TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN
NGUYỄN VĂN THÁI
NGHIÊN CỨU SẢN XUẤT BỘT CÁ TỪ PHỤ PHẨM
CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus)
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH CÔNG NGHỆ CHẾ BIẾN THỦY SẢN
2014
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN
NGUYỄN VĂN THÁI
NGHIÊN CỨU SẢN XUẤT BỘT CÁ TỪ PHỤ PHẨM
CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus)
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH CÔNG NGHỆ CHẾ BIẾN THỦY SẢN
CÁN BỘ HƢỚNG DẪN
PGs.Ts. ĐỖ THỊ THANH HƢƠNG
2014
NGHIÊN CỨU SẢN XUẤT BỘT CÁ TỪ PHỤ PHẨM
CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus)
Nguyễn Văn Thái
TÓM TẮT
Đề tài “Nghiên cứu sản xuất bột cá từ phụ phẩm cá tra” được nghiên
cứu nhằm tối ưu hóa một số công đoạn trong quy trình sản xuất bột cá làm
tăng giá trị kinh tế cũng như chất lượng sản phẩm trong quá trình chế biến.
Góp phần tận dụng tốt lượng phụ phẩm từ cá tra của các nhà máy chế biến
thủy sản đồng thời giải quyết vấn đề về môi trường và làm tăng thêm giá trị
con cá tra. Đề tài được thực hiện với 4 thí nghiệm chính để tìm ra thời gian
hấp thích hợp cho hiệu suất thu hồi bột cá tối ưu, thời gian ép thích hợp để
hàm lượng lipid đạt chỉ tiêu, hiệu suất thu hồi dịch đạm tối đa, và thời gian
sấy thích hợp đảm bảo hàm lượng ẩm cho công đoạn nghiền và bảo quản tốt.
Các kết quả thí nghiệm cho thấy, sản phẩm bột cá có hiệu suất thu hồi cao
nhất ở thời gian hấp 5 phút, thời gian ép triệt để và có hàm lượng lipid đạt chỉ
tiêu ở thời gian 10 phút, hiệu suất thu hồi dịch đạm đạt cao nhất với thời gian
60 phút, cuối cùng sản phẩm sấy ở thời gian 10 giờ cho hàm lượng ẩm đạt
tiêu chuẩn. Thành phần hóa học của bột cá thành phẩm: đạm tổng số đạt
60,75%, lipid 12,26%, hàm lượng ẩm 9,06%.
Từ khóa: Bột cá, bột cá tra, cá tra, phụ phẩm cá tra
1 ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay Đồng Bằng Sông Cửu Long là vùng nuôi và chế biến xuất
khẩu cá tra lớn nhất cả nước, với nhu cầu cá tra fillet xuất khẩu ngày càng
tăng, kéo theo sản lượng nuôi tăng mạnh khiến người dân đứng trước nguy cơ
khủng hoảng thừa cá nguyên liệu. Với năng xuất hoạt động rất lớn của các nhà
máy ở Đồng Bằng Sông Cửu Long nhưng lượng nguyên liệu cung cấp còn cao
hơn rất nhiều, bên cạnh đó lượng phụ phẩm sinh ra trong quá trình chế biến
chiếm khoảng 65 đến 70% nguyên liệu vào (Nguyễn Xuân Trình và ctv,
2013). Vì vậy nhu cầu tận dụng phụ phẩm là một xu hướng rất cần thiết, nhằm
tăng giá trị con cá tra, hiện nay đã có rất nhiều sản phẩm từ cá tra ngoài cá tra
fillet còn có cá viên, cá tẩm bột, cá phồng, surimi…Bên cạnh đó, mỡ chiếm
11-14% khối lượng cá tra (Bùi Thị Vũ Yến, 2011) nên biodiesel và bột cá từ
phụ phẩm là một hướng đi mới. Với lượng đạm cao 55-65% (Nguyễn Văn
Nguyện và ctv, 2012) đảm bảo chất lượng bột cá từ phụ phẩm chế biến đang
được sản xuất với nhu cầu lớn để phục vụ cho thức ăn gia súc và thuỷ sản,
nhằm đưa ra tính hoàn thiện và tổng quát về quy trình sản xuất bột cá từ phụ
1
phẩm cá tra. Đề tài “Nghiên cứu quy trình sản xuất bột từ phụ phẩm cá tra”
được đặt ra với tính chất tổng quan về quy trình và nhằm tối ưu hơn về kỹ
thuật nhằm nâng cao năng suất và chất lượng cho sản phẩm bột cá để đáp ứng
yêu cầu của thị trường cũng như giải quyết được lượng lớn phụ phẩm trong
quá trình chế biến thuỷ sản.
2 NGUYÊN VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Nguyên vật liệu
Nguyên liệu chính được sử dụng trong thí nghiệm là cá tra thu mua ở
chợ để fillet lấy phụ phẩm, hóa chất sử dụng cho phân tích là acid H2SO4 đậm
đặc, acid H2SO4 0,1N, acid Boric 2%, H2O2, Petroleum ether, thiết bị như máy
xay, cân điện tử, cối, chày, nồi hấp, tủ sấy, hệ thống phân tích lipid, đạm.
2.2 Phƣơng pháp nghiên cứu và bố trí thí nghiệm
2.2.1 Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được tiến hành trên cơ sở thay đổi một nhân tố và cố định
các nhân tố còn lại, kết quả thí nghiệm trước được sử dụng làm thông số cố
định cho thí nghiệm tiếp theo và thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên
với 3 lần lặp lại.
2.2.1.1 Sơ đồ bố trí thí nghiệm tổng quát
Cá tra còn sống, trọng lượng <0,5kg/con, không dị tật, không có dấu
hiệu bị bệnh, cắt tiết, ngâm rủa bằng nước sạch 15 phút ở nhiệt độ phòng, fillet
tách phần thịt 2 bên, thu nhận xương, đầu, nội tạng, da, mỡ làm nguyên liệu
cho thí nghiệm. Nguyên liệu được xử lý làm nhỏ kích thước 10-20 mm đối với
cá kích thước lớn để truyền nhiệt nhanh cho quá trình hấp, sau xử lý hấp cách
thủy ở nhiệt độ 80-90oC, ép tách nước và dầu ra khỏi nguyên liệu, sấy khô với
nhiệt độ <90oC nhằm giảm độ ẩm <10% (Lê Thị Minh Thủy, 2004), sau đó
nghiền và sàng với kích thước lưới khoảng 4-6 mm 15 lỗ/cm2 (Nguyễn Thành
Tấn, 2013).
2
Nguyên liệu
Xử lý
Hấp
Thí nghiệm 1
Thí nghiệm 2
Ép
Dịch ép
Bã ép
Phân ly
Dịch dầu
cá
Dịch
đạm
Tinh chế
Cô đặc
Dầu cá
Làm khô
Nghiền sàng
Thí nghiệm 4
Thí nghiệm 3
Đạm thu hồi
Bảo quản
bột cá
Hình 1: Quy trình sản xuất bột cá
Thí nghiệm 1: Xác định thời gian chưng nấu thích hợp để tối ưu hiệu suất thu
hồi xác bả trong bột cá chăn nuôi
Tiến hành thí nghiệm: phụ phẩm cá tra được chuẩn bị theo sơ đồ Hình
1. Nguyên liệu sau khi được xử lý làm nhỏ sau đó cân chính xác khối lượng
mẫu 50 (g) và tiến hành hấp cách thủy, và mẫu được cân xác định lại khối
lượng sau công đoạn ép để tính hiệu suất thu hồi.Thí nghiệm được bố trí với 6
thời gian hấp khác nhau 5 phút, 10 phút, 15 phút, 20 phút, 25 phút, 30 phút.
Cân khối lượng của từng mẫu sau công đoạn ép so sánh khối lượng trước khi
hấp tìm ra hiệu suất tối ưu, khối lượng mẫu 50 g (phụ phẩm cá tra) và thí
nghiệm được bố trí với 6 nghiệm thức với lặp lại 3 lần.
Thí nghiệm 2: Khảo sát thời gian ép ảnh hưởng tới hàm lượng lipid trong bột
cá
Tiến hành thí nghiệm: phụ phẩm cá tra được chuẩn bị theo sơ đồ Hình
1, chọn mẫu tối ưu của thí nghiệm 1, tiến hành thí nghiệm 2. Thí nghiệm bố trí
với 5 thời gian ép 4 phút, 7 phút, 10 phút, 13 phút, 16 phút với lực ép cố định
là 12 kg/cm2. Nguyên liệu sau khi được xử lý, hấp cách thủy, ép tách nước,
3
mỡ, dịch đạm…(thực hiện bằng cách dùng 2 thớt làm bề mặt ép và xô nước 60
lít làm lực ép với mẫu đựng trong bao vải 5 cm2). Sau khi ép tiến hành phân
tích hàm lượng lipid trong xác bả ép để chọn mẫu tối ưu <12% với khối lượng
mẫu 50 g (phụ phẩm cá tra). Thí nghiệm được bố trí với 5 nghiệm thức và 3
lần lặp lại.
Thí nghiệm 3: Khảo sát thời gian cô đặc ảnh hưởng đến hiệu suất thu hồi dịch
đạm
Tiến hành thí nghiệm: phụ phẩm cá tra được chuẩn bị theo sơ đồ Hình
1, chọn mẫu tối ưu của thí nghiệm 1 và thí nghiệm 2, tiến hành thí nghiệm 3.
Trong công đoạn ép tách mỡ ngoài ra có lượng đáng kể dịch đạm do đó xác
định thời gian cô đặc là rất thích hợp để thu hồi đạm tối ưu nhất mà khi bổ
sung không làm tăng ẩm trong bột cá chăn nuôi, trong dịch ép có rất nhiều mỡ
nên tiến hành loại mỡ bằng cách làm lạnh để đông vón lại rồi tiến hành cô đặc
theo thí nghiệm có khối lượng mẫu 50 g (phụ phẩm cá tra) và thí nghiệm được
bố trí 6 nghiệm thức với 3 lần lặp lại.
Thí nghiệm 4: Khảo sát thời gian làm khô ảnh hưởng đến hàm lượng ẩm trong
bột cá
Tiến hành thí nghiệm: phụ phẩm cá tra được chuẩn bị theo sơ đồ Hình
1, chọn mẫu tối ưu của thí nghiệm 1, thí nghiệm 2 và thí nghiệm 3, tiến hành
thí nghiệm 4. Nguyên liệu được xử lý, hấp cách thủy, ép theo các thông số kỹ
thuật được khảo sát từ thí nghiệm 1, 2 và 3 sau đó sấy mẫu ở nhiệt độ 70oC và
phân tích ẩm chọn thời gian thích hợp để bột cá đạt độ ẩm đạt tiêu chuẩn
<10% (Lê Thị Minh Thủy, 2004), bố trí thí nghiệm với 6 thời gian sấy khác
nhau từ 7, 8, 9, 10, 11, 12 giờ. Thí nghiệm được bố trí 6 nghiệm thức và 3 lần
lặp lại.
2.2.1 Phương pháp nghiên cứu
Hiệu suất thu hồi được tính bằng (khối lượng nguyên liệu sau ép/khối
lượng nguyên liệu ban đầu)x100.
Xác định biến đổi trọng lượng theo phương pháp cân để tính hiệu suất thu
hồi.
Xác định hàm lượng lipid tổng số bằng phương pháp Soxhlet theo TCVN
3703-90.
Xác định hàm lượng protein tổng số bằng phương pháp Kjeldahl theo
TCVN 3705-90.
Xác định hàm lượng ẩm tổng số bằng phương pháp sấy theo TCVN 370090.
2.2.2 Phương pháp xử lý số liệu
4
Số liệu thu được của các thí nghiệm được xử lý bằng chương trình
Excel để tính toán các giá trị trung bình, độ lệch chuẩn. Xử lý thống kê
ANOVA với mức ý nghĩa P< 0,05, bằng chương trình SPSS 16.0 để so sánh
sự khác biệt giữa các nghiệm thức trong cùng thí nghiệm.
3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Ảnh hƣởng của thời gian chƣng nấu đến hiệu suất thu hồi
Kết quả hiệu suất thu hồi theo thời gian chưng nấu được thể hiện trên
hiệu suất %
Hình 2
60
50
40
30
20
10
0
a
5
a
10
b
b
15
20
Thời gian hấp phút
c
b
25
30
Hình 2: Đồ thị biểu diễn hiệu suất thu hồi xác bả qua các thời gian hấp
Qua Hình 2 cho thấy khi thời gian hấp tăng từ 5 đến 10 phút thì hiệu
suất tăng và khác biệt không có ý nghĩa thống kê (P>0,05), tuy nhiên khác biệt
có ý nghĩa thống kê so với các mẫu còn lại. Tuy nhiên khi tăng thời gian hấp
đến 30 phút thì hiệu suất giảm. Mẫu 2 với thời gian hấp 10 phút cho hiệu suất
thu hồi cao nhất (53,43%) và khác biệt không có ý nghĩa thống kê (P>0,05)
với mẫu 1 (hấp 5 phút). Nguyên nhân thời gian hấp càng dài cho hiệu suất
càng thấp là do thời gian hấp càng lâu thì thúc đẩy quá trình oxy hóa, thủy
phân protein làm tổn thất chất dinh dưỡng và làm giảm hiệu suất thu hồi. Tuy
nhiên mục đích của công đoạn hấp là làm đông vón protein, phá vỡ tổ chức tế
bào, dầu, nước, protein tách ra tạo thuận lợi cho công đoạn ép, tiêu diệt vi sinh
vật, làm mất hoạt lực của enzyme vì vậy có thể hạn chế được hư hỏng của
nguyên liệu và tạo mùi thơm cho sản phẩm Lê Thị Minh Thủy, 2004 . Mà
yêu cầu thí nghiệm thời gian hấp càng ngắn càng lợi ích về mặt kinh tế mà
phải đạt được các yêu cầu về kỹ thuật của công đoạn để sản phẩm hiệu quả và
chất lượng, dựa vào kết quả chạy thống kê của thí nghiệm cho thấy hấp 5 phút
và 10 phút khác biệt không có ý nghĩa thống kê nên ta chọn thời gian hấp cho
5
hiệu suất tối ưu nhất là 5 phút vừa đạt yêu cầu đặt ra tại công đoạn vừa rút
ngắn thời gian có lợi về mặt kinh tế.
3.2 Khảo sát thời gian ép ảnh hƣởng tới hàm lƣợng lipid trong bột cá
Kết quả khảo sát hàm lượng lipid qua các thời gian ép được thể hiện
trên Hình 3
25
a
% lipid
20
b
c
c
c
10
Thời gian ép phút
13
16
15
10
5
0
4
7
Hình 3: Đồ thị biểu diễn hàm lượng lipid được khảo sát qua các thời gian ép
Qua đồ thị Hình 3 cho thấy hàm lượng lipid còn lại trong xác bả ép
giảm dần theo thời gian tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê ở
các thời gian 10 phút, 13 phút, 16 phút (p>0,05). Mẫu 4 với thời gian hấp 13
phút cho hàm lượng lipid thấp nhất 11,85% nhưng không có sự khác biệt
thống kê (p>0,05) với mẫu 3 ép trong (10 phút). Theo Lê Thị Minh Thủy
(2004), hàm lượng lipid trong bột cá nằm trong khoảng 5-12%, tuy nhiên kết
quả phân tích không đạt đúng chỉ tiêu, nhưng mà ta có thể dựa vào đó xác định
được thời gian ép cho hiệu quả tốt nhất. Do khi khối nguyên liệu bị ép lại thì
áp suất chất lỏng trong tế bào tăng lên làm rách màng tế bào và chất lỏng thoát
ra và giảm dần,khi áp lực tăng hiệu suất ép tăng nhưng có giới hạn vì nếu áp
suất tăng quá cao tế bào bị hẹp lại cản trở sự thoát chất lỏng (Phạm Thị Thu
Hương, 2007) theo thời gian hàm lượng lipid giảm rất chậm, do đó với thời
gian 10, 13 và 16 thì hàm lượng lipid đạt thấp nhất và giữa các nghiệm thức đó
không có sự khác biệt thống kê.
So với nghiên cứu tại tại nhà máy công đoạn ép (Nguyễn Thành Tấn,
2013) với thời gian 7-10 phút sản phẩm đạt hàm lượng lipid <12%, thực tế khi
khảo sát với thời gian 7 phút cho hàm lượng lipid còn khá cao 16,84% nên
chọn thời gian thích hợp là (10 phút) hàm lượng lipid còn 12,26% vì ép càng
triệt để loại mỡ càng tốt tuy nhiên không được kéo dài thời gian tránh các sự
6
biến đổi vì quá trình ép thực hiện ở nhiệt độ cao nên dễ bị biến đổi trong quá
trình chế biến và bảo quản do oxy hóa lipid nếu thời gian kéo dài.
3.3 Khảo sát thời gian cô đặc ảnh hƣởng đến hiệu suất thu hồi dịch đạm
Kết quả hàm lượng đạm thu hồi với các thời gian cô đặc khác nhau thể
hiện trên Hình 4
hàm lượng đạm %
62
a
61
b
60
c
c,d
59
c,d
d
60
70
58
57
56
20
30
40
50
Thời gian cô đặc phút
Hình 4: Đồ thị biểu diễn hàm lượng đạm thu hồi được khảo sát qua các thời
gian cô đặc khác nhau
Kết quả ảnh hưởng của thời gian sấy đến hàm lượng ẩm trong bột cá
thể hiện trên Hình 5
% Ẩm
20
a
b
15
c
10
c,d
d
d
60'
70'
5
0
20'
30'
40'
50'
Thời gian cô đặc phút
Hình 5: Đồ thị biểu diễn hàm lượng ẩm sau bổ sung dịch cô đặc và sấy trong
10 giờ
Từ Hình 4 thì hàm lượng protein giảm khi thời gian cô đặc tăng, qua
thời gian cô đặc từ 20 đến 70 phút thì hàm lượng protein giảm từ 61,33% còn
58,53%. Sau khi cô đặc và bổ sung lại giảm do quá trình cô đặc với nhiệt độ
cao, thời gian kéo dài làm vô hoạt hóa enzyme (protein, polyphenoloxidase,
7
lypoxydase) vốn tạo ra màu sắc, mùi vị xấu và giảm hàm lượng protein của
thực phẩm (Tôn Nữ Minh Nguyệt, 2014). Cho nên thực hiện quá trình cô đặc
trong thời gian càng ngắn càng tốt, để hàm lượng đạm cao nhất có thể mà vẫn
đảm bảo khi bổ sung vào công đoạn sấy cho độ ẩm đạt tiêu chuẩn.
Từ Hình 4 và Hình 5 và tiêu chuẩn bột cá chăn nuôi <10%, mẫu 3
(thời gian cô đặc 40 phút đạt được độ ẩm thích hợp (<10%) là 9,36% và đạm
59,34% sẽ được chọn mẫu tối ưu. Nguyên nhân hàm lượng ẩm giảm theo thời
gian càng tăng khi bổ sung dịch đạm cô đặc do nước bốc hơi càng nhiều khi
thời gian cô đặc kéo dài (Nguyễn Trọng Cẩn, 1990) cho nên ẩm càng giảm khi
bổ sung vào xác bả ở công đoạn sấy.
3.4 Khảo sát thời gian làm khô ảnh hƣởng đến hàm lƣợng ẩm trong bột
cá
Kết quả hàm lượng ẩm ảnh hưởng qua các thời gian sấy thể hiện trên
Hình 6
25
% Ẩm
20
a
b
15
c
d
10
e
f
5
0
7
8
9
10
Thời gian sấy giờ
11
12
Hình 6: Đồ thị biểu diễn hàm lượng ẩm được khảo sát qua các thời gian sấy
khác nhau
Qua đồ thị Hình 6 cho thấy hàm lượng ẩm giảm dần theo thời gian sấy
tăng dần cụ thể từ 7 giờ đến 12 giờ ẩm độ giảm từ 19,13% còn 5,77%, tuy
nhiên mức độ giảm hàm lượng ẩm giảm dần do trong quá trình làm khô, áp
lực hơi nước trên bề mặt bột cá lớn hơn áp lực của môi trường xung quanh.
Khi đó diễn ra quá trình khếch tán nội và khếch tán ngoại cho đến khi áp lực
hơi nước trên bề mặt bột cá cân bằng áp lực hơi nước môi trường xung quanh
8
thì hàm lượng ẩm thoát ra chậm cho nên thời gian sấy sau 10 giờ sự thay đổi
ẩm rất thấp.
Từ Hình 6 và tiêu chuẩn bột cá với độ ẩm <10% và tại mẫu sấy 10, 11
và 12 giờ có hàm lượng ẩm lần lượt là 9,06%, 7,44%, 5,77% thì hàm lượng
ẩm đạt tiêu chuẩn (<10%). Mục tiêu của thí nghiệm tìm ra thời gian sấy thích
hợp để bột cá đạt chỉ tiêu hàm lượng ẩm, đồng thời giảm tiêu hao chi phí và
thời gian cũng như đảm bảo chất lượng bột cá làm ra hàm lượng ẩm không
được quá thấp tránh sự hút ẩm trở lại gây vón cục, biến đổi dẫn đến hư hỏng
Trần Thị Luyến, 1996). Vậy mẫu tối ưu cho công đoạn sấy là 10 giờ đạt độ
ẩm 9,06% (<10%).
4 KẾT LUẬN
Sản xuất bột cá đòi hỏi yêu cầu cao về mặt kỹ thuật trong từng công
đoạn chế biến như thời gian, nhiệt độ và thiết bị xử lý, ngoài yêu cầu về kỹ
thuật cần phải đảm bảo chất lượng tốt của nguồn nguyên liệu và quá trình xử
lý phù hợp để sản phẩm đạt chất lượng tốt tránh làm tổn hao chất dinh dưỡng
nguyên liệu trong quá trình chế biến.
Từ kết quả thí nghiệm kết luận rằng sản phẩm bột cá có hiệu suất thu
hồi xác bả cao nhất đồng thời rút ngắn thời gian khi hấp còn 5 phút với nhiệt
độ hơi nóng 80-90oC, thời gian ép thích hợp để tách hàm lượng lipid đạt chỉ
tiêu <12% ở thời gian 10 phút cho kết quả 12,26%, khi khảo sát hiệu suất thu
hồi dịch đạm từ công đoạn ép bổ sung vào công đoạn sấy đạt thích hợp nhất
với thời gian 40 phút, cuối cùng sản phẩm sấy ở thời gian 10 giờ cho hàm
lượng ẩm đạt tiêu chuẩn <10% đáp ứng yêu cầu chất lượng đảm bảo cho quá
trình nghiền và bảo quản.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bùi Thị Vũ Yến, 2011. Thử nghiệm sản xuất sản phẩm dè cá tra cuộn rau củ
xông khói. Luận văn tốt nghiệp đại học ngành Chế biến thủy sản. Khoa thủy
sản. Trường Đại học Cần Thơ. Thành phố Cần Thơ.
Lê Thị Minh Thủy, 2004. Giáo trình bột cá Khoa Thủy Sản, Trường Đại học
Cần Thơ. Cần Thơ.
Trần Thị Luyến, 1996. Giáo trình chế biến thủy sản tổng hợp. Tập 2: Công
nghệ chế biến bột cá, dầu cá. Trường Đại học Nha Trang. Thành phố Nha
Trang.
Nguyễn Thành Tấn, 2013. Khảo sát quy trình công nghệ và hệ thống thiết bị
sản xuất dầu cá, bột cá tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu Bình Minh. Luận
văn tốt nghiệp đại học ngành Chế biến thủy sản. Khoa thủy sản. Trường Đại
học Cần Thơ. Cần Thơ.
9
Nguyễn Trọng Cẩn, 1990. Công nghệ chế biến thực phẩm thủy sản, tập 1 và 2.
NXB Nông nghiệp. Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Văn Nguyện, Nguyên Văn Hải, Lê Xuân Hải, 2012. Một số đặc tính
của bột cá dùng trong sản xuất thức ăn chăn nuôi thủy sản. Hội nghị khoa học
& phân ban công nghệ thực phẩm - sinh học. Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy
sản II, trường đại học bách khoa thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ Chí
Minh.
Nguyễn Xuân Trình, Trần Hải Yến, Trần Thị Anh Thư, 2013. Nghiên cứu
công nghệ sản xuất bột cá, dịch đạm từ phụ phẩm cá tra và cá basa. Luận văn
tốt nghiệp đại học ngành Chế biến thủy sản. Khoa thủy sản. Trường Đại học
Cần Thơ. Cần Thơ.
Phạm Thị Thu Hương, 2007. Tìm hiểu công đoạn ép trong công nghệ thực
phẩm. http://www.foodnk.com/Tim-hieu-cong-doan-ep-trong-cong-nghe-thucpham.html. Truy cập ngày 25/09/2014.
Tôn Nữ Minh Nguyệt, 2014. Giáo trình biến đổi protein trong chế biến và bảo
quản thực phẩm Bộ môn công nghệ thực phẩm Khoa kỹ thuật hóa học, Trường
đại học Bách Khoa thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ Chí Minh.
10
- Xem thêm -