Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu phát triển thư viện điện tử trong các trường đại học trên bản địa hà ...

Tài liệu Nghiên cứu phát triển thư viện điện tử trong các trường đại học trên bản địa hà nội hiện nay

.PDF
135
360
128

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Phạm Thị Mai NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC THƯ VIỆN Hà Nội - 2009 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Phạm Thị Mai NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI HIỆN NAY Chuyên ngành: Khoa học Thư viện Mó số: 60 32 20 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC THƯ VIỆN NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. Nguyễn Hữu Hựng Hà Nội - 2009 MỤC LỤC NỘI DUNG Trang PHẦN MỞ ĐẦU 1 Chương 1. THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN GIÁO 10 DỤC ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 1.1. Thư viện điện tử 10 1.1.1. Khái niệm thư viện điện tử 10 1.1.2. Các yếu tố cấu thành TVĐT 15 1.1.2.1. Người dùng tin điện tử 15 1.1.2.2. Vốn tài liệu điện tử 16 1.1.2.2.1. Nguồn tài nguyên điện tử 16 1.1.2.2.2. Siờu dữ liệu 18 1.1.2.3. Cán bộ thư viện điện tử 19 1.1.2.4. Cơ sở vật chất, kỹ thuật 21 1.1.2.4.1. Phần cứng 21 1.1.2.4.2. Phần mềm 24 1.1.3. Điều kiện để xây dựng thư viện điện tử 27 1.2. Giáo dục đại học trên địa bàn thành phố Hà Nội 27 1.2.1. Khỏi quỏt về thành phố Hà Nội 27 1.2.2. Hệ thống các trường đại học trên địa bàn thành phố Hà Nội 30 1.2.3. Hệ thống thư viện đại học trên địa bàn thành phố Hà Nội 32 1.3. Vai trũ của thư viện điện tử đối với giáo dục trong hệ thống 34 các trường đại học trên địa bàn Hà Nội Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ 37 TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI 2.1. Khỏi quỏt lịch sử hỡnh thành và phát triển của một số thư viện 37 trường đại học trên địa bàn Hà Nội 2.1.1. Nhóm thư viện các trường đại học đa ngành 37 2.1.2. Nhóm thư viện các trường đại học chuyên ngành 40 2.2. Thực trạng phát triển thư viện điện tử trong các trường đại 45 học trên địa bàn Hà Nội hiện nay 2.2.1. Người dùng tin điện tử 45 2.2.2. Vốn tài liệu điện tử 48 2.2.3. Nguồn nhõn lực 50 2.2.4. Cơ sở vật chất, kỹ thuật 53 2.2.4.1. Tổ chức và trụ sở làm việc 53 2.2.4.2. Trang thiết bị 54 2.2.4.3. Phần mềm thư viện 56 2.2.4.4. Kinh phí đầu tư 58 2.2.5. Sản phẩm và dịch vụ thông tin thư viện 58 Chương 3. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRONG 61 CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI 3.1. Xây dựng chính sách phát triển thư viện điện tử phự hợp 61 3.1.1. Mục tiờu của chớnh sỏch 61 3.1.2. Nội dung của chớnh sỏch 61 3.1.2.1. Chính sách phát triển thư viện điện tử tầm vĩ mô 61 3.1.2.1. Chính sách phát triển thư viện điện tử tầm vi mô 66 3.2. Tăng cường phát triển hạ tầng, và cơ sở vật chất kỹ thuật 76 3.2.1. Mở rộng diện tớch 76 3.2.2. Tăng cường phát triển hạ tầng kỹ thuật thông tin 76 3.2.2.1. Mạng intranet có tốc độ kết nối nhanh với internet. 77 3.2.2.2. Đầu tư hệ thống máy chủ (Server system). 77 3.2.2.3. Đầu tư hệ thống máy trạm 78 3.2.2.4. Đầu tư hệ thống các thiết bị ngoại vi cho TVĐT 78 3.2.2.5. Đầu tư thiết bị kiểm soát ra vào 79 3.2.2.6. Đầu tư các thiết bị an ninh 79 3.2.3. Đầu tư phần mềm 79 3.2.3.1. Đầu tư phần mềm TVĐT 79 3.2.3.2. Xõy dựng phần mềm hệ thống 83 3.3. Phát triển nguồn nhân lực cho xây dựng thư viện điện tử 84 3.4. Đầu tư tài chính cho phát triển thư viện điện tử 86 3.5. Đào tạo người sử dụng 89 3.6. Tăng cường chia sẻ và khai thác nguồn lực thông tin 90 3.6.1. Phỏt triển cỏc sản phẩm và dịch vụ thông tin điện tử 90 3.6.2. Bảo quản kho tư liệu điện tử 91 3.6.3. Xây dựng hệ thống thông tin thư viện đại học trên địa bàn Hà 92 3.6.4. Vấn đề bản quyền trong việc phát triển TVĐT 94 Nội DANH MỤC CÁC Kí HIỆU, TỪ VIẾT TẮT 1. Cơ sở dữ liệu CSDL 2. Cụng nghệ thụng tin CNTT 3. Đại học ĐH 4. Đại học Quốc gia ĐHQG 5. Siờu dữ liệu SDL 6. Thụng tin TT 7. Thư viện TV 8. Thư viện ảo TVA 9. Thư viện điện tử TVĐT 10. Thư viện số TVS 11. Trung tâm Thông tin Thư viện TTTT-TV 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin (CNTT), xu thế hình thành xã hội thông tin (TT) toàn cầu thì TT có vai trò vô cùng quan trọng. TT là nguồn lực phát triển của mỗi quốc gia: TT không bao giờ mất đi hoặc cạn kiệt khi được sử dụng mà ngược lại càng sử dụng thì giá trị càng cao. TT là cơ sở cho sự phát triển sản xuất bởi TT có thể làm rút ngắn quy trình sản xuất thông qua quá trình chuyển giao. Đồng thời TT còn là cơ sở cho sự phát triển khoa học bởi khoa học luôn có sự kế thừa và phát triển, TT trước làm tiền đề cho sự nghiên cứu khoa học sau này. Vì vậy, việc xây dựng hệ thống TT – thư viện (TV) hiện đại là việc làm rất cần thiết nhằm tạo lập được nguồn tin phong phú, đa dạng đáp ứng đầy đủ nhu cầu của người dùng tin, tạo động lực cho sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế - xã hội, sản xuất, khoa học và công nghệ. Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X nêu: “Phát triển mạnh, kết hợp chặt giữa hoạt động khoa học và công nghệ với giáo dục và đào tạo để thực sự phát huy vai trò quốc sách hàng đầu, tạo động lực đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức. Thống nhất định hướng giữa phát triển khoa học và công nghệ với chấn hưng giáo dục và đào tạo, phát huy quan hệ tương tác thúc đẩy lẫn nhau giữa hai lĩnh vực quốc sách hàng đầu này” đã tạo đà cho sự phát triển khoa học công nghệ trong giáo dục. Muốn phát triển kinh tế tri thức phải có TT. Theo Giáo sư, Viện sĩ Đặng Hữu - Trưởng ban CNTT thì “Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống”. Mặt khác, việc tiếp nhận vốn tri thức lại không dễ như tiếp nhận đồng vốn. Việc chuyển giao, tiếp nhận phải thông qua giáo dục đào tạo. Giáo dục đào tạo do đó trở thành ngành sản xuất vốn tri thức - ngành sản xuất cơ bản nhất, quan trọng nhất trong nền kinh tế tri thức. 2 Tuy nhiên, để giáo dục đào tạo phát triển, ngoài những nhân tố như chương trình học, trình độ, phương pháp của cán bộ giảng dạy còn có nhân tố khác đóng vai trò quan trọng đối với giáo dục đó là cơ sở vật chất, trang thiết bị trong đó gồm hệ thống cơ quan TT - TV hiện đại, có đủ khả năng đáp ứng với yêu cầu đổi mới giáo dục, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thế giới TV hiện nay đang trải qua một giai đoạn thay đổi lớn, các TV ĐH và TV nghiên cứu đang đối mặt với sự phát triển mới. Cùng với sự phát triển việc sử dụng các công nghệ mới, sự gia tăng TT số dưới dạng xuất bản phẩm điện tử và nguồn tin trên mạng, và sự có mặt Internet ở khắp mọi nơi, làm cho việc quản lý, lưu trữ TT gặp rất nhiều khó khăn. Việc xây dựng thư viện điện tử (TVĐT) có vai trò rất lớn trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Xuất phát từ lợi ích mà TVĐT mang lại cho nền kinh tế tri thức đó là sự chuyển giao TT nhanh nhất, thuận lợi nhất, tiết kiệm nhiều nhất thời gian cho bạn đọc. Trong khi người ta không thể phủ nhận là TV cũng là một nguồn TT quan trọng cho các nhà khoa học. Các nhà khoa học phần nhiều thích truy cập nhanh tới các kết quả nghiên cứu mới nhất, đây là một trong những điểm mà TVĐT có ưu điểm đáng kể hơn TV truyền thống. Giáo dục ĐH đang đứng trước những thách thức mới, thời cơ mới. Một trong những nhân tố quan trọng cho việc nâng cao chất lượng giáo dục ĐH đó là TV. Mà sức mạnh của hệ thống các trường ĐH phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thể hiện trước hết là cung cấp nguồn nhân lực, trí lực cho đất nước. Họ là những người được đào tạo về cơ bản, có trình độ, có kiến thức, nắm bắt những tri thức mới. Vậy với vai trò là nhân tố hỗ trợ cho việc nâng cao chất lượng đào tạo thì TVĐT trong các trường ĐH có vai trò: hỗ trợ cho việc thay đổi phương pháp giảng dạy, phương pháp học tập ở bậc ĐH. TVĐT làm thay đổi phương cách vận dụng tri thức của người học, đồng thời làm thay đổi phương pháp đánh giá người học Qua đánh giá thực tế, nhìn chung hệ thống các cơ quan TT - TV ở nước ta hiện nay còn nghèo nàn, lạc hậu chưa đáp ứng được yêu cầu cấp thiết của sự phát triển như vũ bão về mọi mặt, đặc biệt là kinh tế tri thức. 3 Những năm gần đây, khái niệm TVĐT xuất hiện nhiều trong các tài liệu nghiên cứu. Tuy nhiên, việc phát triển TVĐT trong các trường ĐH nói riêng chưa được quan tâm nghiên cứu. Vấn đề xây dựng TV hiện đại ở Việt Nam đã được Đảng và Nhà nước quan tâm chỉ đạo. Ngày 4 tháng 5 năm 2007 Bộ Văn hóa - TT ra Quyết định số 10/2007/QĐ- BVHTT phê duyệt “Quy hoạch phát triển ngành TV Việt Nam tới năm 2010 và định hướng phát triển tới năm 2020” trong đó có nội dung: Ứng dụng khoa học công nghệ cao nhằm tự động hóa, hiện đại hóa trong khâu hoạt động của TV. Phát triển TVĐT và TV kỹ thuật số. Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao và ngoại ngữ thông thạo, không những làm việc tốt ở trong nước mà còn làm việc tốt ở nước ngoài dưới dạng chuyên gia hoặc hợp tác giao lưu trao đổi TT. Sưu tầm, bảo tồn và phát huy vốn di sản văn hóa trong TV theo phương pháp hiện đại dựa vào CNTT phát triển ở mức cao. Hình thành 3 trung tâm bảo quản vùng tại Hà Nội, Huế, Tp Hồ Chí Minh. Số hóa 100% tài liệu quý hiếm trong TV”. Dưới sự chỉ đạo đó nhiều cơ quan TT - TV đã tiến hành xây dựng TVĐT nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới của đất nước. Tuy nhiên, vấn đề này còn mới mẻ nhất là đối với TTTT - TV các học viện, trường ĐH, cao đẳng (gọi chung là TV ĐH) do thiếu kinh nghiệm và chưa có phương pháp luận khoa học cụ thể trong việc phát triển TVĐT. TV dưới các hình thức biến thể khác nhau, là một yếu tố cấu thành của trường ĐH và là điều kiện cần thiết để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước. Tuy nhiên, cho đến nay việc phát triển TVĐT ở nhiều TV mới chỉ mang tính phong trào mà chưa có hệ thống, thiếu quy hoạch và tầm nhìn chiến lược trên cả bình diện quốc gia. Một trong những yêu cầu cấp thiết hiện nay là cần có sự nghiên cứu chuyên sâu, đưa ra giải pháp phát triển TVĐT cụ thể tại các TTTT - TV trong các trường ĐH, tạo cơ sở cho sự phát triển đồng bộ, hệ thống. Với những lý do trên tôi chọn đề tài: “Nghiên cứu phát triển thư viện điện tử trong các trường ĐH trên địa bàn Hà Nội hiện nay”. 4 2. Tình hình nghiên cứu Thực tiễn phát triển TVĐT được dễ dàng nhận thấy từ các trường ĐH được hỗ trợ từ dự án trong nước cũng như nước ngoài. Tuy vậy, việc xây dựng TVĐT chỉ dừng lại ở một số trường đơn lẻ, chưa có sự phát triển đồng bộ, hệ thống. Việc nghiên cứu về TVĐT ở Việt Nam cho đến nay cũng mới chỉ mang tính riêng lẻ, chỉ dừng lại ở những khía cạnh riêng biệt mang tính kỹ thuật như: “Thư viện điện tử dưới góc nhìn đào tạo” của tác giả Bùi Loan Thuỳ đăng trên Tạp chí TT & Tư liệu số 3 năm 2005. Đề cập đến các nội dung như so sánh mục tiêu đào tạo giữa các cơ sở đào tạo cán bộ TT - TV tại các trường ĐH ở nước ta, xem xét yêu cầu xây dựng TVĐT và tác động của xu thế xây dựng TVĐT tới chương trình đào tạo, tổ chức giảng dạy và trang thiết bị cần thiết cho các cơ sở đào tạo cán bộ TT - TV hiện nay. “Thư viện điện tử Trường ĐH tổng hợp Amsterdam và vấn đề xây dựng thư viện điện tử Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Huệ đăng trên Tạp chí TT & Tư liệu số 3 năm 2004. Giới thiệu kinh nghiệm xây dựng TVĐT tại Trường ĐH tổng hợp Amsterdam, Hà Lan trên ba phương diện: xây dựng kho tư liệu số, phương thức tiếp cận và khai thác TT, các dịch vụ của TVĐT. Nêu vấn đề xây dựng kho tài liệu số hoá và phát triển các mối liên kết của các TV khi xây dựng TVĐT ở Việt Nam. “Xây dựng thư viện điện tử và vấn đề số hoá tài liệu ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Tiến Đức đăng trên Tạp chí TT & Tư liệu số 2 năm 2005. Trình bày tiếp cận xây dựng TVĐT, xem xét khía cạnh cấu trúc, hạ tầng cơ sở kỹ thuật và phát triển kho tư liệu số hoá của TVĐT. Đề cập việc tổ chức số hoá tài liệu số trong phạm vi mạng lưới của các tổ chức TT khoa học công nghệ ở Việt Nam. “Các tiêu chí đánh giá và lựa chọn phần mềm cho thư viện điện tử ở Việt Nam” của tác giả Tạ Bá Hưng, Nguyễn Điến, Nguyễn Thắng đăng trên Tạp chí TT & Tư liệu số 2 năm 2005. Đề cập đến các tiêu chí đánh giá và lựa chọn phần mềm cho TVĐT: nhóm tiêu chí về CNTT, tiêu chí về chuẩn nghiệp vụ TT - TV, và nhóm tiêu chí đối với các phân hệ chức năng và một số lưu ý trong điều kiện ở Việt Nam. 5 Bên cạnh đó còn một số công trình nghiên cứu khác: “Thư viện số (TVS) Định nghĩa và vấn đề” của tác giả Cao Minh Kiểm đăng trên Tạp chí TT & Tư liệu số 3 năm 2000: Phân tích những đặc điểm chủ yếu của TVS, nêu những vấn đề kỹ thuật, xây dựng kho tài liệu số, xây dựng SDL cần được quan tâm giải quyết khi bắt tay xây dựng TVS, trao đổi một số ý kiến xung quanh việc xây dựng TVS ở Việt Nam; Bài viết “TVS với hệ thống mã nguồn mở” của tác giả Nguyễn Minh Hiệp nêu một số định nghĩa TVS, những phần mềm nguồn mở TVS tiêu biểu; Bài viết của tác giả Phùng Ngọc Sáng với nhan đề “Một số khái niệm - thuật ngữ về TVĐT, TVS” phân biệt giữa các khái niệm liên quan đến TVĐT. Bài “Giải pháp xây dựng các bộ sưu tập tài liệu số” của tác giả Nguyễn Hữu Ty nêu sự khác nhau của các khái niệm như TVĐT, TVS, ý nghĩa của bộ sưu tập số, các giải pháp xây dựng bộ sưu tập tài liệu số gồm lựa chọn tài liệu đầu vào, lựa chọn công nghệ, số hoá nguồn tài liệu. Ngoài ra còn một số công trình nghiên cứu trong các Kỷ yếu Hội thảo khoa học tiếp cận xây dựng TVS ở Việt Nam, Kỷ yếu Hội nghị ngành TT Khoa học và công nghệ - Lần thứ V, và gần đây nhất là Kỷ yếu hội thảo quốc tế về TVS lần thứ X tại Hà Nội năm 2007 với một số bài tiêu biểu như: “Xây dựng và phát triển TVĐT trong hệ thống TV ĐH ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Huy Chương, bài viết “Liên hợp TV về các nguồn tin điện tử, hiện trạng và xu hướng khai thác các nguồn tin điện tử của Việt Nam” của tác giả Trần Thu Lan và Đào Mạnh Thắng,… Theo thống kê từ các cơ sở đào tạo sau ĐH, có một số công trình nghiên cứu: “Tìm hiểu việc xây dựng và khai thác tài liệu điện tử tại Trung tâm TT-TV Đại học Quốc gia (ĐHQG) Hà Nội” của tác giả Trần Thị Tâm; Luận văn thạc sỹ năm 2003 của tác giả Nguyễn Hoàng Sơn với đề tài “Xây dựng mô hình thư viện điện tử ở Việt Nam” đề cập đến các vấn đề lý luận về TVĐT bao gồm: Chiến lược của hệ thống TT, khái niệm TVĐT, khảo sát nghiên cứu các yếu tố cấu thành TVĐT; Tình hình phát triển TVĐT ở Việt Nam thông qua khảo sát một số TV; Đề xuất một số giải pháp xây dựng mô hình TVĐT ở Việt Nam từ việc lập dự án đến việc thực thi dự án. 6 Do vậy, có thể nói rằng chủ đề “Nghiên cứu phát triển thư viện điện tử trong các trường ĐH trên địa bàn Hà Nội hiện nay” có nội dung nghiên cứu mới và là đề tài đầu tiên về lĩnh vực này. Luận văn sẽ nghiên cứu nội dung mang tính tổng quát từ các vấn đề mang tính kỹ thuật đến chính sách phát triển TVĐT, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp phù hợp cho sự phát triển TVĐT trong các trường ĐH ở Hà Nội. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích Nghiên cứu đề tài nhằm đánh giá thực trạng phát triển TVĐT trên địa bàn Hà Nội, từ đó luận chứng và đề xuất giải pháp phát triển TVĐT trong các trường ĐH trên địa bàn Hà Nội hiện nay để nâng cao chất lượng đào tạo của các trường. Nhiệm vụ Để thực hiện được mục tiêu trên trong đề tài tác giả cần giải quyết những nhiệm vụ sau: Nhiệm vụ 1: Khảo cứu những khái niệm cơ sở và những vấn đề về TVĐT như: Các yếu tố cấu thành của TVĐT, các điều kiện cần có để xây dựng TVĐT. Nhiệm vụ 2: Xem xét vai trò của TVĐT đối với phát triển giáo dục ĐH ở Hà Nội hiện nay, từ đó xác định được sự cần thiết của việc xây dựng TVĐT nói chung, phát triển TVĐT trong các trường ĐH nói riêng. Nhiệm vụ 3: Phân tích thực trạng phát triển TVĐT trong một số trường ĐH ở Hà Nội trên cơ sở bốn yếu tố cấu thành, tác giả hướng đến việc nhận biết có căn cứ những thuận lợi, khó khăn, cài gì đạt được, cái gì chưa đạt được của các TV trường ĐH trên địa bàn Hà Nội. Nhận xét, đánh giá hiệu quả của việc phát triển TVĐT ở Hà Nội nói riêng và phát triển giáo dục trong các trường ĐH ở Việt Nam nói chung. Nhiệm vụ 4: Đề xuất giải pháp phát triển TVĐT 4. Giả thuyết nghiên cứu Phát triển TVĐT ở các trường ĐH còn nhiều bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới đào tạo bởi sự phát triển đó thiếu căn cứ, chưa khoa học và hệ thống. Khả năng thực hiện trong thực tiễn gặp rất nhiều khó khăn. Vậy các giải pháp đưa ra xuất phát từ thực trạng phát triển TVĐT trong các trường ĐH sẽ hỗ trợ cho sự 7 phát triển TVĐT trong các trường ĐH trên địa bàn thành phố Hà Nội tốt hơn, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng tốt hơn yêu cầu đổi mới của đất nước. 5 . Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý thuyết về TVĐT và phát triển TVĐT trong các trường ĐH trên địa bàn thành phố Hà Nội. Thực tiễn phát triển giáo dục nói chung và phát triển giáo dục ĐH nói riêng đòi hỏi phải có hệ thống TV hiện đại, đặc biệt là TVĐT trong các trường ĐH. Mâu thuẫn chính hiện nay đó là sự phát triển mạnh mẽ của CNTT, nhu cầu cấp thiết của phát triển giáo dục với hiện trạng phát triển TVĐT trong các trường ĐH ở Việt Nam nói chung và ở Hà Nội nói riêng. Xuất phát từ thực tiễn đó đòi hỏi phải nghiên cứu hiện trạng phát triển TVĐT trong các trường ĐH một cách đồng bộ từ đó tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển. Trong phạm vi một luận văn thạc sỹ chuyên ngành khoa học TV, tác giả giới hạn nghiên cứu gồm các hướng sau: + Phân tích các khái niệm cơ sở liên quan đến TVĐT, các yếu tố cấu thành TVĐT. Vai trò của TVĐT với việc phát triển giáo dục ĐH ở Việt Nam. Khái quát về giáo dục ĐH trên địa bàn thành phố Hà Nội. Vai trò của TVĐT đối với hệ thống các trường ĐH trên địa bàn Hà Nội. + Khảo sát, phân tích, đánh giá sự phát triển TVĐT trong các trường ĐH trên địa bàn thành phố Hà Nội theo bốn yếu tố cấu thành. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp. + Thời gian: nghiên cứu xây dựng phát triển TVĐT ở mười trường ĐH trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay. + Không gian: là mười trường ĐH trên địa bàn thành phố Hà Nội. Tuy nhiên chỉ tập trung vào các TTTT - TV tại các trường này. 6. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận: Luận văn được trình bày trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử) mà cụ thể là 8 quan điểm toàn diện, quan điểm phát triển, quan điểm lịch sử cụ thể nhằm làm sáng tỏ bản chất của của các khái niệm liên quan đến phát triển TVĐT trong mối quan hệ với giáo dục ĐH nói riêng, giáo dục của Việt Nam nói chung. Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Tác giả sử dụng các phương pháp sau: Phương pháp nghiên cứu tài liệu: phân tích, tổng hợp, so sánh các vấn đề lý thuyết trên cơ sở các tài liệu mà tác giả thu thập được. Phương pháp thực nghiệm: phỏng vấn điều tra, khảo sát một số TTTT - TV trong các trường ĐH trên địa bàn thành phố Hà Nội. 7. Ý nghĩa khoa học và ứng dụng của đề tài. Về mặt khoa học Qua quá trình nghiên cứu luận văn hướng đến: * Phân tích một cách có hệ thống những khái niệm cơ bản liên quan đến TVĐT. Luận chứng phân tích vai trò của TVĐT đối với việc phát triển sự nghiệp giáo dục ĐH ở Việt Nam nói chung, giáo dục ĐH ở Hà Nội nói riêng. * Điều tra, nghiên cứu, phân tích có hệ thống hiện trạng phát triển TVĐT tại một số trường ĐH ở Việt Nam. * Trên cơ sở đó, đánh giá, đề xuất giải pháp phát triển TVĐT trong các trường ĐH trên địa bàn thành phố Hà Nội nhằm khắc phục vướng mắc. Về mặt ứng dụng Đề tài có ý nghĩa thực tiễn bởi những vấn đề được giải quyết trong luận văn có thể được vận dụng để phát triển TVĐT trong các trường ĐH trên địa bàn Hà Nội nói riêng cũng như các trường ĐH ở Việt Nam nói chung. Trong bối cảnh hiện nay, không phải bất kỳ một cơ quan TT - TV nào cũng đủ nguồn lực để đáp ứng mọi nhu cầu của người dùng tin. Đề tài góp phần vào việc tạo sự đồng bộ, thống nhất trong việc trao đổi TT, chia sẻ nguồn lực giữa các trường ĐH. Như vậy, với việc nghiên cứu một cách toàn diện để hiểu bản chất các khái niệm có liên quan, chứng minh vai trò của TVĐT đối với phát triển giáo dục, đề xuất giải pháp trên cơ sở nghiên cứu hiện trạng phát triển TVĐT tại một số trường 9 ĐH ở Hà Nội sẽ mang lại cách tiếp cận khoa học để phát triển TVĐT trong các trường ĐH ở Hà Nội. 8. Dự kiến kết quả nghiên cứu Nghiên cứu đề tài kết quả sẽ đạt được cụ thể như sau: Hiểu rõ bản chất một số khái niệm có liên quan đến TVĐT. Đánh giá và nhận thức đúng vai trò của TVĐT đối với phát triển giáo dục ĐH ở Hà Nội cũng như ở Việt Nam. Nhìn nhận toàn diện hiện trạng phát triển TVĐT trong các trường ĐH ở Hà Nội. Hình thành giải pháp phát triển toàn diện TVĐT trong các trường ĐH ở Hà Nội trên cơ sở lý luận cũng như thực tiễn. 9. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm 3 chương: Chương 1: Thư viện điện tử với việc phát triển giáo dục đại học trên địa bàn thành phố Hà Nội Chương 2: Thực trạng phát triển Thư viện điện tử trong các trường đại học trên địa bàn Hà Nội hiện nay Chương 3: Các giải pháp phát triển Thư viện điện tử trong các trường đại học trên địa bàn Hà Nội 10 NỘI DUNG Chương 1: THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM 1.1. Thư viện điện tử 1.1.1. Khái niệm thư viện điện tử Thư viện điện tử (TVĐT) là một khái niệm còn khá mới mẻ trong những năm 1990 không chỉ ở Việt Nam mà còn trên cả thế giới. Cho đến nay, khái niệm này đã khá quen thuộc với nhiều người trong giới chuyên môn. Tuy nhiên, ngay cả trong từ điển thuật ngữ chuyên ngành chưa có một khái niệm chính thức nào được công nhận, do đó tồn tại nhiều định nghĩa và cách hiểu khác nhau, đôi khi còn dùng lẫn lộn với các khái niệm: Thư viện (TV) không biên giới, TV được nối mạng, TV ảo (TVA). Sự xuất hiện những khái niệm khác nhau này liên quan đến sự bùng nổ thông tin (TT) theo cấp số nhân, xuất hiện công nghệ giấy điện tử, mô hình xuất bản điện tử mới, nhà sách trực tuyến, thương mại điện tử (E – commerce), truyền hình kỹ thuật số (Digital television), môi trường học tập tích hợp (intergrated learning environment), trường đại học (ĐH) điện tử (E – Universities), truyền thông di động (mobile Communication), in ấn theo nhu cầu (Printed in Demand). Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng có hai lý do để có nhiều cách hiểu khác nhau về các khái niệm: Thứ nhất: chưa có định nghĩa rõ ràng, nhiều thuật ngữ khác nhau đã được cộng đồng TV dùng trong một thời gian dài để đề cập đến khái niệm TVĐT, TVA, TV không tường mà không xác định rõ ràng nội hàm các thuật ngữ ấy khác nhau như thế nào. Thứ hai: nhiều lĩnh vực không phải TV dùng thuật ngữ TVĐT, TVS để chỉ những khái niệm không phải là TV theo quan niệm của người làm công tác TV.[16] Theo Hiệp hội nghiên cứu TV (Association of Research Library) thì các thuật ngữ như TVĐT, TVS, TVA được sử dụng với cùng một nội dung [31, tr.8] Theo quan điểm của Collier (1995) thì TVĐT được định nghĩa như là một môi trường gồm các tài liệu dưới dạng điện tử, được cấu trúc nhằm cung cấp một lượng TT lớn thông qua các máy tính hoặc các mạng viễn thông quốc tế [47, tr.6]. 11 Theo đó Collier đã chú trọng đến loại hình tài liệu được lưu giữ và sử dụng trong TVĐT chủ yếu là tài liệu điện tử. Gary Gorman thì cho rằng TVĐT chính là TVS [47, tr.6]. Phillip Barker (1997) cho rằng: Trong TVĐT có sử dụng rộng rãi máy tính và các phương tiện hỗ trợ khác (bảng tra trực tiếp, tìm văn bản đầy đủ, lưu các biểu ghi tự động hoá, ra các quyết định bằng máy tính,…) Tác giả nhấn mạnh đặc trưng của TVĐT là sử dụng phổ biến các phương tiện điện tử trong lưu trữ, tìm kiếm và cung cấp TT. Theo ông trong TVĐT, ngoài ấn phẩm điện tử vẫn còn tồn tại cả sách truyền thống [47, tr.6]. Tác giả Sylvie Tellier (1997) người Canada đưa ra định nghĩa như sau: TVĐT là TV có sử dụng hệ thống máy vi tính và các hệ thống phụ kiện của nó để lưu trữ, xử lý, cung cấp dịch vụ TT cho người sử dụng. Theo cách hiểu như vậy thì TVĐT ở đây có sử dụng máy tính trong việc quản lý, lưu trữ và phục vụ tìm kiếm TT [47, tr.7]. Như vậy, quan điểm của Sylvie Tellier và Phillip Barker là giống nhau đều cho rằng trong TVĐT có sử dụng phương tiện điện tử trong việc lưu trữ, xử lý và cung cấp TT. Ở Việt Nam, khái niệm TVĐT còn tương đối mới mẻ, xuất phát từ thực tiễn phát triển TVĐT còn chậm, việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) vào công tác TV có phần muộn hơn so với các nước trong khu vực. Các công trình nghiên cứu về TVĐT cũng chưa nhiều. Cho đến nay có một số công trình nghiên cứu về vấn đề này: Năm 1998 trong bài tham luận: “Tính khả thi trong việc xây dựng TVĐT ở Việt Nam” trong đó tác giả Vũ Văn Sơn đưa ra quan điểm của ba nhóm như sau: Nhóm thứ nhất cho rằng: TVĐT là TVS hoá, tức là TV không có sách, TT dưới dạng số và được lưu giữ trên các phương tiện khác nhau: bộ nhớ điện tử, đĩa quang, đĩa từ,… 12 Nhóm thứ hai cho rằng: TVĐT là TV tự động hoá, trong đó có sử dụng, lưu trữ cả các phương tiện truyền thống lẫn hiện đại. Quan điểm này cũng giống quan điểm của Phillip Barker. Nhóm thứ ba cho rằng: TVĐT là TV sử dụng mạng trong việc lưu trữ, bảo quản và phổ biến TT. Trong bài viết “Giải pháp xây dựng các bộ sưu tập tài liệu số” của tác giả Hoàng Đức Liên và Nguyễn Hữu Ty có đưa ra định nghĩa TVĐT như sau: “Một hệ thống TT trong đó các nguồn TT đều có sẵn dưới dạng có thể xử lý được bằng máy tính và trong đó tất cả các chức năng, bổ sung, lưu trữ, bảo quản, tím kiếm, truy cập và hiển thị đều sử dụng kỹ thuật số” [18]. Quan điểm của tác giả cũng cho rằng nguồn lực TT của TVĐT bao gồm cả tài liệu in giấy và tài liệu đã số hoá. Như vậy, với những quan điểm khác nhau, đến nay vẫn chưa có sự phân biệt rõ ràng giữa các khái niệm này. Tuy có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng tựu chung lại TVĐT có một số đặc điểm sau: - TV phải có vốn tư liệu điện tử (là những tư liệu được lưu trữ dưới dạng điện tử sao cho có thể truy nhập được bằng các thiết bị tin học). - Phải được tin học hoá, phải có một hệ quản trị TV tích hợp (bổ sung, biên mục, quản trị xuất bản phẩm định kỳ, kiểm soát lưu thông tư liệu, tổ chức mục lục truy nhập công cộng trực tuyến,…) phải nối mạng (ít nhất là mạng cục bộ). - Phải cung cấp và tạo điều kiện cho người sử dụng các dịch vụ điện tử (yêu cầu và gia hạn mượn qua mạng, tìm tin trong các cơ sở dữ liệu (CSDL), truy nhập và khai thác các nguồn tin tại chỗ và với tới các nguồn tin ở nơi khác). Tóm lại: TVĐT là TV trong đó có môi trường gồm các tài liệu điện tử, được cấu trúc nhằm cung cấp thông tin thông qua các máy tính và các mạng viễn thông. Thư viện số: Như trên đã nói theo Hiệp hội nghiên cứu TV (Association of Research Library) các thuật ngữ như TVĐT, TVS, TVA được sử dụng với cùng một nội dung. Tuy nhiên, còn có các quan điểm khác nhau không chỉ ở Việt Nam mà cả thế 13 giới, để hiểu rõ bản chất của các khái niệm TVS, TVA, TV đa phương tiện, cần có sự phân tích cụ thể như sau: TVS theo quan điểm của liên đoàn TVS (1993): “Các TVS là các tổ chức cung cấp các nguồn lực – tài nguyên, bao gồm cả các chuyên gia để lựa chọn, cấu trúc, cung cấp khả năng truy cập tới các nguồn tri thức, phiên dịch, phân phối, bảo đảm tính vẹn toàn và tính lâu dài của các bộ sưu tập số để cho một cộng đồng hoặc một tập hợp cộng đồng người dùng tin xác định luôn có thể sử dụng một cách nhanh chóng, kịp thời và kinh tế” [31, tr.8]. Theo Michael Lesk (1997): “Các TVS là các bộ sưu tập TT số hoá được tổ chức. Chúng bao gồm việc cấu trúc và thu thập TT là các công việc mà các TV truyền thống vẫn luôn phải làm và các máy tính có nhiệm vụ trình bày các TT số đó,…Một TVS thực sự cũng tạo ra các nguyên tắc quản lý những yếu tố cấu thành TV và các phương thức tổ chức TV” [31, tr8]. Theo Borgman (1999): “Các TVS là một tập hợp các nguồn TT số và các công cụ kỹ thuật tương ứng để tạo lập, tìm kiếm và sử dụng TT” [31, tr.8]. TS. Ian Written định nghĩa: TVS là một tập hợp những bộ sưu tập TT của các đối tượng số hoặc đã được số hoá có tổ chức và tập trung. Tập trung theo đề tài hay chủ đề và có tổ chức để TT dễ truy cập và lưu trữ theo những tiêu chuẩn chuyên biệt cung cấp hai chức năng chính: - Phương thức truy cập, chọn lọc, hiển thị tài nguyên số (dành cho người sử dụng); - Phương thức xây dựng, tổ chức và lưu hành (dành cho cán bộ TV)[9]. Theo Fox (1993): TVS là tập hợp của các máy tính số, các thiết bị máy móc lưu trữ và trao đổi TT cùng với bối cảnh số và phần mềm cần thiết để sản xuất và cung cấp các dịch vụ TT - TV tương tự như các TV truyền thống vẫn làm đối với tài liệu giấy và các loại hình tài liệu truyền thống khác trong quá trình thu thập, biên mục, tìm kiếm và phổ biến TT,…Một TVS đúng nghĩa và hoàn chỉnh phải bao gồm tất cả các dịch vụ cơ bản của TV truyền thống, đồng thời tận dụng được các lợi thế của việc lưu trữ, tìm kiếm và cung cấp TT số hoá. [24] 14 TVS theo G. Cleveland có một số đặc điểm sau: [49]. - Là phương diện (bộ mặt) số của TV truyền thống mà ở đó lưu trữ các sưu tập tài liệu số và tài liệu truyền thống (trên giấy và trên vật mang khác); - Bao gồm cả tư liệu tồn tại bên ngoài biên giới vật lý và hành chính của TV; - Bao gồm các quá trình và dịch vụ nòng cốt và trung tâm của hệ thống TV. Tuy nhiên, các quá trình và dịch vụ truyền thống sẽ phải được thay đổi cho phù hợp với TVS; - Cung cấp TT có trong TV mà không phụ thuộc vào loại hình và khổ mẫu của chúng; - Phục vụ một hoặc một số cộng đồng bạn đọc/người dùng tin, nhưng khác với TV truyền thống, những cộng đồng này có thể phân tán, đến khai thác TV thông qua mạng máy tính; - Cần có các cán bộ với kỹ năng của người cán bộ TV cũng như kỹ năng của người cán bộ tin học. Quan điểm của tác giả Vũ Văn Sơn cho rằng: TVS là tập hợp các thiết bị tính toán, lưu trữ và truyền thông số với nội dung và phần mềm để tái tạo, thúc đẩy và mở rộng các dịch vụ của TV truyền thống (thu thập, biên mục, tìm kiếm và phổ biến TT). Một TVS hoàn chỉnh phải thực hiện tất cả các dịch vụ cơ bản của TV truyền thống kết hợp với việc khai thác các lợi thế của công nghệ lưu trữ, tìm kiếm và truyền thông số [32]. Ông cũng cho rằng TVS là bước tiến xa hơn của TVĐT, cho phép đọc được TT toàn văn sau khi số hoá hầu hết tư liệu, đặc biệt là các tư liệu dưới dạng đồ họa (như tranh ảnh, bản đồ,…) và đa phương tiện (multimedia) nói chung. Quan điểm của tác giả Vũ Văn Sơn cũng đồng nhất với quan điểm của Philip Baker là phân biệt giữa TVĐT và TVS: TVĐT lưu trữ và phục vụ cả ấn phẩm lẫn tư liệu điện tử (tư liệu số hoá) trong khi đó TVS chỉ lưu trữ các tư liệu điện tử mà thôi. Trong bài viết “TVS - định nghĩa và vấn đề” của tác giả Cao Minh Kiểm đưa ra quan điểm: “sẽ là không thực tế khi cho rằng TVS sẽ là một hệ thống hoàn toàn số hoá, cho phép truy cập tức thì mọi TT từ mọi lĩnh vực của xã hội từ bất kỳ nơi
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan