Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu phát triển bền vững du lịch sinh thái thành phố đà lạt tỉnh lâm đồng...

Tài liệu Nghiên cứu phát triển bền vững du lịch sinh thái thành phố đà lạt tỉnh lâm đồng

.PDF
87
364
128

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Tạ Quang Trung Chuyên ngành : Địa lý học Mã số : 60 31 95 LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHẠM XUÂN HẬU Thành phố Hồ Chí Minh – 2009 LỜI CẢM ƠN Em xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến Giáo viên hướng dẫn khoa học PGS.TS Phạm Xuân Hậu – Viện trưởng Viện Nghiên cứu Giáo dục Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã nhiệt tình hướng dẫn em trong thời gian thực hiện đề tài. Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, phòng Khoa học Công nghệ và Sau đại học, Khoa Địa lý Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh; Ban giám hiệu, Khoa Sư phạm Khoa học Xã hội trường Đại học Sài Gòn đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu để hoàn thành luận văn. Xin chân thành cảm ơn Tỉnh uỷ, Ủy ban nhân dân, Sở thương mại – du lịch, Sở văn hoá thông tin, Cục thống kê, Sở Khoa học công nghệ và môi trường tỉnh Lâm Đồng đã cung cấp cho em nhiều nguồn tư liệu, tài liệu hữu ích phục vụ cho đề tài. Xin cảm ơn sự động viên, hỗ trợ rất lớn từ gia đình, bạn bè trong suốt khoá học và quá trình thực hiện luận văn. Xin nhận nơi em lòng biết ơn sâu sắc. Tác giả luận văn Tạ Quang Trung MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp có tính liên vùng và xã hội hóa cao: là một ngành có khả năng tạo ra nguồn thu ngoại tệ lớn cho xã hội, góp phần thúc đẩy giao lưu văn hóa, phát triển nhiều ngành kinh tế khác, tạo việc làm cho người lao động. Trong những năm gần đây ngành du lịch tỉnh Lâm Đồng có bước tăng trưởng khá, nhịp độ tăng trưởng hằng năm 10,4%. Chỉ tính từ 2005 – 2007 đã đón và phục vụ cho hơn 4.084.042 lượt khách, tổng giá trị đầu tư đạt khoảng 350 tỷ đồng. Doanh thu xã hội từ du lịch của tỉnh khoảng 900 tỷ đồng, đóng góp tích cực vào ngân sách nhà nước, giải quyết việc làm cho khoảng 3.000 lao động trong ngành du lịch và 7.000 lao động xã hội. (Nguồn: Niên giám thống kê Lâm Đồng, 2007). Trình độ tay nghề, nghiệp vụ của cán bộ quản lý và đội ngũ lao động từng bước được nâng cao, chất lượng sản phẩm du lịch ngày càng được cải thiện. Thành phố Đà Lạt, với những đặc trưng của mình: là trung tâm du lịch của khu vực Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, sự đa dạng của các dân tộc và tài nguyên du lịch… từ lâu đã trở thành một trong những trung tâm du lịch lớn của cả nước. Tuy nhiên hoạt động du lịch chưa xứng đáng với tiềm năng vốn có của nó. Thực lực kinh tế và cơ sở vật chất hạn chế, sản phẩm du lịch đơn điệu, trùng lặp, nghèo nàn, chất lượng phục vụ còn yếu kém, môi trường tự nhiên xuống cấp ngày một trầm trọng hơn. Nhìn chung, hiệu quả kinh doanh du lịch còn thấp và đây cũng là vấn đề bức xúc đang đặt ra đối với phát triển du lịch thành phố Đà Lạt trong tương lai của tỉnh Lâm Đồng. Đà Lạt được thiên nhiên ưu đãi với nguồn tài nguyên hết sức phong phú và đa dạng, đó cũng là tiền đề để phát triển du lịch thành phố Đà Lạt, đặc biệt là du lịch sinh thái. Vậy tài nguyên du lịch thành phố Đà Lạt bao gồm những gì ? Ngành du lịch thành phố Đà Lạt đang phát triển như thế nào và có theo hướng bền vững hay không? Chúng ta sẽ phải làm gì để du lịch thành phố Đà Lạt phát triển theo hướng bền vững? Đề tài “Nghiên cứu phát triển bền vững du lịch sinh thái thành phố Đà Lạt (Tỉnh Lâm Đồng)” sẽ góp phần giải quyết các vấn đề trên. 2. Lược sử nghiên cứu Theo nghiên cứu thì vấn đề phát triển bền vững du lịch sinh thái thành phố Đà Lạt chưa có nhiều và không tập trung đầy đủ, chủ yếu là nghiên cứu một phần. Có những công trình nghiên cứu sau:  Những nghiên cứu chuyên về các điểm du lịch của Sở du lịch, các công ty du lịch khai thác.  Định hướng chung trong quy hoạch phát triển kinh tế của tỉnh.  Hà Thị Lý – Nghiên cứu và đánh giá sự thay đổi của môi trường tự nhiên Thành phố Đà Lạt trong quá trình phát triển du lịch – Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ về phát triển bền vững du lịch sinh thái thành phố Đà Lạt. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài 3.1. Mục tiêu Nghiên cứu tiềm năng, thực trạng và đề xuất các định hướng phát triển bền vững du lịch thành phố Đà Lạt. Đây là nguồn kiến thức, thông tin tham khảo bổ ích để ngành du lịch thành phố Đà Lạt nghiên cứu, điều chỉnh các hoạt động du lịch, nhằm thỏa mãn nhu cầu đa dạng của du khách, mang lại hiệu quả kinh tế cao, nâng cao mức sống cộng đồng địa phương, bảo vệ môi trường và đảm bảo sự phát triển lâu dài. 3.2. Nhiệm vụ Nghiên cứu tiềm năng, hiện trạng và đề ra giải pháp phát triển du lịch thành phố Đà Lạt theo hướng phát triển bền vững du lịch sinh thái. 4. Giới hạn nội dung và phạm vi nghiên cứu  Không gian: Đề tài được giới hạn trong phạm vi địa giới của thành phố Đà Lạt (tỉnh Lâm Đồng).  Thời gian: Đề tài nghiên cứu vấn đề du lịch trên địa bàn thành phố Đà Lạt trong thời gian từ năm 1996 đến năm 2007 (các số liệu được thu thập để phục vụ cho đề tài).  Nội dung: Phân tích tiềm năng và hiện trạng phát triển du lịch của thành phố Đà Lạt trên quan điểm bền vững và đề xuất một số giải pháp phát triển du lịch theo hướng bền vững. 5. Các quan điểm và phương pháp nghiên cứu 5.1. Quan điểm  Tổng hợp – Hệ thống Nghiên cứu phát triển bền vững du lịch sinh thái thành phố Đà Lạt không thể tách khỏi hệ thống kinh tế - xã hội của cả nước. Các yếu tố cần được nghiên cứu, đánh giá trong mối quan hệ khăng khít chặt chẽ với sự phát triển kinh tế - xã hội của khu vực Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và cả nước.  Quan điểm lãnh thổ Việc nghiên cứu hiện trạng phát triển du lịch sinh thái ở thành phố Đà Lạt không thể tách rời với vùng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và cả nước. Do quá trình phát triển du lịch của thành phố Đà Lạt là một phần trong quá trình phát triển du lịch với vùng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và cả nước.  Quan điểm lịch sử Mọi sự vật, hiện tượng đều có quá trình phát sinh, vận động và biến đổi. Quá trình ấy có thể bắt đầu từ trong quá khứ, hiện tại vẫn tiếp diễn và kéo dài đến tương lai. Đứng trên quan điểm lịch sử, phân tích nguồn gốc phát sinh, đánh giá đúng đắn hiện tại sẽ là cơ sở để đưa ra các dự báo xác thực về xu hướng phát triển trong thời gian sắp tới. Quan điểm này được vận dụng trong khi phân tích các giai đoạn chủ yếu của quá trình phát triển hệ thống du lịch và dự báo xu hướng phát triển của hệ thống lãnh thổ.  Quan điểm sinh thái Phát triển du lịch phải gắn liền với bảo vệ môi trường sinh thái. Quan điểm sinh thái cho thấy sự cần thiết phải bảo vệ tính toàn vẹn của hệ sinh thái, đánh giá tác động của du lịch đến môi trường và khả năng chịu đựng của môi trường trước sự phát triển của kinh tế nói chung, du lịch nói riêng.  Quan điểm phát triển bền vững Du lịch sinh thái bền vững là việc phát triển các hoạt động du lịch nhằm đáp ứng các nhu cầu hiện tại của khách du lịch và người dân bản địa trong khi đó vẫn quan tâm đến việc bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên và phát triển du lịch trong tương lai. 5.2. Phương pháp nghiên cứu  Phân tích tổng hợp Thông tin, số liệu sau khi thu thập sẽ được so sánh, phân tích, tổng hợp cho phù hợp với mục đích của từng phần. Quá trình tổng hợp sẽ có được cái nhìn bao quát về du lịch thành phố Đà Lạt. Qua phân tích, các thông tin được chắt lọc với độ tin cậy và mang lại hiệu quả cao nhất.  Thống kê Sau khi thu thập thông tin, số liệu, tiến hành thống kê, sắp xếp chúng lại cho phù hợp với cấu trúc của đề tài, trình tự thời gian và lập ra các bảng biểu về quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh cũng như ngành du lịch thành phố Đà Lạt.  Thực địa Đây là phương pháp không thể thiếu nhằm tích luỹ tài liệu thực tế về sự hình thành, phát triển và đặc điểm của tổ chức lãnh thổ du lịch. Trong quá trình thực hiện luận văn, phương pháp này rất được coi trọng vì nó phản ánh thực tiễn khách quan của đề tài mà luận văn nghiên cứu.  So sánh Đây là phương pháp sử dụng dùng để so sánh các số liệu thống kê thu thập từ đó đưa ra những nhận định cần thiết (rút ra kết luận). Phương pháp này còn được dùng để so sánh sự phát triển du lịch của thành phố Đà Lạt qua các năm.  Bản đồ Đây là phương pháp đặc trưng của địa lý. Sử dụng các bản đồ, biểu đồ làm tăng tính trực quan của đề tài, không chỉ cho biết đặc điểm, phân bố, mạng lưới mà còn thể hiện một số kết quả của công trình nghiên cứu. 6. Cấu trúc của luận văn Mở Đầu Nội Dung Chương 1. Cơ sở lý luận và phát triển bền vững du lịch Chương 2. Những nhân tố ảnh hưởng và thực trạng phát triển bền vững du lịch sinh thái thành phố Đà Lạt Chương 3. Định hướng và các giải pháp phát triển bền vững du lịch sinh thái thành phố Đà Lạt Kết Luận – Kiến nghị Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG DU LỊCH SINH THÁI 1.1. Một số khái niệm 1.1.1. Du lịch Du lịch là một hoạt động đã có từ lâu, nhưng trước đây nó không được hiểu là du lịch. Du lịch ban đầu chỉ là việc con người bắt đầu mở rộng giao lưu với thế giới bên ngoài bằng các cuộc di chuyển. Ban đầu chỉ là khám phá tìm vùng đất mới, sau đó là các hoạt động đi lại gắn liền với buôn bán và thường thì sẽ lưu trú lại tại nơi đó một khoảng thời gian ngắn. Với sự phát triển của công nghiệp ngày càng mạnh mẽ từ thế kỷ XVIII, hàng loạt các phương tiện di chuyển hiện đại được phát minh thì nhu cầu nghỉ dưỡng, tham quan, nghiên cứu… trở nên dễ dàng hơn với mọi người. Chính vì lẽ đó hoạt động du lịch có điều kiện phát triển mạnh mẽ. Năm 1925, hiệp hội quốc tế các tổ chức du lịch IUOTO (Internation of Union Official Travel Organization) được thành lập tại Hà Lan, đánh dấu bước ngoặt trong việc thay đổi, phát triển các khái niệm về du lịch. Đầu tiên, du lịch được hiểu là việc đi lại của từng cá nhân hoặc một nhóm người rời khỏi chỗ ở của mình trong khoảng thời gian ngắn đến các vùng xung quanh để nghỉ ngơi, giải trí hay chữa bệnh. Năm 1985, I.I.Pirogionic đưa ra khái niệm: “Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong thời gian rỗi liên quan với sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức – văn hoá hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hoá”. Tổ chức du lịch thế giới WTO (World Tourism Organization) định nghĩa: “Du lịch theo nghĩa hành động được định nghĩa là một hoạt động di chuyển vì mục đích giải trí, tiêu khiển và tổ chức các dịch vụ xung quanh hoạt động này. Người đi du lịch là người đi ra khỏi nơi mình cư trú một quãng đường tối thiểu là 80km trong khoảng thời gian hơn 24 giờ với mục đích giải trí tiêu khiển”. Ở Việt Nam, theo luật du lịch ban hành từ tháng 6 thăm 2005 và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2006: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong khoảng thời gian nhất định”. Như vậy, qua các khái niệm nêu trên chúng ta thấy được rằng có rất nhiều cách hiểu khác nhau về du lịch, song ta cũng có thể thấy rằng đa số các ý kiến đều cho rằng du lịch là loại hình có liên quan đến việc di chuyển và lưu lại tạm thời ở ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm mục đích tham quan, nghĩ dưỡng… 1.1.2. Du lịch sinh thái “Du lịch sinh thái” (Ecotourism) là một khái niệm tương đối mới và đã mau chóng thu hút được sự quan tâm của nhiều người từ những lĩnh vực khác nhau. Đây là một khái niệm rộng được hiểu khác nhau từ những góc độ khác nhau. Đối với một số người “Du lịch sinh thái” đơn giản được hiểu là sự kết hợp ý nghĩa của 2 từ ghép “Du lịch” và “Sinh thái” vốn đã quen thuộc với nhiều người. Song đứng ở góc nhìn rộng hơn, tổng quát hơn thì một số người quan niệm “Du lịch sinh thái” là du lịch thiên nhiên mà trong thực tế đã xuất hiện từ đầu những năm 1800 (Ashton, 1993). Với khái niệm này mọi hoạt động du lịch có liên quan đến thiên nhiên như tắm biển, nghỉ núi... đều được hiểu là “Du lịch sinh thái”. Có thể nói cho đến nay khái niệm về “Du lịch sinh thái” vẫn còn được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau, với những tên gọi khác nhau. Tuy nhiên, mặc dù những tranh luận vẫn còn tiếp tục nhằm đưa ra một định nghĩa chung được chấp nhận về “Du lịch sinh thái”, đa số ý kiến tại các diễn đàn quốc tế chính thức về “Du lịch sinh thái” đều cho rằng “Du lịch sinh thái” là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên, hỗ trợ cho các hoạt động bảo tồn và được quản lý bền vững về mặt sinh thái. Du khách sẽ được hướng dẫn tham quan với những diễn giải cần thiết về môi trường để nâng cao hiểu biết, cảm nhận được những giá trị thiên nhiên và văn hoá mà không gây ra những tác động không thể chấp nhận đối với các hệ sinh thái và văn hoá bản địa. “Du lịch sinh thái” là loại hình du lịch tham quan, thám hiểm, đưa du khách tới những môi trường còn tương đối nguyên vẹn, về các vùng thiên nhiên hoang dã, đặc sắc để tìm hiểu, nghiên cứu các hệ sinh thái và các nền văn hoá bản địa độc đáo, làm thức dậy ở du khách tình yêu và trách nhiệm bảo tồn phát triển đối với tự nhiên và cộng đồng địa phương. Là hình thức du lịch có trách nhiệm không làm ảnh hưởng đến các khu bảo tồn thiên nhiên, không ảnh hưởng đến môi trường và góp phần duy trì, phát triển cuộc sống của cộng đồng người dân địa phương. Khái quát lại có thể coi “Du lịch sinh thái” là loại hình du lịch có những đặc tính cơ bản sau: - Phát triển dựa vào những giá trị (hấp dẫn) thiên nhiên và văn hoá bản địa. - Được quản lý bền vững về môi trường sinh thái. - Có giáo dục và diễn giải về môi trường. - Có đóng góp cho những nỗ lực bảo tồn và phát triển cộng đồng. Định nghĩa tương đối hoàn chỉnh về “Du lịch sinh thái” lần đầu tiên được Hector CeballosLascurain đưa ra năm 1987: “Du lịch sinh thái là du lịch đến những khu vực tự nhiên còn ít bị thay đổi với những mục đích đặc biệt : nghiên cứu, tham quan với ý thức trân trọng thế giới hoang dã và những giá trị văn hoá được khám phá” Cùng với thời gian, định nghĩa về “Du lịch sinh thái” được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đưa ra, điển hình là: “Du lịch sinh thái là du lịch đến các khu vực còn tương đối hoang sơ với mục đích tìm hiểu về lịch sử môi trường tự nhiên và văn hoá mà không làm thay đổi sự toàn vẹn của các hệ sinh thái. Đồng thời tạo những cơ hội về kinh tế để ủng hộ việc bảo tồn tự nhiên và mang lại lợi ích về tài chính cho người dân địa phương.” (Wood, 1991) Du lịch sinh thái được phân biệt với các loại hình du lịch thiên nhiên khác về mức độ giáo dục cao về môi trường và sinh thái thông qua những hướng dẫn viên có nghiệp vụ lành nghề. Du lịch sinh thái tạo được mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên hoang dã cùng với ý thức đưọc giáo dục để biến chính khách du lịch thành những người đi đầu trong công tác bảo vệ môi trường. Phát triển “Du lịch sinh thái” sẽ làm giảm thiểu tác động của khách du lịch đến văn hoá và môi trường, đảm bảo cho địa phương được hưởng nguồn lợi tài chính do du lịch mang lại và chú trọng đến những đóng góp tài chính cho việc bảo tồn thiên nhiên” (Allen, 1993) Định nghĩa của Hiệp hội Du lịch Sinh thái Quốc tế: “Du lịch sinh thái là việc đi lại có trách nhiệm tới các khu vực thiên nhiên mà bảo tồn được môi trường và cải thiện phúc lợi cho người dân địa phương “. Như vậy, từ định nghĩa đầu tiên được đưa ra năm 1987 cho đến nay, nội dung của định nghĩa về “Du lịch sinh thái” đã có sự thay đổi: từ chỗ đơn thuần coi hoạt động “Du lịch sinh thái” là loại hình du lịch ít tác động đến môi trường tự nhiên sang cách nhìn tích cực hơn theo đó “Du lịch sinh thái” là loại hình du lịch có trách nhiệm với môi trường, có tính giáo dục và diễn giải cao về tự nhiên, có đóng góp cho hoạt động bảo tồn và đem lại lợi ích cho cộng đồng địa phương. Ở Việt Nam, “Du lịch sinh thái” là lĩnh vực mới được đặt ra nghiên cứu từ giữa thập kỷ 90 song đã thu hút được sự quan tâm đặc biệt của các nhà nghiên cứu về du lịch và môi trường. Do trình độ nhận thức khác nhau, ở những góc độ nhìn nhận khác nhau, khái niệm về “Du lịch sinh thái” cũng còn nhiều điểm chưa thống nhất. Định nghĩa về “Du lịch sinh thái” ở Việt Nam: “Du lịch sinh thái là một loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hóa bản địa gắn với giáo dục môi trường, có đóng góp cho nổ lực bảo tồn và phát triển bền vững với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương”. Như vậy, qua các khái niệm nêu trên chúng ta thấy được rằng có rất nhiều cách hiểu khác nhau về du lịch sinh thái, song ta cũng có thể thấy rằng đa số các ý kiến của các chuyên gia đều cho rằng Du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên, hỗ trợ cho các hoạt động bảo tồn và được nuôi dưỡng, quản lý theo hướng bền vững về mặt sinh thái. 1.1.3. Du lịch bền vững Du lịch bền vững là việc đáp ứng nhu cầu hiện tại của du khách và vùng du lịch mà vẫn đảm bảo khả năng đáp ứng nhu cầu cho các thế hệ du lịch tương lai. Du lịch bền vững đòi hỏi quản lý tất cả các dạng tài nguyên để có thể đáp ứng: - Nhu cầu kinh tế - xã hội. - Duy trì bản sắc văn hoá của các dân tộc trên lãnh thổ. - Đảm bảo sự sống, đa dạng sinh học. 1.1.4. Phát triển bền vững Phát triển là một quy luật tất yếu của nhân loại. Do dân số gia tăng ngày một nhanh, nên để đáp ứng được những nhu cầu của cuộc sống thì sự gia tăng các nhu cầu về sử dụng môi trường, hệ sinh thái một tăng hơn. Để đáp ứng được thì việc khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên nhằm phục vụ cho các nhu cầu đó là không thể tránh khỏi. Chính vì lẽ đó dẫn đến việc tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt, hệ sinh thái bị phá hủy, môi trường xuống cấp. Khái niệm “Phát triển bền vững” được ra đời vào năm 1987 trong báo cáo “Tương lai của chúng ta” do Ủy ban môi trường và phát triển của ngân hàng thế giới. Trong khái niệm có nêu: Phát triển bền vững là làm thỏa mãn các nhu cầu hiện tại và không làm tổn hại đến sự thỏa mãn nhu cầu trong tương lai, đảm bảo sử dụng đúng mức và ổn định. Phát triển bền vững không chỉ là phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội mà còn đảm bảo những điều kiện môi trường cho con người đang tồn tại và cho thế hệ mai sau. Phát triển bền vững nhằm mục đích đảm bảo cho cuộc sống tốt hơn của con người trong hiện tại và cho các thế hệ mai sau. Do đó, nó đồng thời phải đạt được 4 mục tiêu sau: - Tiến bộ xã hội đáp ứng nhu cầu của mọi người. - Bảo vệ môi trường hiệu quả. - Sử dụng các nguồn tài nguyên thận trọng, hợp lý. - Duy trì tốc độ phát triển kinh tế cao và bền vững. Phát triển bền vững không phải là sự hài hoà một cách cố định mà là một quá trình thay đổi, trong đó con người đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Khái niệm bao gồm tất cả những vấn đề thách thức mọi quá trình phát triển nhằm giải quyết những vấn đề phức tạp mà loài người phải đối mặt. Đòi hỏi chúng ta phải: - Duy trì nền tảng mọi nguồn tài nguyên, tránh sự thay đổi sinh quyển. - Thực hiện khuôn khổ dân chủ, đảm bảo công bằng cho tất cả mọi người trên trái đất. - Đảm bảo rằng chúng ta có thể xây dựng cuộc sống tốt đẹp cho con cháu và đời sau nữa, và không chỉ riêng con người mà cho tất cả các loài sinh vật khác. 1.1.5. Phát triển bền vững du lịch Ngay từ thập kỷ 1980, nhận thức được nguy cơ suy thoái môi trường, mất cân bằng xã hội trong quá trình phát triển kinh tế, Hội nghị của ủy ban thế giới về phát triển và môi trường (WCED) đã đưa ra khái niệm về “phát triển bền vững”. Khái niệm này mới chỉ xem xét phát triển bền vững từ góc độ kinh tế nên tại Hội nghị thượng đỉnh về Trái đất tại Rio, chương trình nghị sự 21 đã bổ sung khái niệm phát triển bền vững. Theo đó, phát triển bền vững được hình thành trong sự hòa nhập, xen cài và thỏa hiệp của 3 hệ thống tương tác là hệ tự nhiên, hệ kinh tế và hệ văn hóa – xã hội. Dựa trên những nguyên tắc phát triển bền vững, Hội đồng Lữ hành Du lịch thế giới (WTTC), Tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO) và Hội đồng Trái đất (Earth Council) xây dựng Chương trình Nghị sự 21 với 10 nguyên tắc hướng tới “phát triển bền vững du lịch”. Khái niệm phát triển bền vững du lịch trong du lịch được hiểu là “Hoạt động khai thác có quản lý các giá trị tự nhiên và nhân văn nhằm thỏa mãn các nhu cầu đa dạng của khách du lịch, có quan tâm tới các lợi ích kinh tế trong dài hạn trong khi vẫn đảm bảo sự đóng góp cho bảo tồn các nguồn tài nguyên du lịch, duy trì được sự toàn vẹn về văn hóa để phát triển du lịch trong tương lai; cho công tác bảo vệ môi trường và góp phần nâng cao mức sống của cộng đồng dân cư địa phương”. 1.2. Các nguyên tắc đảm bảo phát triển bền vững du lịch 1.2.1. Khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên một cách hợp lí Phát triển bền vững chủ trương ủng hộ việc lưu lại cho các thế hệ tương lai một nguồn tài nguyên thiên nhiên không kém hơn so với cái mà các thế hệ trước được hưởng. Có nghĩa là ngăn ngừa trước những thay đổi không thể tránh được đối với những tài sản môi trường không có khả năng thay thế, tính vào chi phí hoạt động kinh tế các dịch vụ được môi trường thiên nhiên cung cấp, những dịch vụ này không phải là “hàng hoá cho không”. Các nguyên tắc như vậy cũng được áp dụng đối với các tài nguyên nhân văn. Cần trân trọng các nền văn hoá địa phương, truyền thống dân tộc, kế sinh nhai và đất đai mà người ta dựa vào để sống. Việc sử dụng bền vững, bảo tồn và bảo vệ các nguồn lực này đang ngày càng được nhìn nhận như là vấn đề sống còn đối với việc quản lí hợp lí mang tính toàn cầu và nó cũng khiến cho kinh doanh phát triển lâu dài. 1.2.2. Hạn chế sử dụng quá mức tài nguyên và giảm thiểu chất thải Sự tiêu thụ quá mức các nguồn tài nguyên sẽ dẫn đến sự huỷ hoại môi trường trên toàn cầu của chúng ta và đi ngược lại với sự phát triển bền vững lâu dài cuả du lịch. Kiểu tiêu thụ này là một đặc trưng của các nước có nền công nghiệp phát triển nhưng lại lan rộng rất nhanh trên toàn cầu như là phong cách sống phương Tây. Các dự án du lịch được triển khai mà không có đánh giá tác động môi trường hoặc không thực thi những kiến nghị về đánh giá tác động của môi trường đã dẫn đến sự tiêu dùng tài nguyên môi trường và các tài nguyên khác một cách lãng phí và không cần thiết. Chính điều này gây ra sự ô nhiễm và xáo trộn về văn hoá và xã hội. Khai thác, sử dụng quá mức tài nguyên và không kiểm soát lượng chất thải từ du lịch góp phần dẫn đến suy thoái môi trường mà hậu quả của nó là sự phát triển không bền vững của du lịch nói riêng và kinh tế xã hội nói chung. Việc giảm tiêu thụ quá mức và giảm chất thải sẽ tránh được những chi phí tốn kém cho việc phục hồi tổn hại về môi trường và đóng góp cho chất lượng của du lịch. 1.2.3. Phát triển du lịch phải gắn với bảo tồn tính đa dạng Tính đa dạng về thiên nhiên, văn hoá và xã hội là thế mạnh của mỗi quốc gia nhằm thoả mãn nhu cầu đa dạng của du khách cũng như sản phẩm của du lịch. Đa dạng cũng là sự sống còn để tránh việc quá phụ thuộc vào một hay một vài nguồn hỗ trợ sinh tồn. Phát triển bền vững chủ trương ủng hộ việc để lại cho thế hệ mai sau sự đa dạng cả về thiên nhiên và nhân văn không ít hơn những gì thế hệ trước được thừa hưởng. Chiến lược bảo tồn thế giới nhấn mạnh sự cần thiết bảo tồn đa dạng nguồn gen. Từ đó, mục đích đã được mở rộng, trong đó có sự đa dạng cơ cấu chính trị, kinh tế - xã hội và các nền văn hoá. Việc duy trì và phát triển tính đa dạng của thiên nhiên, văn hoá và xã hội là rất quan trọng đối với du lịch bền vững, là chỗ dựa sinh tồn của ngành công nghiệp du lịch. 1.2.4. Phát triển phải phù hợp với quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp có tính liên ngành, liên vùng cao, vì vậy mọi phương án khai thác tài nguyên để phát triển phải phù hợp với các quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội. Du lịch được lập kế hoạch đúng đắn sẽ tăng cường giá trị về tài sản môi trường, bảo vệ các loài quý hiếm và mang lại sự cải thiện đối với cộng đồng địa phương. Những nơi mà du lịch không phối hợp với các ngành khai thác thông qua quy hoạch có chiến lược thì du lịch sẽ bung ra một cách nhanh chóng và khó kiểm soát được nền kinh tế địa phương mỏng manh. Hợp nhất phát triển du lịch vào trong khuôn khổ hoạch định chiến lược cấp quốc gia và địa phương, tiến hành đánh giá tác động môi trường làm tăng khả năng tồn tại lâu dài của ngành du lịch. 1.2.5. Chia sẻ lợi ích đối với cộng đồng địa phương Để phát triển kinh tế - xã hội nói chung và từng ngành kinh tế nói riêng, việc khai thác các tài nguyên là tất yếu. Tuy nhiên, thực tế cho thấy trên một địa bàn lãnh thổ nếu mỗi ngành chỉ biết đến lợi ích của mình mà không có sự hỗ trợ đối với sự phát triển kinh tế và chia sẻ quyền lợi đối với cộng đồng địa phương thì sẽ làm cho kinh tế và cuộc sống của người dân địa phương gặp nhiều khó khăn. Điều này buộc cộng đồng địa phương phải khai thác tối đa các tài nguyên của mình, làm đẩy nhanh quá trình cạn kiệt tài nguyên và tổn hại đến môi trường sinh thái. Kết quả là những tác động tiêu cực đến sự phát triển bền vững của ngành du lịch nói chung và kinh tế - xã hội nói riêng. Do đó, du lịch phải làm nền cho sự đa dạng hoá kinh tế bằng hoạt động trong nhiều lĩnh vực. Sự đầu tư có kế hoạch đúng đắn về hạ tầng cơ sở như đường xá, điện, nước, thông tin liên lạc có thể phục vụ cho sự phát triển không phải là phát triển du lịch nhưng vẫn củng cố và thúc đẩy công nghiệp du lịch. Du lịch cần lưu tâm đến các chức năng kinh tế có tính chất quan trọng và hợp nhất các giá trị môi trường trong các quyết định đầu tư. Ngành du lịch hỗ trợ được các hoạt động kinh tế địa phương và có tính đến các giá trị và chi phí về mặt môi trường thì mới bảo vệ được các nền kinh tế địa phương và tránh được sự tổn thất về môi trường. 1.2.6. Khuyến khích tham gia của cộng đồng địa phương Sự tham gia của địa phương là cần thiết cho ngành du lịch: Người dân địa phương, nền văn hoá, môi trường, lối sống và truyền thống của họ là những nhân tố quan trọng thu hút khách du lịch đến một điểm du lịch. Nó đáp ứng nhu cầu của người dân bản địa, bảo vệ môi trường thiên nhiên và văn hoá của họ. Ngược lại, sự tham gia thực sự của cộng đồng có thể làm phong phú thêm loại hình và sản phẩm du lịch. Hơn thế nữa khi cộng đồng địa phương được tham gia chỉ đạo phát triển du lịch thì sẽ tạo ra được những điều kiện đặc biệt thuận lợi cho du lịch bởi cộng đồng sở tại là chủ nhân và là người có trách nhiệm chính với tài nguyên và môi trường khu vực. Điều này sẽ tạo ra khả năng phát triển lâu dài của du lịch, sự tham gia của cộng đồng địa phương vào hoạt động du lịch được thực hiện thông qua việc khuyến khích họ sử dụng các phương tiện, các cơ sở vật chất của mình để phục vụ khách du lịch như chuyên chở, thuyết minh hướng dẫn du khách, cho thuê nhà để ở, nấu ăn cho khách, sản xuất các hàng thủ công mỹ nghệ làm đồ lưu niệm. Khuyến khích cộng đồng địa phương cùng làm du lịch không chỉ qua những việc làm có thu nhập thấp, theo mùa và những việc phục vụ như bồi bàn, dọn phòng mà nên có cả những công việc ở mức cao hơn và những công việc quản lí có thu nhập cao thường do người nước ngoài làm thì cũng có thể được đảm đương bởi người địa phương mà kinh nghiệm và sự hiểu biết đặc biệt về địa phương mình của họ sẽ có phần góp phần không nhỏ cho du lịch. Việc tham gia của cộng đồng địa phương vào du lịch sẽ không chỉ mang lại lợi ích cho họ và môi trường mà còn nâng cao chất lượng du lịch. 1.2.7. Thường xuyên trao đổi, tham khảo ý kiến với cộng đồng địa phương và các đối tượng có liên quan Tham khảo ý kiến quần chúng là một quá trình nhằm dung hoà giữa phát triển kinh tế với những mối quan tâm lớn hơn của người dân địa phương và tác động tiềm ẩn của sự phát triển lên môi trường tự nhiên, xã hội và văn hoá. Ý kiến của người dân địa phương là cần thiết để đánh giá một dự án phát triển, các biện pháp để giảm thiểu tác động tiêu cực và tối đa hoá sự đóng góp tích cực của quần chúng địa phương. Du lịch còn đem lại sự tiếp xúc trực tiếp giữa du khách với người dân bản địa có các tập quán văn hoá và tín ngưỡng khác họ. Do đó, du lịch bền vững cần tham khảo ý kiến và thông báo cho người dân địa phương về những thay đổi tiềm ẩn do sự thay đổi nhanh chóng của ngành du lịch. Tham khảo ý kiến trên diện rộng với các chính quyền địa phương cũng như người dân để khuyến khích sự tham gia đóng góp ý kiến, lồng ghép các lợi ích của cá nhân và quần chúng. 1.2.8. Chú trọng đào tạo, nâng cao nhận thức về tài nguyên môi trường Một lực lượng lao động được đào tạo và có kĩ năng thành thạo không những đem lại lợi ích về kinh tế cho ngành mà còn nâng cao chất lượng của sản phẩm du lịch. Việc đào tạo đúng mức và nhận thức của người học về tầm quan trọng và tính chất phức tạp của du lịch sẽ giúp cho việc nâng cao lòng tự hào nghề nghiệp và tăng cường sản phẩm của du lịch đối với cả du khách, chủ nhà và ngành du lịch. Việc đào tạo phải bao gồm cả giáo dục đa văn hoá nhằm tăng cường sự hiểu biết và cảm nhận khác nhau về văn hoá và làm cho nhân viên du lịch và học viên nắm được nhu cầu của cả “khách” và “chủ nhà”. Điều đó cũng giúp loại bỏ những thành kiến và tính bài ngoại. Lợi ích lâu dài cho mọi người đòi hỏi việc đào tạo và sử dụng nhân viên là người địa phương. Điều này được áp dụng đặc biệt đối với cán bộ tổ chức và hướng dẫn viên du lịch có kiến thức sâu rộng và mối quan tâm lớn trong vùng và việc tham gia của họ sẽ nâng cao chất lượng dịch vụ. Đào tạo nhân viên người địa phương không chỉ nên hạn chế trong những công việc đơn giản, có vị trí thấp và mức lương thấp. Việc đào tạo nhân viên trong đó có lồng ghép vấn đề du lịch bền vững vào thực tiễn công việc, cùng với việc tuyển dụng lao động địa phương vào mọi cấp sẽ làm tăng chất lượng du lịch. 1.2.9. Tăng cường quảng bá, tiếp thị du lịch một cách có trách nhiệm Tiếp thị và quảng cáo là những vũ khí lợi hại cho việc bán thành công bất cứ sản phẩm nào. Phát triển bền vững dựa trên sự tiếp thị đầy đủ và trung thực các thông tin về sản phẩm, bao gồm cả tác động của chúng đối với nhân viên và môi trường. Điều đó nhằm nâng cao chất lượng môi trường tự nhiên, nhân tạo và mức sống có tính đến giá thành của những giá trị môi trường. Nó xét đến nhu cầu của các thế hệ hiện tại và mai sau. Chiến lược tiếp thị đối với du lịch bền vững bao gồm việc xác định, đánh giá và luôn rà soát lại mặt cung của những tài nguyên thiên nhiên và nhân văn và những nguồn lực khác, cũng như khía cạnh cung – cầu. Do sự tăng trưởng của du lịch và sự hoán vị của các điểm tham quan mà tiếp thị du lịch đặc biệt có tính chất cạnh tranh. Nó mang tính chất độc nhất và người tiêu thụ mua sản phẩm một cách “mù” vì người ta không thể khảo sát điểm tham quan trước khi mua, do đó, người tiêu thụ đến với sản phẩm và tiêu thụ nó ngay tại nguồn, chứ không phải ngược lại. Tiếp thị và quảng cáo du lịch một cách đầy đủ và có trách nhiệm giúp nâng cao hiểu biết, sự cảm kích, lòng tôn trọng văn hoá và môi trường địa phương, và cũng làm tăng sự thoả mãn toàn diện của du khách. 1.2.10. Thường xuyên tiến hành công tác nghiên cứu Để ngành du lịch phát triển và tồn tại một cách bền vững, điều cốt yếu là cần có dự đoán vấn đề và nắm được trước chi phí giải quyết vấn đề. Tốc độ phát triển nhanh của du lịch tại những khu vực dễ bị tổn thương về mặt môi trường, kinh tế và xã hội, những môi trường này thường có ít số liệu do khó khăn trong việc thu thập, cho thấy rằng cần cấp bách nghiên cứu cơ bản hơn nữa để đảm bảo không chỉ cho hiệu quả kinh doanh mà còn cho sự phát triển bền vững trong mối quan hệ với cơ chế, chính sách, với việc bảo vệ tài nguyên, môi trường. Việc nghiên cứu toàn diện đòi hỏi sự phối hợp giữa ngành du lịch với các trường đại học, các viện nghiên cứu, chính phủ, các tổ chức phi chính phủ về tiềm năng, kĩ năng nghiên cứu và tổ chức cũng như thiện chí về chính trị, sự trung thực và cam kết về nghiệp vụ. Tiếp tục nghiên cứu và giám sát ngành du lịch thông qua việc sử dụng và phân tích có hiệu quả các số liệu là cần thiết để giúp cho việc giải quyết những vấn đề còn tồn đọng và mang đến lợi ích cho các điểm tham quan, cho cộng đồng địa phương, cho du lịch và cho du khách. Tóm lại những nguyên tắc cơ bản trên đây nếu được thực hiện đầy đủ sẽ đảm bảo chắc chắn cho sự phát triển bền vững của hoạt động du lịch, phát triển bền vững chính là chìa khoá cho sự thành công lâu dài của ngành du lịch. 1.3. Sơ lược tình hình phát triển du lịch sinh thái một số nước trên thế giới và Việt Nam 1.3.1. Một số nước trên thế giới 1.3.1.1. Ở Trung Quốc Trung Quốc trong cuối thập niên 1990 đã nỗi lên như một quốc gia có tốc độ tăng trưởng du lịch hàng đầu thế giới. Ngành du lịch Trung Quốc đã có bước phát triển nhảy vọt, những kết quả khả quan đạt được là nhờ ngành du lịch Trung Quốc đã có quá trình định hướng chiến lược phát triển trong 20 năm qua. Nếu nghiên cứu kỹ, có thể thấy ngành du lịch Trung Quốc đã chọn cho mình một hướng đi đúng. Đó là sự nâng cao chất lượng dịch vụ theo tiêu chuẩn quốc tế, thủ tục hành chính gọn nhẹ, giao thông thuận lợi, giá cả hợp lý, sản phẩm du lịch theo chuyên đề rất đa dạng. Đặc biệt trong thập kỷ gần đây Chính phủ Trung quốc đã chú trọng đến việc xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển du lịch bền vững, thông qua các hoạt động cụ thể như xây dựng các quy hoạch tổng thể về du lịch; quản lý phát triển du lịch bền vững bao gồm công tác chỉ đạo, điều phối và kiểm soát, nhằm gắn kết các nguồn lực dành cho xây dựng và thực hiện các chính sách du lịch quốc gia. Thúc đẩy và tạo điều kiện thu hút nhiều sự tham gia của khu vực tư nhân và sự hợp tác giữa khu vực nhà nước với các thành phần kinh tế khác. “Du lịch xanh” là một chủ đề chính của du lịch Trung Quốc, được ra đời từ năm 1999, từ đó, Chính phủ đã không ngừng quan tâm bảo vệ môi trường. Họ đã tổ chức các hội thảo về phát triển du lịch bền vững; về quản lý và phát triển du lịch sinh thái của từng địa phương; xây dựng và truyền bá những thuận lợi của tiện nghi du lịch…Kết quả của những hội thảo ấy là hướng Trung Quốc đi vào việc phát triển du lịch sinh thái và xem đây là một trong những cách tác động trực tiếp và tích cực đến việc phát triển bền vững. Vào thời điểm năm 2000, Trung Quốc đã bước vào kế hoạch 5 năm lần thứ 10. Chính phủ Trung Quốc đã tiếp tục xây dựng chiến lược phát triển du lịch bền vững, sử dụng công nghệ tạo ra những sản phẩm sạch và xanh, thu hồi chất phế thải, đồng thời Chính phủ đã xây dựng và quản lý sâu rộng hệ thống xanh của đất nước. Họ cố gắng hướng du lịch trở thành một bộ phận không thể thiếu và có mối quan hệ bền chặt với môi trường. Những định hướng và hoạch định kế hoạch thực hiện của Trung Quốc nêu trên là những kinh nghiệm quý báu cho chúng ta tham khảo. 1.3.1.2. Ở Thái Lan Đối với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, Thái Lan là một nơi thu hút khách du lịch nhiều nhất chỉ đứng sau Trung Quốc và Malaysia. Thành công mang lại ngoài những lợi thế về tài nguyên du lịch và môi trường hiện có, còn phải kể đến các chính sách, chiến lược phát triển bền vững của quốc gia mà Chính phủ Thái Lan đã áp dụng một cách linh hoạt và có hiệu quả. Trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội Thái Lan giai đoạn 1997-2003, quốc gia này đã tập trung vào hai hướng ưu tiên chính là bảo vệ, bảo tồn các nguồn tài nguyên và tài sản du lịch phục vụ phát triển bền vững lâu dài và để thế giới công nhận là một điểm du lịch nổi tiếng nhưng vẫn giữ được bản sắc riêng của nền văn hoá Thái Lan. Cơ quan Du lịch Quốc gia Thái Lan (TAT) hỗ trợ các cộng đồng bản địa trong việc duy trì sức hấp dẫn của các điểm tham quan du lịch. TAT đã xây dựng các quy hoạch tổng thể và hỗ trợ về kỹ thuật, trong một số trường hợp còn hỗ trợ về tài chính nhằm giúp các địa phương phát triển du lịch. Chính phủ Thái Lan đã có nhiều sáng kiến độc đáo và sáng tạo, triển khai những chương trình phát triển du lịch bền vững có chất lượng như “chương trình loại trừ tác động của xã hội”. TAT còn phối hợp với Cục Bảo tồn Rừng và các cơ quan liên quan ở địa phương triển khai 13 dự án giáo dục đào tạo và nâng cao nhận thức cho lãnh đạo và nhân dân địa phương về giá trị của các di sản thiên nhiên và văn hoá cũng như lối sống của họ. Cơ quan Du lịch quốc gia Thái Lan (TAT) đã khuyến cáo và đưa ra 8 biện pháp bảo vệ môi trường thiên nhiên của các khu du lịch gồm:  Hạn chế số lượng khách du lịch trên cơ sở sức chứa của khu du lịch  Có biện pháp quản lý sự ra vào các khu bảo tồn  Giảm lượng chất thải và nâng cao mức độ trong sạch  Huy động vốn đóng góp  Thành lập trung tâm điều phối  Quản lý chất lượng dịch vụ  Phân chia khu vực  Ký hiệu chỉ dẫn thông tin chi tiết rõ ràng tại các địa điểm Điển hình tại vườn quốc gia Khao Yai, là vườn quốc gia lớn nhất ở Thái Lan, nằm gần thủ đô Bangkok thu hút số lượng lớn du khách đến vì mục đích tham quan cảnh quan thiên nhiên, xem các loài động thực vật hoang dã, đi bộ, leo núi, cắm trại. Ban quản lý vườn quốc gia có nguồn thu từ lệ phí vào cửa và từ kinh doanh một số cơ sở lưu trú, hoặc thu các phí đặc biệt do cấp phép kinh doanh cho 4 nhà hàng trong địa phận của vườn. Hoạt động du lịch sinh thái, du lịch hướng về thiên nhiên ở Khao Yai đã đem lợi ích kinh tế mà vẫn duy trì bảo tồn được tài nguyên do lượng khách đến vẫn tăng lên nhưng chỉ được phép đến tham quan 10% diện tích khu vực. Tại Thái Lan các hoạt động đã được tiến hành nhằm giữ gìn vệ sinh môi trường, giữ gìn kiến trúc truyền thống và áp dụng tiêu chuẩn “lá xanh” để đánh giá việc bảo vệ môi trường sinh thái đối với các khách sạn. Đối với hoạt động phát triển du lịch sinh thái văn hoá tại Thái Lan, Chính phủ và các cơ quan hữu quan đã bắt đầu phát động một phong trào nhằm khôi phục lại giá trị nguyên bản của văn hoá và đất nước Thái Lan. Trung tâm của phong trào là phát triển du lịch sinh thái, gắn du lịch với bảo vệ môi trường, cảnh quan và các giá trị truyền thống của đất nước. Chính phủ Thái Lan kêu gọi các khu làng mạc ở vùng nông thôn hãy giữ nguyên vẻ đẹp nguyên sơ của mình, bảo vệ cây cối và giảm tiếng ồn, gìn giữ phong cách kiến trúc Thái Lan. Trong mối quan hệ của cộng đồng với sự nghiệp phát triển du lịch sinh thái. Thái Lan đã thông qua hiến pháp mới nhằm công nhận sự tham gia của người dân địa phương vào việc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và trực tiếp khuyến khích người dân địa phương tìm các phương thức để quản lý các nguồn lực của mình vì lợi ích phát triển của cộng đồng, điều này tạo cơ sở cho người dân địa phương tham gia vào sự phát triển du lịch để phát triển cộng đồng và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên. 1.3.1.3. Ở Philippines Philippines là quốc gia có đặc điểm lãnh thổ phân bố thành quần đảo rộng lớn, đia hình phong phú, đa dạng và bị chia cắt bởi nhiều núi non, là một quốc gia có lợi thế về cảnh quan biển đảo thơ mộng nên Philippines đã tận dụng được lợi thế này để phát triển các loại hình du lịch sinh thái biển. Vẫn còn nhiều vấn đề bất cập trong chiến lưọc phát triển du lịch cho từng vùng cụ thể của quốc gia này, nhưng những kinh nghiệm thành công của ngành du lịch Philippines cũng cần cho các nước có điều kiện phát triển tương đồng tham khảo. Về thành công, đó là Chính phủ chủ trương đẩy mạnh “phát triển du lịch bền vững trên quan điểm bảo vệ môi trường”. Ngoài ra Chính phủ Philippines còn quan tâm đầu tư xây dựng các khu bảo tồn thiên nhiên quanh những vùng núi cao, thêm vào đó là những nơi tập trung các loại thú hoang dã quý hiếm; các hải đảo đều được quy hoạch rõ ràng và được bao phủ bởi những thảm xanh của các vườn cây ăn trái . Bên cạnh đó để phục hồi các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc phục vụ cho hoạt động du lịch, Chính phủ còn tiến hành các chương trình phục hồi các di sản văn hoá và lịch sử nhằm thông qua việc phát triển hoạt động du lịch bền vững với các sản phẩm du lịch văn hoá bền vững đặc hữu. Điển hình là việc quy hoạch khu du lịch thị trấn Vigan, định hướng quy hoạch được xây dựng với mục tiêu tăng trưởng gắn bó mật thiết với việc phục hồi lại các di sản văn hoá và lịch sử. Bộ Du lịch Philippines đã ban hành một loạt các bộ luật mang nội dung bảo tồn các địa danh văn hoá lịch sử có giá trị cho phát triển du lịch, xác định rõ Vigan là điểm du lịch văn hoá quan trọng. Hoạt động du lịch ở đây không chỉ góp phần bảo tồn và phát triển các di sản văn hoá truyền thống của Vigan phục vụ cho mục đích phát triển bền vững, mà còn là một nhân tố quan trọng góp phần vào việc phục hồi và tái phát triển các ngành công nghiệp và ngành nghề thủ công truyền thống trong khu vực như sản xuất gốm sứ (Burnay), gạch Vigan cổ, dệt thủ công, nghề nhuộm vải… Ngoài ra, Chính phủ ban hành chính sách kêu gọi tư nhân hợp tác với chính phủ nhằm đảm trách các vấn đề về vệ sinh và quản lý môi trường. Song song với hoạt động này, việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường được tiến hành rộng rãi. Các khoá đào tạo dài hạn, ngắn hạn được tổ chức thường xuyên, tài liệu được in ấn gồm nhiều hình ảnh đẹp, minh hoạ rõ và có tính giáo dục cao, được phát miễn phí có tác dụng khơi dậy ý thức bảo vệ môi trường trong lòng mỗi người dân. Đây có thể nói là những nhân tố góp phần thúc đẩy ngành du lịch của Philippines tăng trưởng nhanh trong các năm qua. 1.3.1.4. Ở Úc (Australia) Để định hướng và quản lý hoạt động ngành du lịch, Chính phủ Úc chủ động đóng góp và sự nghiệp phát triển du lịch thông qua đầu tư vào các dự án phục vụ cho phát triển du lịch bền vững, thiết lập các mối liên kết và mạng lưới hoạt động mang tính chiến lược giữa các ngành và chính phủ, cung cấp thông tin, phát triển công tác đào tạo và giáo dục nhận thức trong ngành du lịch và các cơ quan khác thuộc Chính phủ. Đúc kết từ những dự án đã thực hiện, Chính phủ chỉ đạo tập trung vào các lĩnh vực :  Giám sát chặt chẽ và hạn chế tác động của khách du lịch đối với các nguồn tài nguyên du lịch đặc biệt trong các mùa cao điểm.  Tổ chức các khoá đào tạo cho cán bộ quản lý, điều hành hoạt động du lịch, cung cấp các tài liệu phục vụ công tác tự nghiên cứu…  Thiết lập hệ thống sử dụng các nguồn tài nguyên và xử lý chất thải hiệu quả, và huấn luyện đội ngũ làm công tác bảo dưỡng các thiết bị xử lý chất thải.  Cần có sự tham gia của cộng đồng bản địa vào quá trình phát triển du lịch. Ngoài ra, Chính phủ Úc còn quan tâm đặt ra các vấn đề cơ bản đối với phát triển du lịch bền vững có liên quan đến việc sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, các nội dung đề cập gồm :  Quy hoạch tổng hợp vùng lãnh thổ  Tổ chức quản lý tài nguyên thiên nhiên  Hạ tầng cơ sở  Giám sát tác động  Tiếp thị du lịch  Giáo dục nội dung hoạt động du lịch sinh thái  Quan tâm đến sự công bằng 1.3.1.5. Ở Indonesia Giống như Philippines, Indonesia là một quốc gia với quần đảo rộng lớn, rừng nhiệt đới có diện tích lớn nhất so với các nước Đông Nam Á, Indonesia có nhiền thiên đường biển đảo đẹp, nỗi tiếng trên thế giới. Chính phủ Indonesia đã sớm đề ra chiến lược du lịch định hướng thiên nhiên, bảo tồn và duy trì đa dạng sinh học, phát huy bản sắc văn hoá độc đáo của dân tộc hướng tới phát triển du lịch bền vững. Chính phủ Indonesia đã xây dựng thành công nhiều mô hình du lịch sinh thái, nỗi tiếng và thành công hơn cả phải kể đến mô hình phát triển du lịch bền vững Bali Năm 1990, dưới sự hỗ trợ của tổ chức UNDP, dự án quy hoạch tổng thể khu du lịch được xây dựng, và được Chính phủ thông qua. Dự án phát triển du lịch bền vững của Bali nhằm quản lý du lịch và quy hoạch phát triển toàn diện. Quy hoạch nhằm tạo ra sự phát triển cân bằng, đã tập trung định hướng thành 16 vùng hiện có, đồng thời bổ sung các vùng mới, vùng biển, đất liền. Ở 16 vùng được chia làm ba loại chính: vùng biển phía Nam Bali, các vùng biển khác, vùng đất liền. Ba loại vùng được phân biệt về cơ bản theo các đặc trưng: tài nguyên thiên nhiên, cường độ phát triển, các loại hoạt động, đặc điểm nguồn khách. Mỗi vùng đều có chính sách phát triển khác nhau dựa trên đặc trưng cơ bản. Dự án bao gồm ba đặc điểm và bảy tiêu chuẩn đánh giá sự phát triển bền vững gồm:  Ba đặc điểm : - Duy trì các nguồn tài nguyên sản xuất - Giữ vững bản chất văn hoá và sự cân bằng trong văn hoá - Phát triển là một quá trình tăng chất lượng cuộc sống  Bảy tiêu chuẩn đánh giá: - Hệ sinh thái - Hiệu quả - Công bằng - Bản sắc văn hoá - Cộng đồng - Cân bằng - Phát triển Dự án du lịch Bali hội đủ các cơ hội phát triển bền vững:  Nền văn hoá đặc sắc, giàu bản sắc, nhiều đền chùa, các điệu nhảy, âm nhạc, nghệ thuật truyền thống  Môi trường tự nhiên phong phú và đa dạng  Môi trường cuộc sống hấp dẫn, sống động  Các hoạt động thúc đẩy du lịch. Dự án cũng đứng trước những thách thức :  Phải hòa giải mâu thuẫn giữa ưu tiên quốc gia và ưu tiên địa phương.  Phải giải quyết cácvấn đề mất cân đối trong vùng thông qua đa dạng các loại hình, quy mô phát triển du lịch một cách thích hợp.  Phải tăng cường liên kết tích cực giữa du lịch và các thành phần kinh tế khác, quản lý sự cạnh tranh giữa các ngành trong việc sử dụng nguồn tài nguyên, đảm bảo thu lợi và phân phối đồng đều trong cộng đồng.  Phải đảm bảo chất lượng môi trường tự nhiên được duy trì, giải quyết các vấn đề xói mòn biển, cung cấp và chất lượng nguồn nước, cung cấp năng lượng và xử lý chất thải, sự thay đổi của đất, sự phá huỷ rừng.  Phải tính toán, theo dõi các quản lý các chuyển biến về văn hoá xã hội.  Phải nâng cấp cơ sở hạ tầng.  Phải cân bằng giữa nhu cầu của khách và dân địa phương. Các chính sách làm cơ sở cho phát triển du lịch:  Loại hình thu hút : văn hoá, tự nhiên và giải trí.  Sự phân bổ giữa đất liền và bờ biển.  Các đặc điểm của vùng: có ba loại tiềm năng du lịch khác nhau là điểm, tuyến, phạm vi rộng.  Thực trạng phát triển: phát triển nhanh, phát triển và kém phát triển. Chính phủ Indonesia đã thực hiện quy hoạch phát triển bền vững toàn vùng Bali rồi mới quy hoạch bền vững chi tiết ở địa phương và đảm bảo sự thống nhất từ vùng đến địa phương. Với nỗ lực của Chính phủ và sự hưởng ứng hỗ trợ của cộng đồng sở tại, dự án du lịch bền vững Bali được các chuyên gia du lịch quốc tế đánh giá là một trong những dự án du lịch bền vững tốt và thành công nhất trong khu vực. Bali hiện trở thành một trung tâm du lịch nhộn nhịp hàng đầu ở Đông Nam Á, hàng năm mang về cho Indonesia một lượng ngoại tệ đáng kể từ du lịch, đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế quốc gia. 1.3.2. Ở Việt Nam
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan