1
LỜI MỞ ĐẦU
Khoai mỡ có tên khoa học là Dioscorea alata L.. Ở Việt Nam hiện nay,
khoai mỡ được trồng khá phổ biến tại hầu hết các vùng sinh thái, với năng suất cao.
Nguồn nguyên liệu khoai mỡ dồi dào nhưng lại chưa được quan tâm đúng mức. Vấn
đề sử dụng khoai mỡ còn ở mức đơn giản như làm lương thực, thực phẩm cho hộ
gia đình sử dụng trực tiếp, các sản phẩm công nghiệp từ khoai mỡ còn rất ít bao
gồm tinh bột khoai mỡ, khoai mỡ lạnh đông, khoai mỡ tím sấy khô.
Chính vì thế việc nghiên cứu chế biến các sản phẩm từ khoai mỡ là rất cần
thiết nhằm nâng cao giá trị kinh tế của cây khoai mỡ, đa dạng hóa thị trường sản
phẩm. Chúng tôi nghiên cứu sản phẩm bánh khoai mỡ không chỉ đáp ứng nhu cầu
nâng cao giá trị kinh tế, đa dạng hóa sản phẩm mà còn cung cấp một lượng tinh bột,
chất xơ, chất khoáng tốt cho sức khỏe người sử dụng, góp phần cung cấp năng
lượng, ngăn ngừa một số bệnh lý do thiếu chất khoáng và bệnh do thiếu chất xơ.
Mục tiêu của đề tài.
-
Tạo ra sản phẩm mới “bánh khoai mỡ” nhằm đa dạng hóa sản phẩm công
nghiệp, nâng cao giá trị kinh tế của cây khoai mỡ.
-
Sản phẩm có thể ứng dụng rộng rãi, phù hợp với mọi lứa tuổi.
-
Cung cấp tinh bột, chất xơ, chất khoáng giúp bổ xung năng lượng và ngăn
ngừa một số bệnh lý do thiếu chất xơ và chất khoáng gây ra.
Chúng tôi tiến hành khảo sát trên củ khoai mỡ thuộc giống VNDA.99. Các
thông số được khảo sát là thời gian hấp khoai, nhiệt độ và thời gian sấy khoai, tỷ lệ
bột khoai mỡ : bột mỳ, thời gian hấp bánh. Từ các kết quả khảo sát đạt được chúng
tôi đưa ra quy trình sản xuất bánh khoai mỡ. Tuy nhiên do thời gian có hạn nên đề
tài của chúng tôi vẫn còn một vài thiếu sót đó là xác định ảnh hưởng của acid citric
tới màu sắc của sản phẩm và xác định một vài chỉ tiêu hóa lý của sản phẩm.
2
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1. Tổng quan về khoai mỡ.[3]
1.1.1. Giới thiệu về cây khoai mỡ.[3]
Khoai mỡ (khoai vạc) là loại cây thuộc họ củ nâu Dioscoreaceae, chi
Dioscorea. Họ củ nâu Dioscoreacae ở Việt Nam thường gọi chung là khoai vạc,
khoai mỡ, khoai từ… được ghi nhận là một trong những cây lương thực lâu đời
nhất.
Nhóm cây có củ của một số loài thuộc chi Dioscorea còn được gọi là yams.
Họ củ nâu có chín chi với 650 loài phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới, ít phân bố
ở các vùng ôn đới. Ở Việt Nam chỉ có một chi với khoảng 40 loài.
Khoai mỡ có tên khoa học là Dioscorea alata L. là một trong số 10 loài quan
trọng nhất có giá trị kinh tế của chi Dioscorea.
1.1.2. Nguồn gốc xuất xứ.[3]
Khoai mỡ có nguồn gốc xuất xứ ở đông nam Châu Á. Nó được trồng nhiều ở
các nước châu Á, châu Mỹ và châu Phi.
Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam Á, do vậy nguồn gen khoai mỡ trên
nước ta rất phong phú. Ở Việt Nam khoai mỡ được trồng ở hầu khắp các tỉnh từ bắc
vào nam, tập trung nhiều ở các vùng triền sông, vùng bán sơn địa và các vùng khai
hoang. Hiện nay diện tích khoai mỡ ngày càng được mở rộng đặc biệt là ở các tỉnh
đồng bằng nam bộ như Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp.
1.1.3. Đặc điểm thực vật của cây khoai mỡ.[3]
Hình 1.1: Củ khoai mỡ tím
Hình 1.2: Lá khoai
3
Khoai mỡ là loại cây có bộ nhiễm sắc thể cơ bản là 2n = 20. Tuy nhiên trong
thực tế có thể gặp các giống có bộ nhiễm sắc thể 2n = 40, 90 và 100.
Rễ: rễ của khoai mỡ thuộc loại rễ chùm, ăn ngang trong đất. Hệ thống sợi rễ
nằm gần mặt đất, hầu hết ở độ sâu 30 cm và chỉ rất ít giống có rễ ăn sâu tới 80 – 100
cm.
Thân: thân có cấu trúc hình dây, bản thân không tự đứng thẳng mà phải tựa vào
cọc hoặc leo vào giàn. Hầu hết các giống đều có thân phát triển dài vài mét trước
khi phân nhánh.
Thân của khoai mỡ không có gai, thỉnh thoảng có những nốt sần con, có tiết
diện vuông và có bốn cánh mỏng ở bốn góc với màng chạy dọc theo chiều dài của
thân. Thân của khoai mỡ quấn sang phải, thường màu xanh. Nhưng cánh thỉnh
thoảng có màu đỏ hay tím bởi sự có mặt của chất sắc tố.
Lá: Lá của khoai mỡ thuộc loại lá đơn, thường có hình trứng, hình tim và đỉnh
lá thường nhọn. Những gân lá chính đều xuất phát từ gốc lá, các gân phụ phân bố
theo hình mắt lưới. Lá thường nhẵn, màu xanh, mọc đối. Tuy nhiên ở một số giống
cũng có hiện tượng mọc cách.
Củ: Củ của khoai mỡ thường là củ đơn, có nhiều hình dạng như hình trụ, hình
trứng ,hình oval ….Vỏ củ mỏng dễ cạo màu nâu xám hay nâu đen. Thịt củ có nhiều
màu sắc khác nhau trắng, vàng ngà hay tím.
Hoa, quả, hạt: cụm hoa đực dạng bông, khúc khuỷu. Cụm hoa cái thõng
xuống. Quả nang có ba cánh. Hạt có cánh màu nâu đỏ.
1.1.4. Một số giống khoai mỡ phổ biến.[3]
Khoai mỡ tím bông lau.
Cây dạng thân leo, xoắn sang phải, cao trên 7m. Thân màu xanh có cánh, màng
cánh xanh với rìa mép tím. Lá hình mũi tên dài màu xanh. Dạng củ hình ovan. Vỏ
củ nâu sẫm, thịt củ tím. Hàm lượng chất khô trong củ 20,5%, protein 5,3% chất khô.
Mỗi khóm có từ 2 – 5 củ. Khối lượng trung bình khóm 1 – 1,2kg. Thời gian sinh
trưởng 7 – 9 tháng.
4
Củ mỡ tía.
Cây dạng thân leo, xoắn sang phải cao hơm 7m. Thân màu xanh, có cánh, màng
cánh tím. Lá hình tên rộng, mài xanh. Dạng củ hình trụ. Vỏ củ nâu sẫm, thịt củ
trắng ngà. Hàm lượng chất khô trong củ là 34,1%, protein 9,19%. Mỗi khóm từ 2 -5
củ. Khối lượng trung bình khóm từ 0,8 – 1,0kg.
Khoai mỡ (VNDA.99)
Cây dạng thân leo sang phải, cao trên 7m. Thân màu xanh có cánh, màng cánh
xanh với rìa mép tím. Lá hình mũi tên dài, màu xanh. Dạng củ hình ovan dài. Vỏ củ
nâu sẫm, thịt củ tím pha trắng. Hàm lượng chất khô trong củ là 34,2%, tinh bột
65,0%, protein 8,3%. Mỗi khóm có từ 2 – 5 củ. Khối lượng trung bình khóm 0,6 –
1,0 kg.
1.1.5. Điều kiện sinh thái.[3]
Nhiệt độ: khoai mỡ là cây có củ vùng nhiệt đới nên ưa nhiệt độ cao. Để sinh
trưởng và phát triển bình thường, cây yêu cầu nhiệt độ trong khoảng 25 – 30oC. Cây
ngừng sinh trưởng khi nhiệt độ thấp dưới 20oC. Trong điều kiện thời tiết ấm áp cây
sinh trưởng mạnh, có tốc độ đồng hóa cao, và đẩy nhanh quá trình hình thành thân
củ.
Ánh sáng: khoai mỡ là cây ưa sáng cần nhiều ánh sáng để sinh trưởng và phát
triển củ. Ngày dài có ảnh hưởng lớn đến việc hình thành củ. Điều kiện ngày ngắn và
ánh sáng mạnh thúc đẩy hình thành và phát triển củ còn ngày dài thì lại thúc đẩy sự
phát triển của thân.
Đất: khoai mỡ là loại cây trồng dễ tính, có thể trồng trên nhiều loại đất khác
nhau, nhưng phát triển tốt nhất và cho năng suất cao nhất trên đất tương đối nhẹ, tơi
xốp, tầng đất canh tác sâu, đủ dinh dưỡng. Có thể trồng trên đất phèn mặn trung
bình và độ chua nhẹ.
Khoai mỡ là loại cây chịu úng kém. Không thích hợp trồng trên đất cát, đất sét.
Nước: khoai mỡ là cây chịu hạn. Tuy nhiên độ ẩm vừa phải trong suốt quá trình
sinh trưởng phát triển sẽ cho cây phát triển tốt và năng suất cao. Lượng mưa tối ưu
cho cây là 1.200mm – 1.500 mm mỗi năm. Yêu cầu độ ẩm đất cho cả vụ là 70 –
5
75% nhưng mỗi giai đoạn sinh trưởng cây cần độ ẩm đất không giống nhau. Thời
kỳ đầu sinh trưởng yêu cầu nước của cây thấp, cây có khả năng chịu hạn tốt vì thế
có thể trồng trong điều kiện khô hạn. Thời kỳ phát triển thân lá cây cần có nhiều
nước phục vụ cho quá trình tạo thành và tích lũy chất khô trong thân lá. Thời kỳ
phình to của củ nhu cầu nước của cây giảm xuống. Yêu cầu của nước trong thời kỳ
này chủ yếu phục vụ cho quá trình đồng hóa từ thân lá về củ. Vì vậy tùy theo giống,
nơi trồng, mùa vụ trồng và giai đoạn sinh trưởng của cây mà quyết định chế độ tưới
nước cho phù hợp để đạt năng suất cao.
Chất dinh dưỡng: cũng như các loại cây trồng lấy củ khác khoai mỡ yêu cầu
đất tốt, đầy đủ NPK và các nguyên tố vi lượng. Khoai mỡ ưa đất giàu mùn và phản
ứng tốt với phân chuồng đã phân giải.
1.1.6. Năng suất.[3]
Năng suất khoai mỡ trung bình đạt từ 20 – 30 tấn củ/ha chăm sóc tốt có thể lên
tới 40 – 50 tấn củ/ha.
Trên thế giới hàng năm sản xuất tới 38,57 triệu tấn loại củ này, trong đó nước
sản xuất lớn nhất là Nigieria. Nước nhập khẩu loại củ này lớn nhất là vương quốc
Anh. Riêng nước Anh mỗi năm nhập khoảng 8000 tấn củ khoai mỡ phục vụ nhu cầu
trong nước.
1.1.7. Thành phần hóa học.[3]
Củ là phần được sử dụng của khoai mỡ. Thành phần chính của củ tươi là nước
chiếm khoảng 2/3 khối lượng củ tươi. Tỷ lệ chất khô trong củ chiếm khoảng 20 –
30% tùy thuộc vào giống và thời gian thu hoạch. Hydrat cacbon là thành phần chất
khô chính của củ, chiếm ¼ khối lượng củ. Phần lớn hydrat cacbon là các hạt tinh
bột amylopectin mạch nhánh, tồn tại trong các tế bào dưới dạng các hạt tinh bột
hình elip.
Thành phần hóa học của khoai mỡ:
6
Bảng 1.1: Thành phần hoá học của khoai mỡ. [3]
Thành phần
%
Nước
70
Tinh bột
28
Đường
0.7 – 1.0
Chất béo
0.1 – 0.3
Protein thô
1.1 – 2.9
Xơ thô
0.6 – 1.4
Khoáng
0.7 – 2.1
Vitamin C (mg/100g)
5–8
Vitamin B1 (mg/100g)
0.09
Vitamin B2 (mg/100g)
0.03
Bảng 1.2: Thành phần hóa học của một số giống khoai (theo khối lượng). [17]
Bảng 2.2: fresh weight composition of Dioscorea spp
7
1.1.7.1. Tinh bột:
Cấu tạo hóa học.[11]
Tinh bột là polysacarit (gluxit phức tạp). Tinh bột bao gồm hai cấu tử là
amiloza và amilopectin. Trong tinh bột tỷ lệ amiloza trên amilopectin bằng khoảng
1/4 .
Về cấu tạo hóa học, hai phần trên đều có chứa các đơn vị cấu tạo là các
monosacarit glucoza. Trong amiloza các gốc glucoza được gán vào nhau nhờ liên
kết 1 – 4 và tạo nên một chuỗi dài gồm từ 200 – 1000 gốc glucoza. Phân tử amiloza
bao gồm một số chuỗi sắp xếp song song với nhau, trong đó các gốc glucoza của
từng chuỗi cuộn vòng lại hình xoắn ốc. Phân tử amiloza có một đầu không khử và
một đầu khử ( đầu có nhóm OH glucozit). Trong phân tử amilopectin, các gốc
glucoza gắn với nhau không chỉ nhờ liên kết 1 – 4 mà còn nhờ liên kết 1 – 6 . Vì
vậy có cả cấu trúc nhánh trong amilopectin. Phân tử amilopectin chỉ có một đầu
khử duy nhất.
Hình 1.3: Amylose và amylopectin
8
Tính chất và vai trò của tinh bột.[12]
• Tính thủy nhiệt và sự hồ hóa:
Khi hòa tan tinh bột vào nước do kích thước phân tử của tinh bột lớn lên nên
đầu tiên các phân tử sẽ xâm nhập vào giữa các phân tử tinh bột. Tại đây chúng sẽ
tương tác với nhóm hoạt động của tinh bột tạo ra lớp vỏ nước làm cho lực liên kết ở
mắt xích nào đó của phân tử tinh bột bị yếu đi, do đó phân tử tinh bột bị xê dịch và
bị “rão” ra và bị trương lên.
Nhiệt độ để phá vỡ hạt chuyển tinh bột từ trạng thái đầu có mức độ hydrat
hóa khác nhau thành dung dịch keo gọi là nhiệt độ hồ hóa. Nhiệt độ hồ hóa của tinh
bột không phải là một điểm mà là một khoảng nhiệt độ. Nhiệt độ hồ hóa cũng phụ
thuộc vào thành phần amyloza và amylopectin.
• Tính nhớt dẻo của hồ tinh bột:
Một trong những tính chất quan trọng của tinh bột có ảnh hưởng đến chất
lượng kết cấu của nhiều sản phẩm thực phẩm là độ nhớt và độ dẻo. Phân tử tinh bột
chứa nhiều nhóm hydroxyl có khả năng liên kết được với nhau làm cho phân tử
tinh bột tập hợp lại đồ sộ hơn, giữ nhiều phân tử nước hơn khiến cho dung dịch có
độ đặc, độ dính, độ dẻo và độ nhớt cao hơn, do đó các phân tử di chuyển khó khăn
hơn. Tính chất này thể hiện mạnh mẽ hơn ở những tinh bột giàu amilopectin.
• Khả năng tạo gel và thoái hóa của tinh bột.
Khi để nguội hồ tinh bột thì các phân tử sẽ tương tác với nhau và sắp xếp lại
một cách có trật tự để tạo thành gel tinh bột có cấu trúc mạng ba chiều.
Khi gel tinh bột để một thời gian dài chúng sẽ co lại và một lượng tinh thể sẽ
tách ra. Quá trình đó gọi là sự thoái hóa.
• Ngoài những tính chất trên tinh bột còn có khả năng tạo màng, tạo sợi…
Tinh bột giữ vai trò quan trọng trong kỹ nghệ thực phẩm do những tính chất
hóa lý của chúng. Tinh bột thường được dùng làm chất tạo độ nhớt sánh cho các
thực phẩm dạng lỏng hoặc tác nhân làm bền các loại thực phẩm dạng keo hoặc nhũ
tương. Người ta cũng sử dụng chúng như các yếu tố tạo kết dính và làm đặc, tạo độ
cứng và độ đàn hồi cho nhiều thực phẩm.
9
1.1.7.2. Cenloluse
Cấu tạo. [11]
Xelluloza là polysacarit chủ yếu của thành tế bào thực vật. Phân tử xellulose
chứa từ 1400 đến 10000 gốc glucoza. Xelluloza có dạng sợi. Các dạng sợi của
xelluloza lại gắn vào nhau nhờ các liên kết hydro tạo nên cấu trúc mixen của
xelluloza. Trong phân tử xelluloza có nhiều nhóm hydroxyl tồn tại dưới dạng tự do,
hydro của chúng dễ được thay thế bởi một số gốc hóa học như gốc metyl ( - CH3)
hoặc gốc axetyl (-CH3CO) hình thành nên dẫn xuất ete hoặc este của xelluloza.
Hình 1.4: Cấu tạo của cenloluse
Chức năng của cenlulose. [10]
Phòng ngừa ung thư ruột kết: chất xơ trong thức ăn ức chế hoạt động của các vi
khuẩn kỵ khí, thúc đẩy vi khuẩn hiếu khí sinh trưởng làm cho lượng hình thành axit
choleric trong đại tràng giảm xuống. Celluloza có tác dụng kích thích nhu động
10
ruột, vì thế dùng để điều hòa bài tiết. Celluloza có vai trò nhất định trong hệ điều
hòa vi khuẩn có ích ở ruột và tạo điều kiện tốt nhất cho chức phận tổng hợp của
chúng.
Phòng xơ vữa động mạch: gần đây nhiều nghiên cứu cho thấy celluloza tạo điều
kiện bài xuất cholesterol ra khỏi cơ thể và như vậy có tác dụng nhất định trong việc
phòng xơ vữa động mạch.
Phòng ngừa hình thành sỏi mật, giảm hàm lượng mỡ trong máu: phần lớn sỏi
mật là do cholesterol trong dung dịch mật bão hòa quá mức gây nên. Khi axit mật
và cholesterol mất cân bằng thì sẽ chiết xuất ra chất kết tinh cholesterol nhỏ và hình
thành sỏi mật. Chất xơ trong thức ăn sẽ làm giảm được nồng độ cholesterol trong
mật và trong huyết thanh từ đó làm độ bão hòa của cholesterol trong mật giảm
xuống, tỷ lệ mắc bệnh sỏi mật do đó cũng giảm.
Gây ảnh hưởng đến mức đường huyết, giảm bớt tác dụng dựa vào insulin của
bệnh nhân tiểu đường: khi áp dụng cách ăn có chứa nhiều chất xơ và carbohydrate
như lương thực các loại đậu, các loại rau xanh thì lượng đường niệu và lượng yêu
cầu insulin ở bệnh nhân tiểu đường đều giảm xuống.
Ngăn ngừa thừa năng lượng và béo phì: bữa ăn có nhiều chất xơ sẽ làm tăng
dung tích chứa thức ăn trong ruột tạo cảm giác no bụng từ đó để giảm lượng thức ăn
và năng lượng nạp vào, kiểm soát được cân nặng và ngăn ngừa được béo phì.
1.1.7.3. Protein.
Cấu tạo phân tử.[11]
Đơn vị cấu tạo cơ sở của protein là các
axitamin.
Axitamin là những hợp chất hữu cơ
mạch thẳng hoặc mạch vòng trong phân tử
có chứa ít nhất một nhóm amin ( - NH2)
và một nhóm cacboxyl ( - COOH).
Các axitamin thường gặp trong các
protein tự nhiên là những L - α - axitamin
Hình 1.5: Protein
11
có nhóm amin đính vào nguyên tử cacbon α đứng cạnh nhóm cacboxyl.
Vai trò của protein trong công nghệ thực phẩm. [11]
Protein là chất có khả năng tạo cấu trúc, tạo hình khối, tạo trạng thái các sản
phẩm .
Protein còn gián tiếp tạo ra chất lượng cho các thực phẩm.
Các axitamin từ protein phân giải ra có khả năng tương tác với đường khi gia
nhiệt để tạo màu vàng nâu cũng như hương thơm đặc trưng.
Các protein còn có khả năng cố định mùi tức là khả năng giữ hương được lâu
bền cho thực phẩm.
Khoai mỡ có hàm lượng protein khá cao, từ 1,1 – 2,9 %. Khoảng 85 – 95 %
lượng đạm có thể được tạo thành 9 axitamin không thay thế, rất cần thiết cho con
người như lizin, treonin, valin, izoloxin, metionin, xitin, phenylalamin, tytozin và
loxin.
Vai trò và chức năng của protein trong dinh dưỡng. [10]
Protein là thành phần quan trọng của nhân tế bào và ở các chất giữa tế bào. Một
số protein đặc hiệu có vai trò quan trọng do sự tham gia của chúng vào hoạt động
các men, nội tố, kháng thể và các hợp chất khác.
Protein cần thiết cho sự chuyển hóa bình thường của các chất dinh dưỡng khác.
Mọi quá trình chuyển hóa của glucid, lipid, axit nucleic, vitamin và chất khoáng đều
cần có sự xúc tác của enzyme mà bản chất hóa học của enzyme là protein.
Protein tham gia vào cân bằng năng lượng, điều hòa chuyển hóa nước, cân bằng
kiềm bảo vệ và giải độc cho cơ thể. Ngoài ra protein còn kích thích ngon miệng.
1.1.7.4. Chất khoáng. [10]
Vai trò
Giữ vai trò quan trọng trong quá trình tạo hình đặc biệt là tổ chức xương.
Duy trì cân bằng acid – kiềm trong cơ thể, duy trì ổn định các thành phần dịch
thể và điều hòa áp lực thẩm thấu.
Tham gia vào quá trình tạo propid.
12
Tham gia vào chức phận chuyền nội tiết (như iot ở tuyến giáp trạng) và nhiều
quá trình lên men.
Tham gia trung hòa các acid và ngăn ngừa chứng nhiễm acid.
Điều hòa chuyển hóa nước trong cơ thể.
1.1.8. Giá trị dinh dưỡng của khoai mỡ.[3]
Khoai mỡ có giá trị dinh dưỡng cao, có thể dùng luộc ăn, nấu độn với cơm, thổi
xôi, sử dụng để nấu các món canh, nấu chè…cái tên khoai mỡ chính là do bà con
nông dân đặt khi thấy củ ở một số giống ăn bùi, béo ngậy.
Ngoài ra trong công nghiệp chế biến, củ cũng có thể được sấy khô (thành lát
mỏng) làm món ăn nhanh, làm kem, chế biến thành bột, và làm nguyên liệu sản xuất
cồn và rượu.
Giá trị dinh dưỡng của khoai mỡ liên quan tới hàm lượng tinh bột. Một phần ba
năng lượng hàng ngày có thể được cung cấp từ 1kg khoai mỡ.
Giới thiệu một số món ăn từ khoai mỡ
• Chè trôi nước khoai mỡ: dùng khoai mỡ tím hấp chín như xay nhuyễn trộn
chung với bột nếp và bột năng rồi nặn thành viên (có thể dùng nhân đậu xanh) nấu
với nước đường kèm một chút gừng sặt sợi sẽ được món chè trôi nước ngon, lạ
miệng.
Hình 1.6: Chè trôi nước khoai mỡ
13
• Xôi khoai mỡ tím: là sự kết hợp hài hòa
giữa gạo nếp và khoai mỡ tím tạo nên món xôi
dẻo, thơm, màu sắc bắt mắt.
Hình 1.7: Xôi khoai mỡ tím
• Canh khoai mỡ tím: là món ăn quen
thuộc của người dân việt với vị ngậy mát của
khoai mỡ.
Hình 1.8: Canh khoai mỡ
• Bánh khoai mỡ: người ta dùng khoai mỡ
tím luộc chín kỹ rồi tán nhuyễn. Cho sữa tươi,
bơ lạt , khoai vào tán đều trên bếp (lửa trung
bình), khuấy cho đến khi phần bánh khuấy
không dính chảo nữa là được.
Hình 1.9: Bánh khoai mỡ
1.1.9. Giới thiệu một số sản phẩm từ khoai mỡ có trên thị trường hiện nay
Một số sản phẩm có mặt trên thị trường Việt Nam.
• Sản phẩm khoai mỡ tím sấy, khoai mỡ bào sợi, khoai mỡ cắt, khoai mỡ đông
lạnh
14
Hình 1.10: Khoai mỡ tím sấy
Hình 1.12: Khoai mỡ cắt
Hình 1.11: Khoai mỡ bào sợi
Hình 1.13: Khoai mỡ đông lạnh
Sản phẩm trên thị trường nước ngoài.
• Bột khoai mỡ: xuất xứ Philipin
Hình1.14: Bột khoai mỡ
15
1.2. Tổng quan về bánh bông lan và bánh thuẫn
1.2.1. Giới thiệu về bánh bông lan.
Một số loại bánh bông lan:
Hình 1.15: Bánh bông lan căn bản
Hình 1.17: Bánh bông lan nho
Hình 1.19: Bánh bông lan
nhân phô mai dâu
Hình 1.16: Bánh bông lan cam
Hình 1.18: Bánh bông lan cuốn
Hình 1.20: Bánh bông lan lá dứa
16
Quy trình chế biến bánh bông lan tham khảo.[15]
+ Nguyên liệu
Trứng:
1 quả
Bột mì:
40 g
Bột nổi:
1g
Đường:
40 g
Sữa tươi:
10 ml
Trứng
Đường
Đánh lần 1
Bột mì,
bột nổi
Đánh lần 2
Trộn
Sữa tươi
Rây mịn
Đổ khuôn
Nướng
Làm nguội
Đóng gói
Sản
phẩm
Sơ đồ 1.1: Quy trình chế biến bánh bông lan tham khảo.
17
1.2.2. Giới thiệu về bánh thuẫn.
Bánh thuẫn là một loại bánh thường được làm trong các dịp lễ tết.
Bánh thuẫn được làm từ trứng, bột mì,…và được nướng trong khuôn trên bếp
lửa. Bánh thuẫn sau khi nướng sẽ nở ra thành những cánh rất đẹp.
Hình 1.21: Bánh thuẫn
18
CHƯƠNG 2: NGUYÊN LIỆU VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Nguyên liệu.
2.1.1. Khoai mỡ.
Nguyên liệu chính được sử dụng trong nghiên cứu này là khoai mỡ tím. Khoai
mỡ sau khi được lựa chọn, sơ chế, hấp, sấy, xay mịn tạo thành bột khoai mỡ, sử
dụng bột khoai mỡ để làm bánh khoai mỡ.
Khoai mỡ được lựa chọn theo các chỉ tiêu về cảm quan sau:
• Màu sắc: màu tím ( tím bông lau cho đến tím đậm)
• Củ còn nguyên vẹn, không bị sâu, thối.
Hình 2.1: Bột khoai mỡ
2.1.2.Bột mì. [1]
Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng bột mì:
• Trạng thái cảm quan:
Bột mỳ tốt: màu trắng hoặc trắng ngà, mịn, tơi, mùi vị thơm dịu, dễ chịu, không
có mùi vị lạ: đắng, chua, ôi, khét, không có mùi mốc, không sâu mọt, không lẫn tạp
chất: rác, sắt, đất, cát.
19
• Chỉ tiêu lý hóa:
- Độ ẩm không quá 14%
- Độ chua không quá 4 độ ( = số ml NaOH 1 N để trung hòa 100g bột)
- Hàm lượng gluten khô không ít hơn 7 – 8%.
- Trạng thái gluten ướt: màu trắng đồng nhất, co dãn, đàn hồi như cao su.
- Gluten khô vẫn giữ được màu trắng sáng của gluten ướt.
- Không được có vi nấm độc và độc tố vi nấm.
- Dư lượng hóa chất trừ sâu: nằm trong giới hạn cho phép.
Hình 2.2: Lúa mì - bột mì
Trong nghiên đề tài nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng bột mì số 8 của công ty
TNHH bột mì Đại Phong.
Hình 2.3. Bột mì số 8
20
2.1.3. Đường. [6], [8]
Saccharose (công thức phân tử C12H22O16) là một disaccaride được cấu tạo từ
hai đường đơn là α-d glucose và β-d fructose.
Công thức cấu tạo của đường saccharose:
Hình 2.4: Cấu tạo của saccharose
Saccharose là một loại tinh thể trong suốt không màu, tỷ trọng 1.55879g/cm3,
nhiệt độ nóng chảy 186-1880C, rất dễ hòa tan trong nước và độ hòa tan tăng theo
nhiệt độ. Đường saccharose không tan trong một số dung môi như: dầu hỏa,
Cloroform, Benzen, Glycerin khan. Đường saccharose còn hòa tan giới hạn trong
Anilin, Etylacetat, Phenol…
Nhiệt dung riêng trung bình của saccharose là C = 0.3019
Độ quay cực {α}D20 = + 6605, dung dịch đường có tính quay phải.
Độ ngọt của đường saccharose: độ ngọt của đường không có ý nghĩa về mặt
dinh dưỡng, nhưng có giá trị dinh dưỡng về mặt cảm quan. Chính vì vậy mà đường
được dùng làm nguyên liệu trong chế biến thực phẩm, đóng vai trò như một chất tạo
vị.
Saccharose rất dễ thủy phân trong môi trường acid ngay cả với acid yếu như
H2CO3 tạo thành D-glucose và D-fructose. Do D-fructose cho quay trái mạnh còn
saccharose và D-glucose cho gốc quay phải yếu, nên sau khi thủy phân dung dịch
trở nên quay trái. Hiện tượng đó gọi là sự nghịch đảo đường, saccharose cũng có thể
bị thủy phân dưới tác dụng của men như men saccharase.
Saccharose là nguyên liệu không thể thiếu trong công nghệ sản xuất bánh.
Đường và acid ở tỉ lệ thích hợp tạo ra vị hài hòa cho bánh.
- Xem thêm -