Bảng 1. Kích thƣớc của lỗ đĩa và chiều dày đĩa gieo của một số giống ngô
Kích thước
Giống ngô
Nếp VN 2
Lai VN 4
Lai VN 9
Lai VN 919
Lai VN 999
L(mm)
11.5
13
13
12.5
13
b(mm)
10
7.5
7.5
10
9.5
h(mm)
5
7
9
5
5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
153
Cù Ngọc Bắc
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ
+ Khung máy chúng tôi thiết kế thành 2
phần: khung phía trên để lắp 2 thùng chứa
hạt, bộ phận gieo và hệ thống bánh răng
truyền động, phần khung này cố định khi
làm việc. Phần khung phía dƣới lắp khớp
bản lề với hộp số máy kéo và liên kết với
khung phía trên qua hệ thống lò xo ép. Trên
phần khung này chúng tôi lắp hệ thống lƣỡi
rạch hàng, bánh xe lấp hạt cùng với bộ
truyền xích truyền động cho bộ phận gieo.
Các lƣỡi rạch và bánh xe lấp hạt đƣợc lắp
trên một khung ngang để có thể thay đổi
chiều rộng của hàng gieo theo mỗi giống.
+ Bánh xe và hệ thống nâng hạ: Để di chuyển
và nâng hạ toàn bộ máy gieo chúng tôi thiết
kế bánh xe liên kết với khung qua hệ thống
vít điều chỉnh, trụ lắp bánh xe có thể gập ra
phía sau hoặc hạ xuống để nâng toàn bộ hệ
thống lƣỡi rạch và bánh xe lấp hạt khi quay
vòng. Để điều khiển bánh xe sử dụng một cần
gạt và hệ thống hãm cần gạt.
Tính toán cho hệ thống truyền động cho bộ
phận gieo bao gồm bộ truyền xích từ trục của
bánh xe lấp hạt và cặp bánh răng côn. Để thay
đổi tỷ số truyền ta có thể thay đổi trên bộ
truyền xích bằng cách thay đổi sự ăn khớp
của các đĩa xích khác nhau. Trên bộ truyền
xích có lắp bánh căng xích tự động theo sức
căng của lò xo. Tỷ số truyền từ bánh xe lấp
hạt lên đĩa gieo đƣợc tính nhƣ sau:
ah =
Với e - hệ số trượt, thường chọn e = 0,03 - 0,05;
ah – Khoảng cách hạt trên hàng;
D - Đường kính đĩa gieo = 25 cm.;
z – Số lỗ trên đĩa gieo = 6.
⇒i=
- Trong trường hợp a = 25 cm thì i = 0.55
- Trong trường hợp a = 28 cm thì i = 0.49
- Trong trường hợp a = 30 cm thì i = 0.46
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
154
62(13): 151 - 155
Dựa trên các số liệu và lý thuyết tính toán ở
trên chúng tôi bƣớc đầu xây dựng mô hình
máy gieo hạt nhƣ sau:
- Máy gieo có 2 thùng chứa hạt cho 2 hàng (1
thùng cho 1 hàng gieo).
- Bộ phận gieo lựa chọn loại đĩa gieo với
kích thƣớc của lỗ đĩa gieo và chiều dầy chọn
theo bảng 1.
- Đƣờng kính đĩa gieo chọn bằng 25cm, chọn
số lỗ trên đĩa gieo bằng 6 lỗ.
- Bộ phận rạch hàng chọn loại lƣỡi rạch kiểu
sống tàu với kích thƣớc: chiều dài l = 140
mm, góc rạch γ = 320.
- Ống dẫn hạt chọn loại ống nhựa mềm có lõi
thép lò xo.
- Bộ phận lấp hạt chọn loại bánh xe lấp hạt
với hai gờ bánh ép đất vào giữa, trên vành bánh
xe có hàn các mấu bám để chống trƣợt khi làm
việc. Trên trục của bánh xe lấp hạt có lắp đĩa
xích để truyền động cho đĩa gieo. Đƣờng kính
của bánh xe lấp hạt chọn bằng 25 cm.
- Bộ phận rạch hàng và bánh xe lấp hạt đƣợc
lắp chung trên 1 khung treo lắp khớp bản lề
với khung chính, có lắp lò xo để có thể nâng
hạ, điều chỉnh độ gieo sâu và tăng lực nén ép.
- Bánh xe lấp nén lắp nông hơn lƣỡi rạch
hàng một khoảng bằng độ rạch sâu và có thể
điều chỉnh đƣợc trong khoảng từ 5 -7 cm.
- Bánh xe máy gieo có lắp hệ thống vít nâng
hạ và có thể gấp lại nhờ tay điều khiển để hạ
xuống nâng lƣỡi rạch và bánh xe lấp hạt khi
quay vòng đầu bờ. Khi bánh xe lấp hạt bị
nâng lên thì không quay nữa do không tiếp
xúc với đất nên không cần lắp ly hợp cho bộ
phận gieo.
- Hệ thống truyền động cho bộ phận gieo bao
gồm bộ truyền xích từ trục của bánh xe lấp
hạt và cặp bánh răng côn.
- Bề rộng của hàng gieo có thể điều chỉnh
bằng cách thay đổi khoảng cách của lƣỡi rạch
và bánh xe lấp hạt trên khung.
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
Kết luận
- Mô hình máy gieo ngô chúng tôi thiết kế có
thể liên hợp với loại máy kéo nhỏ mà phần
đông ngƣời dân đang sử dụng.
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
Cù Ngọc Bắc
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ
- Máy có thể gieo 2 hàng hạt cho mỗi lƣợt
gieo, khoảng cách hàng gieo có thể điều chỉnh
với các mức từ 50 – 70 cm.
- Mật độ gieo ngô có thể điều chỉnh với các
mức 25 – 28 – 30 cm.
- Máy có thể gieo nhiều giống ngô khác nhau
và có thể gieo đƣợc các hạt khác nhƣ đỗ, lạc
khi thay đổi loại đĩa gieo. Gieo trên đất khô
đã đƣợc làm tơi và đánh luống.
Đề nghị
- Tiếp tục nghiên cứu để cải tiến mẫu máy
hoàn thiện hơn và có giá thành chế tạo thấp,
nâng cao khả năng ứng dụng của máy cho các
loại đất khác.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. A.N.Karpenco, Máy nông nghiệp, NXB
"KOLOS" Mátxcơva – 1983.
62(13): 151 - 155
[2]. B.E. Kamaritốp và P.I. Prokopenko, Chế tạo
máy nông nghiệp, Trƣờng Đại học Chế tạo máy nông
nghiệp Kirovôgrát xuất bản - 1984.
[3]. Cục chế biến Nông Lâm sản và ngành nghề
nông thôn, Máy nông nghiệp dùng cho hộ gia đình
và trang trại nhỏ, NXB Nông nghiệp - 1995.
[4]. E.X. Baxụi, O.V. Vernhiaev, Lý thuyết cấu
tạo và tính toán máy nông nghiệp, NXB Chế tạo
máy, Maxcova- 1978.
[5]. Giáo trình: Cơ khí hoá nông nghiệp, Trƣờng
Đại học Nông Lâm Thái Nguyên – NXB Nông
nghiệp 2007.
[6]. Nguyễn Bảng cùng cộng sự, Máy canh tác
nông nghiệp, NXB Giáo dục, Hà Nội – 1999.
[7]. Nguyễn Quang Lộc, Hệ thống máy công
nghiệp nông phục vụ sản xuất cây trồng, NXB
Giáo dục – 2000.
[8]. Phạm Xuân Vƣợng, Lý thuyết tính toán máy
thu hoạch Nông nghiệp, NXB Giáo dục, Hà Nội –
2000.
[9]. Phạm Xuân Vƣợng, Máy thu hoạch nông
nghiệp, NXB Giáo dục, Hà Nội – 1999.
SUMMARY
DESIGN MACHINE MODEL FOR SOWING CORN CONJUGATING WITH
OTHER TRACTORS
Cu Ngoc Bac
College of Agriculture and Forestry – Thai Nguyen University
In the cause of industrialization and modernization of the country, to put on mechanized
agricultural production is very important and necessary. Mechanization will change the mode of
production, mitigation of labor for people, improving labor productivity, reduce costs in
agricultural production. Through mechanization, but the face of rural change, rural development as
a civilized and modern as mechanization of agricultural production is the precondition for the
development of rural infrastructure. But mechanization how to fit the natural conditions, terrain
conditions, farming conditions and achieve the highest efficiency it is necessary to calculate the
specific area. With the midlands and mountainous terrain complexity, size and average field is
primarily to be synchronized with the stages of farming mechanization is extremely difficult. With
these conditions can only apply for a motorized stage cultivation independent and only use
machines to small and medium. Another problem is capital to invest in machinery, today most
people only invest a small computer with a capacity to serve primarily for the stage as land,
transport and some of the individual in care and harvest. Other systems due to potential
applications and prices too high so are currently not commonly used.
Reasons to focus on research topics initially designed for the model number is sowing corn
capacity can conjugate with other tractors with a capacity from 8 to 20 horsepower, is the number
of tractors has great that people are using. After the design, manufacture and test models proceed
to complete the testing process models to be produced for the market to serve the people.
Keywords: maize sowing, machine, model theory, upland
Tel: 0982758752, Email:
[email protected]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.Lrc-tnu.edu.vn
155