Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu sự biến đổi văn hóa của cộng đồng dân cư xã các sơn, huyện tĩnh gia, ...

Tài liệu Nghiên cứu sự biến đổi văn hóa của cộng đồng dân cư xã các sơn, huyện tĩnh gia, tỉnh thanh hóa

.DOC
30
273
93

Mô tả:

PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ở nước ta, quá trình đô thị hóa nhanh từ khoảng những năm 90 trở lại đây đã dẫn đến sự mở rộng lãnh thổ của nhiều đô thị trong cả nước. Qúa trình này đã làm biến đổi nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội, từ cơ cấu tổ chức xã hội, phương thức sản xuất, cơ cấu nghề nghiệp, phân bố dân cư cho đến đời sống văn hóa của người dân vùng đô thị hóa. Về thực chất có thể nói đây là quá trình dẫn đến những thay đổi trong cơ cấu tổ chức xã hội nông thôn sang tổ chức xã hội đô thị, từ hoạt động nông nghiệp là chủ yếu sang hoạt động phi nông nghiệp và từ những khuôn mẫu của đời sống văn hóa nông thôn sang văn hóa đô thị. Những tác động của đô thị hóa ở nước ta đã và đang tạo nên một bức tranh khá đa dạng về sự biến đổi ở vùng đô thị hóa. Như những tỉnh, thành phố lớn của nước ta, quá trình đô thị hóa nhanh ở Thanh Hóa trong những năm gần đây đã khiến nhiều khu vực ven đô trở thành nội đô và nhiều làng xã trở thành phố phường. Qúa trình này, một mặt có những tác động tích cực làm thay đổi bộ mặt của vùng ven đô về cơ sở hạ tầng và nâng cao mức sống cho người dân nơi đây. Mặt khác cũng có những tác động tiêu cực và đặt ra những thách thức đến nhiều khía cạnh khác nhau trong đời sống cộng đồng cư dân vùng ven đô. Đó là những vấn đề liên quan đến chuyển đổi nghề nghiệp, ô nhiễm môi trường, bảo đảm an ninh, gia tăng tệ nạn xã hội và lưu giữ những giá trị văn hóa của người dân ven đô. Từ góc độ văn hóa cho thấy, ở những vùng này đang có sự đan xen trong quá trình biến đổi giữa đời sống văn hóa nông thôn với đời sống văn hóa đô thị, giữa các giá trị truyền thống với giá trị hiện đại. Vì vậy, nếu không có một định hướng đúng đắn và hợp lý về bảo tồn và phát triển văn hóa ở vùng chịu tác động của đô thị hóa trên cơ sở nghiên cứu truyền thống lịch sử, văn hóa của những vùng này sẽ dẫn đến sự mất cân đối trong phát triển và mất đi những giá trị văn hóa tốt đẹp. Xuất phát từ những lý do trên , tôi đã mạnh dạn nghiên cứu vấn đề “ Nghiên cứu sự biến đổi văn hóa của cộng đồng dân cư xã Các Sơn, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. 2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu đề tài nhằm tìm hiểu một số biến đổi văn hóa trong cộng đồng cư dân tại xã. Từ kết quả nghiên cứu đề xuất một số kiến nghị nhằm khuyến khích những yếu tố tích cực và giảm thiểu yếu tố tiêu cực trong đời sống văn hóa ở một số làng xã đang chịu sự tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 3. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu sự biến đổi văn hóa của cộng đồng dân cư xã Các Sơn, 3.2. 3.3. 3.4. huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa Khách thể nghiên cứu Người dân ở xã Các Sơn, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa Không gian nghiên cứu Tại xã Các Sơn, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa Thời gian nghiên cứu Đề tài nghiên cứu trong khoảng thời gian từ 5/10/2015 đến ngày 15/11/2015. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu đề tài, đề tài sử dụng các phương pháp xã hội học sau: - Phương pháp phân tích tài liệu - Phương pháp tổng hợp - Phương pháp so sánh - Phương pháp liên ngành - Phương pháp điền dã trong xã hội học - Phương pháp quan sát 5. Bố cục của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, taì liệu tham khảo, phụ lục, đề tài được chia thành 3 chương: Chương 1: Tổng quan về xã Các Sơn, huyện Tĩnh Gia, Tỉnh Thanh Hóa Chương 2: Sự biến đổi văn hóa của cộng đồng cư dân xã Các Sơn, huyện Tĩnh Gia, Tỉnh Thanh Hóa Chương 3: Kết quả và bình luận PHẦN NỘI DUNG Chương 1: Tổng quan về xã Các Sơn, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa 1.1 Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên Các Sơn là xã bán sơn địa nằm ở phía Tây Bắc huyện Tĩnh Gia, có đường 512 nối từ Quốc lộ 1A đi đường Hồ Chí Minh và đường sắt Bắc – Nam chạy qua xã dài 3,3km. Phía Đông giáp xã Hùng Sơn, Định Hải, phía Tây giáp xã Yên Mỹ ( huyện Nông Cống ), phía Nam giáp núi Các và xã Phú Sơn, phía Bắc giáp xã Tượng Sơn ( huyện Nông Cống ). Khoảng cách từ đường Quốc lộ 1A đến trung tâm xã là 10km. Xã Các Sơn chia thành hai loại địa hình rõ rệt: Địa hình núi có diện tích 1.239,32ha, nằm về phía nam của xã. Đất ở đây có độ dốc trên 20 0, thuận lợi cho phát triển lâm nghiệp. Độ dốc dưới 15 0 có diện tích 302,14ha, là nơi tập trung dân cư và trồng cây lâu năm. Địa hình bằng có độ dốc từ 1 – 5 0, diện tích là 900ha, chủ yếu phân bố các công trình công cộng như giao thông, thủy lợi và trồng lúa nước, trồng cây hàng năm khác. Đặc điểm về vị trí địa lý và địa hình không thuận lợi đã tác động không nhỏ đến sự phát triển dân sinh, đời sống sinh hoạt, sản xuất, nhất là việc kiến thiết ruộng đồng, thâm canh cây trồng và hoạt động quản lý hành chính Nhà Nước về an ninh, trật tự, an toàn xã hội của địa phương. Trong suốt hàng nghìn năm lịch sử, cư dân từ nhiều vùng đất trong và ngoài tỉnh đã sớm tụ cư về những thân đất cao để lập nghiệp và sinh sống. Và chính tại mảnh đất Các Sơn, các lớp dân cư từ đời này qua đời khác đã đồng sức, đồng lòng để khai khẩn đất hoang và rừng rậm thành những xứ đồng cấy lúa. Để bảo vệ mùa màng và cuộc sống bình yên, nhân dân Các Sơn đã dồn sức vào việc đắp đê, làm cầu, cống, kênh mương, bờ vùng, bờ thửa để tiêu thoát và giữ nước một cách kiên trì, liên tục. Nhờ hệ thống tưới tiêu ngày càng hoàn thiện mà những khó khăn, thách thức do thiên nhiên mang lại đã dần bị đẩy lùi. Nhân dân Các Sơn sống chủ yếu bằng nghề trồng trọt. Ngoài việc trồng lúa nước, ở một số diện tích trên thân đất cao ven sông Yên và các gò, bãi, nhân dân Các Sơn đã khai thác đêt trồng các loại cây màu như ngô, khoai, lạc . . . hoặc trồng một số loại cây ăn quả khác. Những sản phẩm thu được từ cây màu tuy không lớn, song cũng góp phần cải thiện cuộc sống của nhân dân nơi đây, nhất là trong những mùa màng thất bát, thiên tai, địch họa kéo tới. Người dân Các Sơn cũng sớm biết kết hợp trồng trọt và chăn nuôi. Con trâu được người dân nơi đây coi là “ đầu cơ nghiệp ’’, phục vụ cho việc làm đất, thu hoạch . . . Gần đây, do đồng đất đã được cải tạo, đổi thay nên phần lớn các gia đình lại chuyển sang nuôi bò, vừa phục vụ nghề nông, vừa để sinh sản – trở thành nguồn hàng hóa bán ra thị trường. Ngoài ra, hoạt động chăn nuôi gia cầm như gà, vịt, ngan, ngỗng cũng khá phổ biến, đặc biệt là những gia đình có diện tích mặt nước hya vườn rộng. Chăn nuôi lợn phát triển mạnh ở địa phương, các gia đình đều có từ 2 con lợn trở lên. Trong những năm gần đây, do sự phát triển của thị trường, việc nuôi lợn nái hay lợn thịt theo mô hình công nghiệp đang được đẩy mạnh, tạo ra thu nhập đáng kể cho các gia đình. 1.2. Truyền thống lịch sử, văn hóa và cách mạng Xã Các Sơn là vùng đất có truyền thống lịch sử văn hóa lâu đời. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, biến động của xã hội, các dấu tích văn hóa, lịch sử của cha ông còn được lưu giữ ở Các Sơn là minh chứng cụ thể, sinh động cho bề dày văn hóa và sức sống bất diệt của con người nơi đây. Xưa kia, trong tất cả các làng của xã Các Sơn đình, đền, chùa, miếu chính là những công trình kiến trúc điển hình như nghè Ông ở làng Quế Lâm, nghè Bà ở làng Các . . . góp phần tạo ra sắc thái tín ngưỡng truyền thống đặc trưng cho vùng quê này. Ngày hội là dịp dân làng hội tụ, gặp gỡ và thăm hỏi, động viên lẫn nhau, tạo ra không khí phấn khởi, gắn bó trong tình làng nghĩa xóm. Cũng như nhiều nơi khác, ở xã Các Sơn có nhiều phong tục tập quán gắn với từng giai đoạn trong cuộc đời mỗi con người từ lúc sinh ra, lúc trưởng thành, cho đến khi già và trở về với tổ tiên. Đám cưới của người dân Các Sơn xưa thường được tổ chức sau mùa thu hoạch, gần giáp Tết Nguyên đán. Bởi sau khi thu hoạch, thời gian rảnh rỗi có nhiều, lương thực, vật nuôi đều có sẵn . . . giúp cho việc tổ chức đám cưới thêm thuận lợi, đông vui, náo nhiệt. Người dân Việt Nam nói chung, người Các Sơn nói riêng rất coi trọng nghi lễ tang ma, gọi đó là việc hiếu. Nhân dân trong xã vẫn truyền nhau quan niệm Nghĩa tử là nghĩa tận. Theo tục lệ của các làng trước đây, nhà có người chết thì tùy theo hoàn cảnh gia đình, khi mai táng chủ yếu là anh em trong họ, khi đưa ma thì cả làng đều đi đưa. Đối với các ngày lễ, tết, cho đến nay, cư dân các làng ở Các Sơn vẫn duy trì các phong tục như: Tết Nguyên đán, Tết Thanh minh, Tết Đoan ngọ, Tết Trung nguyên, Tết Trung thu . . . Bên cạnh các ngày tết, nhân dân các làng trong xã Các Sơn còn tổ chức nhiều ngày lễ hội. Mỗi lễ hội đều hàm chứa nhiều giá trị lịch sử, văn hóa và quy mô lớn nhỏ khác nhau. Lễ hội gồm có 2 phần: phần lễ và phần hội. Phần lễ là những nghi thức mang tính tâm linh của người đang sống đối với tổ tiên, thần linh, những người có tên và làng xóm, dòng tộc. Phần hội là những trò chơi, trò diễn dân gian truyền thống mà hệ thống trò xoay quanh các tích, truyện hoặc phong tục vốn có từ xa xưa, gắn liền với di tích, lễ hội. Lễ hội ở Các Sơn là lễ hội gắn liền với cư dân nông nghiệp trồng lúa nước. Lễ hội đáp ứng nhu cầu thưởng thức và giao lưu văn hóa của người dân. Trong lịch sử cũng như hiện nay, sinh hoạt tôn giáo là một bộ phận quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân Các Sơn. Hai tôn giáo là Phật giáo và Thiên Chúa giáo cùng phát triển hài hòa, đoàn kết, bình đẳng. Xã có các nhà thờ Thiên Chúa giáo ở làng Hoành và Hải Sơn. Giaso dân các thôn ngoan đạo và không sao nhãnh việc đời. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ xã, nhân dân các thôn đều thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà Nước. Trong quá trình hình thành làng xã, quần tụ dân cư và chung tay phát triển kinh tế - xã hội, nhân dân xã Các Sơn đã hình thành các giá trị truyền thống lịch sử, văn hóa tiêu biểu, vừa có tính đặc thù mang bản sắc quê hương, vừa phản ánh nét văn hóa chung của nông thôn Việt Nam. Đó chính là những tinh thần đoàn kết, gắn bó với nhau chặt chẽ, tạo nên một cộng đồng bền vững. Ngay từ rất sớm, những cư dân đầu tiên đến Các Sơn đã có ý thức cố kết cộng đồng về ý chí và sức lực để khai phá và cải tạo đồng ruộng, lập làng. Tinh thần đoàn kết, gắn bó giữa các dong tộc, các làng trong xã Các Sơn là một nhu cầu tự nhiên và đã trở thành truyền thống tốt đẹp. Truyền thống đó đã xuyên suốt hàng ngàn năm, góp phần xây dựng khối đoàn kết trong cộng đồng làng xã, tạo dựng cho quê hương trở thành vùng nông nghiệp trồng lúa phát triển. Minh chứng là trên vùng đất hoang rậm, nhiều cánh đồng rộng lớn, màu mỡ đã lần lượt được hình thành. Nhân dân Các Sơn không chỉ giàu kinh nghiệm trong việc trồng lúa mà còn trồng các loại cây màu khác, thành thục từ khâu chọn giống đến chọ đất canh tác phù hợp. 1.3. Truyền thống hiếu học và khoa cử Cùng với những cơ sở, truyền thống văn hóa và các phong tục tập quán tốt đẹp, thì từ xưa trong các làng của xã Các Sơn, nhân dân đều có truyền thống hiếu học, coi trọng những người trong khoa bảng. Các làng trong xã thời nào cũng có người đỗ hương cống, tham gia dạy học ở trong và ngoài xã. Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, có nhiều gia đình trong xã đã bỏ tiền của ra mời thầy dạy học chữ Nho, chữ Quốc ngữ về dạy cho con em mình và con em các làng lân cận, không thu tiền học phí. Tiêu biểu như ông Phạm Hữu Hạt, ông Đậu Văn Duyến làng Phương Ngạn ( nay là làng Phú Sơn ). Thầy giáo Nguyễn Văn Đoan làng Lạn, thầy Lê Quang Diễm làng Song. Năm 1936, với ảnh hưởng của phong trào truyền bá chữ Quốc Ngữ do Mặt trận Việt Minh lãnh đạo, chính phủ pháp đã mở trường dạy chữ Quốc Ngữ từ lớp đồng ấu đến lớp 3 ( các lớp 5-4-3 ) tại làng Song, xã Các Sơn. Thầy Trịnh Hữu Thường và thầy Đỗ Mười đã dạy tại đây. Năm 1941, tại Các Sơn, Pháp đã mở thêm các hương trường ở làng Phương Ngạn ( làng Phú Sơn ), do thầy giáo Trần Thế Sự dạy. Sau cách mạng tháng Tám, phong trào Bình dân học vụ ở Các Sơn phát triển rộng khắp các làng trong xã. Nhờ vậy, Các Sơn là xã điển hình của huyện, trong 2 năm đã xóa xong nạn mù chữ. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, mặc dù gặp phải hoàn cảnh hết sức khó khăn, song nhiều gia đình trong xã vẫn tạo điều kiện cho con em mình đi học lên cao, và trung cấp và đai học. Phát huy truyền thống của cha ông, ngày nay lớp con cháu xã Các Sơn có nhiều người thành đạt, hiển danh được xã hội ghi nhận. Ngoài việc học tập để nâng cao dân trí, nhân dân còn tích cực học để xóa đói giảm nghèo, làm giàu, vươn lên trong cuộc sống. Nhân dân Các Sơn hôm nay hiểu được giá trị, sự cần thiết của tri thức trong thời đại đất nước đởi mới, hội nhập. Thế hệ học sinh của xã đang ra sức thi đua rèn luyện để có sức khỏe tốt, học tập tốt. Đã thành nền nếp, trong Nghị quyết của Đảng bộ xã mỗ nhiệm kỳ đều coi trọng việc nâng cao chất lượng giáo dục. Cán bộ, đảng viên có trách nhiệm, gương mẫu, đi đầu trong việc chăm lo, tạo điều kiện, môi trường giáo dục trong chính gia điình mình. Những năm gần đây, trên địa bàn xã có gần 30 – 40 em thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng mỗi năm. Đây chính là nguồn nhân lực chất lượng cao quan trọng để xây dựng quê hương, đất nước giàu mạnh, xứng đáng với sự hy sinh, vun đắp của biết bao thế hệ cha anh đi trước. 1.4. Truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm Để có được cuộc sống bình yên, xây dựng quê hương như ngày hôm nay, nhân dân Các Sơn qua các thế hệ nối tiếp nhau, cùng nhân dân trong huyện, trong tỉnh và cả nước đứng lên chống giặc ngoại xâm. Tinh thần đó được nuôi dưỡng, phát triển và hun đúc thành truyền thống quý báu của người dân nơi đây. Cũng chính từ tình yêu quê hương, đất nước là cội nguồn, bệ đỡ cho truyền thống đấu tranh anh dũng của nhân dân Các Sơn trong lịch sử. Vào cuối thể kỷ XIX, khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, vua Hàm Nghi đã hạ chiếu Cần Vương, kêu gọi nhân dân đứng lên cứu nước. Nhân dân Các Sơn đã hòa trong không khí cứu nước, cứu nhà của các sĩ phu Cần Vương. Dù thực dân Pháp điên cuồng đàn áp nhưng ngọn lửa hung tàn của kẻ thù không làm người dân Các Sơn nhụt chí, mà trái lại, càng nung nấu chí căm thù, để khi có thời cơ, họ sẵn sàng đứng lên chiến đấu với cách mạng. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và chiến tranh bảo vệ Tổ Quốc, truyền thống bất khuất, kiên cường đó ngày càng được hun đúc, tôi luyện. Nhiều thế hệ thanh niên của Các Sơn đã đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ Quốc, tình nguyện lên đường chiến đấu vì độc lập, tự do. Trong những tháng ngày lịch sử hào hùng của dân tộc, biết bao người trong số họ đã ngã xuống. Kết thúc 3 cuộc chiến tranh, Các Sơn có 62% số hộ là gia đình dân quân, 107 liệt sỹ ( chiếm 5,8 % số hộ là gia đình liệt sỹ ), 52 thương binh, 43 bệnh binh và 4 bà mẹ Việt Nam anh hùng. Qua đó, Đảng bộ và nhân dân Các Sơn vinh dự được Đảng và Nhà Nước tặng thưởng nhiều bằng khen, huân, huy chương kháng chiến. Tháng 6 – 1966, Các Sơn vinh dự được hội đồng Chính phủ tặng thưởng huy chương Chiến công hạng II. Đặc biệt, năm 2005, xã vinh dự được trao tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Lễ hội, các hình thức sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán và truyền thống hiếu học tạo nên dòng chảy văn hóa, bản sắc riêng của cộng đồng cư dân xã Các Sơn từ xưa đến nay. Cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất, tinh thần đoàn kết, yêu thương giúp đỡ nhau trong cộng đồng làng xã, những sinh hoạt đặc trưng trong văn hóa. Đó là những truyền thống tốt đẹp được bảo tồn và phát huy trong các làng của xã Các Sơn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, những truyền thống tốt đẹp đó đang được phát huy có hiệu quả, góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng quê hương Các Sơn ngày càng giàu đẹp, văn minh, phát triển mạnh mẽ trên con đường đổi mới và hội nhập. Chương 2. Sự biến đổi văn hóa ở cộng đồng cư dân xã Các Sơn, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa 2.1. Biến đổi về ngôn ngữ Ngôn ngữ có một vai trò quan trọng trong đời sống tộc người, nhất là trong việc giữ gìn và truyền tải các giá trị văn hóa. Các nhà dân tộc học và nhân học ở Việt Nam đã cho rằng ngôn ngữ là một trong 3 tiêu chí để xác định thành phần dân tộc. Tuy nhiên trong môi trường đa tộc người, ngôn ngữ tộc người chịu nhiều thách thức khi đặt trong tương quan với ngôn ngữ phổ thông và ngôn ngữ chủ thể của khu vực. Dưới tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và quan hệ dân tộc, việc giao lưu, tiếp xúc ngôn ngữ và sử dụng những ngôn ngữ có ưu thế trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội ngày càng trở nên phổ biến. Với người kinh sinh sống tại địa bàn xã Các Sơn họ chỉ có tiếng kinh, bởi họ sinh ra và lớn lên từ bao đời nay. Có thể thấy rằng, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, dễ dàng nhận thấy xu hướng quan trọng trong sử dụng ngôn ngữ ở môi trường gia đình và cộng đồng các tộc người là song ngữ. 2.2. Biến đổi về trang phục Dân tộc Kinh là dân tộc lâu đời nhất ở nước ta, đây cũng là tộc người có dân cư đông đúc nhất, kinh tế phát triển nhất và có nền văn hóa phong phú đa dạng nhất, từ văn hóa ẩm thực, văn hóa kiến trúc, văn hóa nghệ thuật . . . đến văn hóa trang phục. Trang phục là một trong những yếu tố dễ nhận biết nhất đến đặc điểm và bản sắc tộc người. Do các điều kiện tự nhiên, xã hội, văn hóa mà mỗi tộc người hay nhóm tộc người đều có trang phục riêng, và thông qua trang phục đó, người ta dễ dàng nhận biết thành phần dân tộc của tộc người. Ngày nay, dưới tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập, trang phục là một trong những yếu tố dễ biến đổi nhất. Biến đổi trang phục ở người Kinh chịu ảnh hưởng nhiều bởi điều kiện về địa lý, sự phát triển kinh tế - xã hội và sự giao thoa văn hóa với các tộc người sống cận. Nhìn chung, trang phục của dân tộc kinh từ xưa đến nay đều rất phong phú và đa dạng về chủng loại, ngoài ra, chúng còn có sự khác biệt về phong cách mặc ở các dân tộc thuộc các vùng miền khác nhau. Xưa kia, đàn ông người Kinh mặc khố, để tóc dài, búi tóc hoặc thắt khăn đầu rùi, tiếp đến họ mặc áo cách nâu, xẻ ngực, cổ tròn, xẻ tà và có hai túi phía dưới. Đây là loại áo ngắn mặc với quần lá tọa ống rộng hoặc loại quần có cạp, dùng dây rút. Áo dài truyền thống có hai loại, loại xê ngực buông vạt không cài cúc, bên trong thường mặc áo “ cổ xây ’’ cho kín áo và mặc áo năm phân, xẻ nách, cổ đứng. Khi mặc áo dài, người phụ nữ thường để tóc dài, vấn khăn thành vành tròn trên đầu, ngoài trùm khăn hoặc đội nón ba tấm hoặc nón thủng, trong khi đó, các thiếu nữ lại búi tóc đuôi gà cho trẻ trung và hiện đại hơn. Ngày nay, áo dài truyền thống đã bị cách tân rất nhiều như áo dài cổ vuông thấp, cổ tròn, cổ tàu hay cổ trái tim . . . Chất liệu để làm nên chiếc áo dài cũng rất đa dạng. Khách hàng có thể lựa chọn nhiều gam màu khác nhau, nhiều kiểu dáng khác nhau. Chẳng hạn, một mảnh áo dài đỏ kèm ren, đính hoa hoặc ghép nhung, thổ cẩm sẽ được nhiều người lựa chọn thay vì vải áo đỏ bình thường. Những gam màu ấn tượng như hồng, cam, thiên thanh, thậm chí đen pha màu đồng, xanh dương hoặc tím hoa cà . . . được nhiều người lựa chọn thay vì những gam màu nhẹ nhàng, đơn giản như xanh da trời, phấn hồng, trắng ngà . . . trước đây. 2.3. Biến đổi về ăn uống Vốn xuất phát từ cư dân nông nghiệp chủ yếu sinh sống ở vùng nông thôn nên về cơ bản bữa ăn truyền thống của họ là cơm, rau, cá, còn các loại thịt được sử dụng rất hạn chế, trừ vào các dịp lễ tết. Ngày nay, dưới sự tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ẩm thực của người dân địa bàn xã Các Sơn đang có nhiều biến đổi rõ rệt. Chế độ ăn uống của người dân được thay đổi cả về lượng và chất. Về cơ cấu bữa ăn, do điều kiện kinh tế phát triển hơn trước nên phần lớn các hộ gia đình đã nâng từ 2 bữa ăn lên thành 3 bữa ăn, thậm chí nhiều hơn nữa. Cơ cấu bữa ăn, phẩu phần ăn ở những gia đình có điều kiện kinh tế khá do kinh doanh, buôn bán hoặc công chức nhà nước cũng có sự thay đổi theo ngày, theo độ tuổi ( già, trẻ em, người ốm ). Có thể thấy rằng, bữa ăn của người dân ngày càng được cải thiện hơn. Nếu như trước kia, các loại thịt lợn và gia cầm chỉ dành cho ngày tết, lễ hội, việc cưới, việc tang hay cúng bái thì ngày nay nhờ có thêm thu nhập bằng tiền mặt nên nhiều gia đình đã dùng số tiền đó mua thêm lương thực, thực phẩm để cải thiện bữa ăn hàng ngày. Nhiều hộ gia đình đã sử dụng bánh mỳ, mỳ tôm, bánh phở để nấu ăn sáng cho các thành viên trong gia đình. Có một điểm khác biệt trong bữa ăn của người dân Các Sơn là hiện nay so với trước kia là bữa ăn đã thay thế gạo tẻ bằng gạo nếp trong bữa ăn hằng ngày, không ghế hoặc độn các lọa lương thực khác như khoai, ngô, sắn . . . nữa do sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Ngoài ra, hiện nay đã xuất hiện hiều món ăn chế biến sẵn, các món ăn ngoại nhập như pho mai, xúc xích, thịt hun khói, đồ hộp . . . song cũng rất ít người dân sử dụng vì giá cả còn đát và không hợp khẩu vị. Thói quen muối thịt, muối mỡ vào dịp tết để ăn dần đã không còn phổ biến do kinh tế được cải thiện và sự phát triển của mạng lưới chợ ở khu vực họ cư trú. Vào dịp lễ tết, món ăn thường được phong phú và được chế biến cầu kỳ hơn. Một số món ăn đặc trưng của người dân vẫn được lưu truyền trong ngày nay để dâng cúng tổ tiên và thần linh. Có thể nói, các món ăn trong đám cưới và đám tang, lễ hội của người dân Các Sơn không chỉ ngày càng được tăng về lượng mà còn được tăng về chất và thể hiện sự giao thoa văn hóa giữa các dân tộc khá đặc sắc. Bên cạnh các món luộc truyền thống, còn có một số món ăn như xào, rán, quay, hầm, nộm, thập cẩm . . . Trên nhiều mâm cỗ cưới còn có một số món ăn được mua sẵn ở chợ như giò, chả, nem . . . Bên cạnh đó, đồ uống cũng có sự thay đổi so với trước đây, ngoài truyền thống uống rượu tự nấu, tự chế, rượu được nấu từ các nguyên liệu tự sản xuất như gạo, ngô, sắn với men tự làm thì đến nay, cùng với loại rượu này còn mua ở chợ, ngoài rượu trắng, họ còn sử dụng cả rượu màu, rượu vang cùng các loại đồ uống có ga như bia, nước ngọt . . . 2.4. Biến đổi về nhà ở Nhà cửa truyền thống là nơi lưu giữ nhiều dấu ấn văn hóa của người dân. Dưới sự tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhà ở của người dân có nhiều biến đổi. Sự thay đổi nhanh chóng về nhà ở cũng đã làm cho việc thay đổi không gian cư trú của mỗi thành viên trong gia đình, các nghi lễ gia đình được thực hiện trong ngôi nhà. Hiện nay đang phổ biến một số loại hình nhà như nhà nhiều tầng, nhà nhiều mái bằng, nhà cấp 4, nhà gỗ, nhà tường gạch mái ngói . . . Thực tế cho thấy hiện nay, trong nhận thức của người dân, trước hết là của lớp trẻ thì giá trị tinh thần của loại hình nhà gỗ, nhà cấp 4 đã suy giảm rất nhiều, thậm chí còn bị coi là lạc hậu, lỗi thời. Nhiều người không thích sống trong nhà gỗ, nhà cấp 4 và có xu hướng phá bỏ nó đi để làm những loại nhà được cho là hiện đại, văn minh, tân tiến hơn. Họ cho rằng, cuộc sống trong nhà cao cửa rộng văn minh hơn sống trong nhà gỗ, nhà cấp 4. Đồng thời, trong công cuộc xã hội hóa, thị trường hóa, việc làm nhà ở gần đường, khu đông dân cư thuận lợi cho việc buôn bán thì ngôi nhà xây sang trọng thích hợp hơn cho việc kinh doanh, buôn bán. Thông thường, các hộ giàu có, khá giả, thường xây nhà lầu, nhà tầng hoặc là nhà một tầng nhưng được xây dựng rất sang trọng. Các công trình kiến trúc là nơi làm việc của các cơ quan tại địa phương như Ủy ban nhân dân xã, trường học, nhà trẻ, trạm xá, bưu điện đều được xây dựng theo lối kiến trúc hiện đại. Chính vì sự thay đổi về nhà ở nên có thực trạng là khuôn viên của các ngôi nhà mới cũng thay đổi nhiều do dân số đông lên, quỹ đất ngày càng hẹp lại. Hầu như các gia đình hiện nay không chỉ còn một mảnh đất nhỏ để làm vườn, các ao cá để thả cá trước đây nay được san ủi trở thành bãi bằng phẳng mở rộng không gian cho các ngôi nhà mới được xây dựng. Hầu hết các hộ gia đình đã làm chuồng nuôi gia súc, gia cầm, tách ra hẳn gần nhà để đảm bảo vệ sinh cho môi trường sinh hoạt. 2.5. Biến đổi trong quan hệ gia đình, họ hàng và cộng đồng 2.5.1. Biến đổi trong quan hệ gia đình Trong quá trình đô thị hóa cùng với những biến đổi của cơ cấu kinh tế - xã hội của những vùng chịu sự tác động của đô thị hóa, thì những gia đình nơi đây cũng có những thay đổi trong cấu trúc, cách thức tổ chức sinh hoạt và trong các mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình. 2.5.1.1. Về quy mô gia đình Những năm gần đây việc mở cửa hội nhập quốc tế và đô thị hóa đã tác động không nhỏ đến quy mô gia đình ở nước ta nói chung và gia đình vùng đô thị hóa nói riêng. Theo số liệu thống kê từ kết quả điều tra mức sống dân cư năm 2010 cho thấy, ở nước ta năm 2002, số người bình quân trong hộ gia đình thành thị là 4,27 người, nông thôn là 4,49, năm 2006 ở thành thị là 4,13, nông thôn là 4,28 và đến năm 2010 giảm xuống còn 3,82 người đối với gia đình thành thị và 3,92 người ở nông thôn. Kết quả khảo sát ở xã Các Sơn cũng cho thấy, trong vòng 10 năm trở lại đây đã có sự thay đổi về quy mô gia đình. Số người trung bình trong gia đình hiện nay ở xã Các Sơn là 8019 người. Trong khi đó, số người trung bình ở Các Sơn 10 năm trước lần lượt là 8090 người. Sự thay đổi về số người sống trong gia đình ở Các Sơn cũng cho thấy đang có sự thay đổi về số thế hệ sống trong hộ gia đình. Trong thời gian 10 năm trở lại đây, số gia đình 3 thế hệ trở lên giảm, còn số gia đình một và hai thế hệ có xu hướng gia tăng. Các Sơn là nơi chiụ sự tác động của quá trình đô thị hóa. Vì vậy, sự tác động của quá trình đô thị hóa đến sự thay đổi về số thế hệ sống trong gia đình được thể hiện rõ từ khi đất ở những vùng này có xu hướng đắt lên. Gía đất đắt lên, nhiều hộ gia đình đã chia “ lô ’’ để bán và chia cho con cái ra ở riêng. Ngoài ra, nhiều người sau khi kết hôn cũng có mong muốn sống riêng, độc lập với bố mẹ. Qua nghiên cứu ở xã Các Sơn cho thấy quá trình đô thị hóa đang có những tác động đến quy mô gia đình ở đây. Số người sống trong hộ gia đình giảm và gia đình hai thế hệ đang có xu hướng tăng thay thế cho kiểu gia đình nhiều thế hệ trước đây. Những thay đổi này cho thấy xu hướng biến đổi theo quy mô gia đình đô thị ở vùng đô thị hóa. Sự thay đổi này ít nhiều có ảnh hưởng đến các mối quan hệ trong gia đình của người dân nơi đây. 2.5.1.2. Về quan hệ trong gia đình So với 10 năm trước, một số sinh hoạt tập thể trong gia đình ở Các Sơn như : bữa cơm gia đình hay xem ti vi cùng nhau có xu hướng giảm đi. Việc giảm đi các sinh hoạt này đã có ảnh hưởng đến quan hệ giao tiếp giữa các cá nhân trong gia đình. Bên cạnh đó, sự thay đổi trong không gian sống ( các gia đình xây dựng nhà cao tầng và các thành viên có không gian riêng ), thời gian làm việc, học tập nhiều hơn và đời sống riêng tư được tôn trọng đã giảm đi khoảng thời gian các thành viên trong gia đình giành cho nhau. Chính những điều này đang ít nhiều làm ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình. Kết quả khảo sát của đề tài cho thấy, nhiều người đã cho rằng các mối quan hệ trong gia đình hiện nay có phần “ ít gần gũi hơn’’ so với 10 năm trước. 2.5.2. Biến đổi trong quan hệ họ hàng Các Sơn vốn dĩ được hình thành từ bao đời nay, cũng giống như bao xã, phường khác, Các Sơn đều tồn tại rất nhiều dòng họ. Các dòng họ ở đây hàng năm vẫn duy trì được những hoạt động chủ yếu như: họp, giỗ tổ và tổ chức tuyên dương kết quả học tập của con cháu ( khuyến học ). Tuy nhiên, so với trước cũng có những thay đổi. Chẳng hạn, trước đây, phần lớn các hoạt động của dòng họ chủ yếu là con trai tham gia, còn hiện nay ở một số dòng họ đã có sự tham gia nhiều hơn của con gái ( nhất là với những người đã lập gia đình và sinh sống ở nơi khác ). Hay các hoạt động của dòng họ hiện nay không còn diễn ra với quy mô lớn có sự tham gia của hầu hết các thành viên trong dòng họ như trước đây mà chủ yếu là người lớn tuổi. Mặc dù, những hoạt động của các dòng họ ở Các Sơn hiện nay vẫn được duy trì, nhưng dưới tác động của quá trình đô thị hóa, vai trò của dòng họ, tính gắn kết giữa các thành viên và sự tương trợ lẫn nhau dường như đang có chiều hướng giảm so với trước đây. Vai trò và tính gắn kết của dòng họ giảm thể hiện ở việc các thành viên trong dòng họ ít nhờ cậy, giúp đỡ nhau hơn khi gia đình có công việc quan trọng ( cưới xin, tang ma, làm nhà ). Trước đây, mỗi khi các gia đình trong dòng họ có công việc quan trọng như cưới xin, tang ma, làm nhà thường nhờ và nhận được giúp đỡ của những người họ hàng, nhất là việc “ hậu cần ’’. Còn giờ đây, dưới tác động của quá trình đô thị hóa với sự phát triển nhanh chóng của các dịch vụ xã hội, khi có việc hiếu, hỷ nhiều gia đình đã thuê người làm theo hình thức “ trọn gói ’’. Bên cạnh đó, ảnh hưởng của dòng họ đối với một số công việc của các gia đình hay cá nhân trong dòng họ cũng có xu hướng giảm. Điều này được thể hiện rõ trong các công việc của các gia đình như cưới xin hay tang ma. 2.5.3. Biến đổi trong quan hệ hàng xóm, láng giềng. Quan hệ hàng xóm, láng giềng hiện nay ở vùng đô thị hóa cũng đang có xu hướng “ kém thân thiện hơn ’’ so với 10 năm trước, điều này được thể hiện qua nhận định của những người tham gia trả lời phỏng vấn khi có 59,5 % cho rằng quan hệ hàng xóm, láng giềng hiện nay kém thân thiện hơn so với 10 năm trước, 38,2 % cho rằng không thay đổi và chỉ có 2,3 % cho rằng thân thiện hơn. Xu hướng này thấy rõ hơn ở nơi chịu sự tác động sớm của quá trình đô thị hóa. Quan hệ hàng xóm, láng giềng “ kém thân thiện hơn ’’ thể hiện ở việc: - Người dân ít gặp gỡ, nói chuyện với nhau thường xuyên hơn ( do các gia đình kín cổng cao tường, ít có thời gian rảnh và do hàng xóm mới chưa quen hay không thích ). - Mọi người ít nhờ cậy, giúp đỡ nhau khi gia đình có công việc như hiếu, hỉ ( do thay đổi trong suy nghĩ của người dân và sự phát triển nhanh chóng của các dịch vụ xã hội ) . Cùng với đó là sự đan xen giữa dân gốc với dân nhập cư cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến mối quan hệ hàng xóm, láng giềng vốn đã có từ trước. Những thay đổi này đang làm cho tính đoàn kết trong cộng đồng làng xã vùng đô thị hóa hiện nay có xu hướng giảm đi. 2.6 . Biến đổi một số giá trị trong hôn nhân gia đình 2.6.1. Trong hôn nhân 2.6.1.1 Về tuổi kết hôn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan