Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu phát triển bền vững du lịch huyện côn đảo (tỉnh bà rịa vũng tàu)...

Tài liệu Nghiên cứu phát triển bền vững du lịch huyện côn đảo (tỉnh bà rịa vũng tàu)

.PDF
91
412
90

Mô tả:

BOÄ GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC SÖ PHAÏM TP. HOÀ CHÍ MINH Leâ Thò Lôïi NGHIEÂN CÖÙU PHAÙT TRIEÅN BEÀN VÖÕNG DU LÒCH HUYEÄN COÂN ÑAÛO (TÆNH BAØ RÒA – VUÕNG TAØU) Chuyeân ngaønh: Ñòa Lyù Hoïc Maõ soá: 60 31 95 LUAÄN VAÊN THAÏC SÓ ÑÒA LYÙ HOÏC NGÖÔØI HÖÔÙNG DAÃN KHOA HOÏC: PGS.TS PHAÏM XUAÂN HAÄU Thaønh phoá Hoà Chí Minh – 2009 LỜI CÁM ƠN Sau hơn ba năm học tập, nghiên cứu khoa học tại phòng Khoa học – Công nghệ và Sau Đại Học trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, nay luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành Địa Lý học với đề tài: “NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG DU LỊCH HUYỆN CÔN ĐẢO (TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU) hoàn thành; tác giả xin trân trọng cám ơn: Các thầy cô giáo khoa Địa Lý trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã tận tình giảng dạy, trang bị cho em nhiều kiến thức về lý luận và phương pháp nghiên cứu khoa học trong suốt 3 năm học giúp em có đủ kiến thức và sự tự tin để nghiên cứu, hoàn thành luận văn. Thầy Phạm Xuân Hậu – Viện trưởng Viện Giáo dục thành phố Hồ Chí Minh đã hướng dẫn tận tình cho em từ khâu xác định đề tài, sửa chữa đề cương nghiên cứu đến cách thiết kế các bảng số liệu…Bên cạnh đó thầy có nhiều ý tưởng giúp em giải quyết được nhiều khúc mắc và phát hiện ra hướng phát triển luận văn của mình; thầy đã hiểu, thông cảm và chia sẻ với em rất nhiều giúp em vượt qua khó khăn để hoàn thành luận văn – em xin cám ơn thầy một lần nữa! Thạc sĩ Lê Xuân Aí – giám đốc Vườn quốc gia Côn Đảo đã cung cấp cho em rất nhiều kiến thức về Côn Đảo; tư vấn cho em các giải pháp quý báu về phát triển bền vững du lịch Côn Đảo. Các Thầy, cô và các anh chị phòng Sau đại học đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu. Ban giám hiệu trường Đại học Hồng Bàng, trường THPT Tân Bình, giới thiệu và tạo điều kiện thuận lợi để tôi được yên tâm học tập tốt. Sở Du lịch tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, phòng du lịch huyện Côn Đảo, phòng kinh tế và Vườn quốc gia Côn Đảo đã cung cấp cho tôi những tài liệu quý báu phục vụ luận văn. Gia đình, bạn bè đã động viên khích lệ tôi trong suốt khóa học và nghiên cứu. Do giới hạn về thời gian, tài liệu, trình độ, những khó khăn khách quan và chủ quan khác luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô và các bạn. Một lần nữa tôi xin chân thành cám ơn! Lê Thị Lợi DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DLBV : Du lịch bền vững GDP : Tổng thu nhập quốc dân PGS.TS : Phó giáo sư tiến sĩ IUCN : Qũy bảo tồn thiên nhiên UNWTO : Tổ chức Du lịch thế giới WTTC : Hiệp hội lữ hành quốc tế WCED : Ủy ban Môi trường và Phát triển thế giới VNAT : Ủy ban Kinh tế Trung ương UBND : Ủy ban Nhân dân MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong những thập niên gần đây, du lịch - ngành công nghiệp không khói có tốc độ phát triển cực nhanh trên toàn thế giới. Nó trở thành nguồn thu hút ngoại tệ lớn của nhiều nước, đặc biệt là các nước đang phát triển. Ngày nay, du lịch trở thành nhu cầu thiết thực không thể thiếu trong cuộc sống của con người khi mà: cuộc sống vất chất của họ ngày càng được nâng cao; thời gian nhàn rỗi nhiều hơn do chính sách điều chỉnh về lao động của chính phủ các nước; xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đã tạo điều kiện cho việc vượt ranh giới các quốc gia dễ dàng hơn; đời sống đô thị đầy tiếng ồn, bụi bặm và sự căng thẳng trong công việc…đã làm xuất hiện nhu cầu được hưởng thụ, giải trí đồng thời nâng cao hiểu biết của mình về lịch sử, văn hoá của các dân tộc trên thế giới, sự kỳ bí của thiện nhiên… Vì thế, con người đến với du lịch ngày càng nhiều. Theo thống kê của tổ chức du lịch thế giới (UNWTO) và Hiệp hội lữ hành quốc tế (WTTC), năm 2000 thu nhập của ngành du lịch chiếm tới 10,7%GDP của toàn thế giới; năm 2006 là 11,5%. Tổ chức Du lịch thế giới nhận định rằng, số khách du lịch quốc tế năm 2005 là 720 triệu lượt người thì đến năm 2010 sẽ là 1100 triệu lượt người và năm 2020 sẽ là 1600 triệu lượt người. (nguồn: www.worldtourism.org). Ngành du lịch đại diện cho một trong năm lĩnh vực xuất khẩu lớn nhất cho 83% quốc gia và là nguồn ngoại tệ chính cho 38% quốc gia trên thế giới (Conservation International 2003). Ngành du lịch và lữ hành hỗ trợ 200 triệu công việc trên toàn thế giới. Đến 2010, dự kiến số công việc được hỗ trợ từ ngành này sẽ tăng lên 250 triệu (WTTC and WEFA, 2000). Cùng với sự phát triển của du lịch thế giới, ngành du lịch Việt Nam ngày càng được quan tâm và đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế đất nước: năm 2008, Việt Nam đã đón được 4,2 triệu lượt khách quốc tế và 20 triệu lượt khách nội địa, doanh thu đạt 60 tỉ đồng(Theo Báo cáo Tổng kết công tác 2008 của TCDL). Dự báo năm 2010, nước ta sẽ đón 5,5 - 6 triệu lượt du khách quốc tế và 25 -26 triệu lượt khách du lịch nội địa; thu nhập từ du lịch sẽ đạt 4 - 4,5 tỉ đô la Mĩ (nguồn: chiến lược phát triển du lịch Việt Nam 2001 - 2010, tạp chí du lịch Việt Nam, 8/2002). Tuy nhiên, hơn bất cứ hoạt động nào khác, ngành du lịch rất phụ thuộc vào chất lượng của môi trường, tài nguyên thiên nhiên cũng như tài nguyên nhân văn. Nhưng du lịch lại mang đặc tính phát triển nhanh, ngắn hạn và "bùng nổ" - đặc biệt ở các nước đang phát triển, làm tổn hại đến tài sản của chính mình: sự phá huỷ, xuống cấp nghiêm trọng tài nguyên du lịch; môi trường bị suy thoái và tác động tiêu cực đến các hoạt động kinh tế - xã hội khác. Vậy "Làm thế nào để ngành du lịch được phát triển bền vững?" là câu hỏi đã được đặt ra và thu hút sự quan tâm của những người làm du lịch của tất cả các nước trên thế giới. Bản thân là công dân của một nước có tiềm năng lớn về du lịch nhưng chưa được khai thác bao nhiêu; lại được học về Địa lý Du lịch, tôi hiểu vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đồng thời cùng trăn trở với những người làm du lịch trước câu hỏi "Làm thế nào để ngành Du lịch được phát triển bền vững?" bởi một số nơi có tiềm năng du lịch lớn ở nước ta khai thác chưa hiệu quả, mang nặng tính tự phát và có nguy cơ xuống cấp nghiêm trọng. Là người làm công tác giáo dục bộ môn Địa lý trong đó có Địa lý Du lịch , tôi tự hỏi có bao nhiêu người (kể cả những người trực tiếp tham gia hoạt động Du lịch) hiểu được "Thế nào là Du lịch bền vững?", "Các nguyên tắc phát triển bền vững Du lịch là gì?" và “Làm thế nào để phát triển bền vững Du lịch?”. Để củng cố lý thuyết về phát triển bền vững Du lịch trong một phạm vi không gian nhất định; đồng thời góp phần nhỏ trong việc nghiên cứu sự phát triển bền vững du lịch quê hương Côn Đảo - nơi được thế giới biết đến với cái tên "địa ngục trần gian", với hệ sinh thái tự nhiên rừng - biển đa dạng hầu như còn nguyên vẹn thuộc diện bảo tồn, chưa chịu tác động của các ngành kinh tế khác và là nơi đáp ứng được xu thế du lịch hiện đại của thế giới: Du lịch Sinh thái, tôi chọn:"NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG DU LỊCH Ở HUYỆN CÔN ĐẢO (TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU)"làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành Địa lý học của mình. Luận văn được hoàn thành với sự hướng dẫn tận tình của PGS.TS Phạm Xuân Hậu - Viện trưởng Viện giáo dục thành phố Hồ Chí Minh, sự đóng góp ý kiến quý báu của thạc sĩ Lê Xuân Ái giám đốc Vườn quốc gia Côn Đảo và sự giúp đỡ nhiệt tình của phòng du lịch huyện Côn Đảo, phòng Du lịch Vườn quốc gia Côn Đảo. Tôi xin chân thành tri ân. Đây là công trình nghiên cứu khoa học về Du lịch bền vững dưới góc nhìn của người làm công tác giáo dục nên chắc chắn có nhiều thiếu sót, rất mong sự đóng góp ý kiến của quý vị. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ và ý nghĩa của đề tài 2.1. Mục tiêu: - Xác lập cơ sở khoa học nghiên cứu sự phát triển bền vững du lịch. - Thấy được tiềm năng và thực trạng hoạt động du lịch của huyện Côn Đảo. - Xây dựng định hướng và giải pháp phát triển bền vững du lịch Côn Đảo đáp ứng nhu cầu trong thời kỳ mới. 2.2. Nhiệm vụ: - Nghiên cứu những tài liệu có liên quan đến phát triển bền vững du lịch. - Phân tích, đánh giá sự tác động của các nhân tố tự nhiên, kinh tế - xã hội đến ngành Du lịch huyện Côn Đảo. - Điều tra thực trạng hoạt động Du lịch huyện Côn Đảo từ năm 1996 - 2007. - Đánh giá tính bền vững của ngành du lịch huyện Côn Đảo và lợi thế so sánh du lịch địa phương với các địa phương khác trong tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. - Dựa vào đặc điểm tài nguyên và các điều kiện liên quan, đưa ra các định hướng và giải pháp phát triển bền vững du lịch huyện Côn Đảo. 2.3. Ý nghĩa của đề tài: - Củng cố lý thuyết về phát triển bền vững du lịch. - Xây dựng cơ sở lý thuyết phát triển bền vững du lịch cho huyện Côn Đảo. - Hiểu đúng khái niệm “phát triển bền vững” để đưa ra định hướng và giải pháp hợp lý. 3. Lịch sử nghiên cứu: Cho tới nay, chưa có một báo cáo quy hoạch hay chiến lược nào để định hướng phát triển bền vững cho du lịch Côn Đảo. Năm 2004, Ủy ban Kinh tế Trung ương triển khai dự án “Phát triển Côn Đảo”, và VNAT cũng hoàn thành báo cáo “Định hướng Phát triển Du lịch Côn Đảo”. Những tài liệu này đánh giá sơ bộ về tiềm năng du lịch của Côn Đảo, đồng thời tổng kết về tình hình hoạt động du lịch của huyện. Những vấn đề được quan tâm bao gồm “huy động sức lực” để phát triển du lịch cùng với việc quan tâm tới nguồn tài nguyên đất và nước trên quần đảo. Những báo cáo này cũng đưa ra những giải pháp cho việc phát triển du lịch cũng như khẳng định quy hoạch du lịch đóng vai trò then chốt 4. Giới hạn nghiên cứu của đề tài: - Nội dung nghiên cứu:  Cơ sở lý luận về phát triển bền vững du lịch  Nghiên cứu tiềm năng và thực trạng hoạt động du lịch của huyện Côn Đảo.  Định hướng và giải pháp phát triển bền vững du lịch huyện Côn Đảo. - Thời gian: từ năm 1996 đến năm 2007 - Không gian: toàn huyện Côn Đảo. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận: 5.1.1. Quan điểm và chính sách sách phát triển du lịch của Đảng và Nhà nước: Nghị quyết Đại hội Trung ương Đảng lần thứ IX và X đều khẳng định phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Mục tiêu phấn đấu của nhà nước là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Đồng thời Nhà nước cũng có những chính sách phát triển du lịch thể hiện trong điều 6, chương I - Luật Du Lịch Việt Nam (năm 2005) như sau: - Nhà nước có cơ chế, chính sách huy động mọi năng lực, tăng đầu tư phát triển du lịch để đảm bảo du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. - Nhà nước có chính sách khuyến khích, ưu đãi về đất đai, tài chính, tính dụng đối với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư vào các lĩnh vực sau:  Bảo vệ, tôn tạo tài nguyên du lịch và môi trường du lịch.  Tuyên truyền, quảng bá du lịch.  Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.  Nghiên cứu, đầu tư xây dựng các sản phẩm du lịch.  Hiện đại hoá các hoạt động du lịch.  Xây dựng kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch; nhập khẩu phương tiện cung cấp phục vụ cho việc vận chuyển khách du lịch, trang thiết bị chuyên dùng hiện đại cho cơ sở lưu trú du lịch hạng cao và du lịch quốc gia.  Phát triển du lịch tại nơi có tiềm năng du lịch ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn nhằm sử dụng lao động, hàng hoá và dịch vụ tại chỗ, góp phần nâng cao dân trí, xoá đói giảm nghèo. - Nhà nước bố trí ngân sách cho công tác quy hoạch; hỗ trợ dân trí, xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị du lịch, khu du lịch, điểm du lịch; hỗ trợ công tác tuyên truyền, quảng bá du lịch, bảo vệ tôn tạo tài nguyên và môi trường du lịch, nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch. - Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào Việt Nam đi du lịch trong nước và nước ngoài; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của khách du lịch. 5.1.2. Quan điểm hệ thống lãnh thổ: Phát triển du lịch ở bất kỳ cấp vùng hoặc trung tâm nào cũng phải là một phần cấu thành không thể tách rời trong hệ thống du lịch chung của cả nước. Các hệ thống lãnh thổ du lịch thường tồn tại và phát triển trong mối quan hệ qua lại nội tại của từng phân hệ, giữa các phân hệ du lịch trong một hệ thống với nhau và các môi trường xung quanh, giữa các hệ thống lãnh thổ du lịch cùng cấp và khác cấp, giữa hệ thống lãnh tổ du lịch và hệ thống kinh tế - xã hội. Quan điểm hệ thống còn đặc biệt có ý nghĩa trong quá trình nghiên cứu các hệ sinh thái đặc thù với sự phân hoá theo lãnh thổ từ cấp quốc gia đến cấp vùng và điểm. Mặc khác, các đối tượng nghiên cứu của sinh thái cần được xác định trên một lãnh thổ để phân tích, nghiên cứu tìm ra những sự khác biệt và mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. 5.1.3. Quan điểm phát triển du lịch bền vững: Phát triển bền vững đã trở thành mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của toàn nhân loại trong thế kỷ XXI. Phát triển du lịch bền vững trở thành xu hướng và mục tiêu phát triển ngành kinh tế du lịch của nhiều quốc gia trên thế giới cũng như ở Việt Nam trong hiện tại và tương lai. Vì vậy quan điểm phát triển này cần được soi sáng, vận dụng trong việc tổ chức quản lý, triển khai đánh giá các hoạt động du lịch trong nghiên cứu phát triển du lịch. 5.1.4. Quan điểm tổng hợp: Quan điểm tổng hợp là quan điểm truyền thống của địa lý học nói riêng và nghiên cứu tự nhiên nói chung được xét dưới hai góc độ khác nhau: - Nghiên cứu đồng bộ toàn diện về các điều kiện tự nhiên, tài nguyên du lịch đứng từ góc độ tự nhiên và nhân văn, các yếu tố kinh tế, sự phân bố, quy luật phân bố và biến động của chúng, những mối quan hệ tương tác chế ngự lẫn nhau giữa các yếu tố hợp phần của các tổng thể địa lý. - Sự kết hợp, phối hợp có quy luật, có hệ thống trên cơ sở phân tích đồng bộ và toàn diện các yếu tố hợp phần của các thể tổng hợp lãnh thổ du lịch, phát hiện và xác định những đặc điểm đặc thù của các thể tổng hợp lãnh thổ địa lý. 5.1.5. Quan điểm môi trường – sinh thái: Du lịch hiện nay đã thật sự trở thành một ngành kinh tế, mà hoạt động kinh tế rõ ràng phải tính đến lợi ích và chi phí. Những lợi ích thu về trong hoạt động du lịch không chỉ có ý nghĩa kinh tế và văn hoá mà còn phải tính đến lợi ích về môi trường. Do đó phải tính đến những thiệt hại về môi trường, các hệ sinh thái ở các điểm - tuyến du lịch do tác động của hoạt động du lịch. Điều này có ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển bền vững du lịch bởi sự tồn tại của loại hình du lịch này phụ thuộc hoàn toàn vào tình trạng của các hệ sinh thái và môi trường. 5.1.6. Quan điểm viễn cảnh - lịch sử: quan điểm này thể hiện ở chỗ: - Chú ý tới khía cạnh địa lý, lịch sử khi xác định tổ chức không gian du lịch trên phạm vi khu vực và cả nước nói chung. - Phân tích quá trình hình thành và phát triển điểm - tuyến du lịch trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể. 5.2. Các phương pháp nghiên cứu: 5.2.1. Phương pháp phân tích tổng hợp và phân tích hệ thống: Đây là phương pháp cơ bản được sử dụng phổ biến trong hầu hết các công trình nghiên cứu khoa học. Phương pháp này được sử dụng đặc biệt có hiệu quả trong nghiên cứu tự nhiên và tổ chức khai thác lãnh thổ du lịch. Phát triển bền vững có liên quan chặt chẽ tới các điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội; vì vậy, trong nghiên cứu đây là phương pháp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. 5.2.2. Phương pháp điều tra thực địa và phỏng vấn: Công tác thực địa có mục đích cơ bản là kiểm tra chỉnh lý và bổ sung những tư liệu về tài nguyên, cơ sở hạ tầng phục vụ trực tiếp cho hoạt động du lịch và các tài liệu liên quan khác; đối chiếu và lên danh mục cụ thể từng địa danh, thể loại liên quan du lịch và sơ bộ đánh giá các yếu tố cần thiết cho việc hình thành tổ chức không gian du lịch. 5.2.3. Phương pháp thống kê du lịch: Đây là phương pháp không thể thiếu trong quá trính nghiên cứu mặt lượng trong mối quan hệ chặt chẽ với mặt chất của các hiện tượng và qúa trình , đối chiếu biến động, phát triển trong hoạt động du lịch. Phương pháp này áp dụng để thống kê các hệ sinh thái đặc thù, các tài nguyên du lịch quan trọng và phụ trợ, thống kê hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch; thống kê đánh giá lượng khách; đánh giá tỷ lệ doanh thu; tỷ trọng và mức tăng trưởng du lịch nói chung để đưa ra bức tranh chung về hiện trạng. 5.2.4. Phương pháp bản đồ, biểu đồ: Phương pháp này cho phép thu thập những nguồn thông tin mới phát hiện phân bố trong không gian của các đối tượng nghiên cứu. Bản đồ còn là phương tiện để cụ thể hoá, biểu đạt kết quả nghiên cứu về cấu trúc, đặc điểm và phân bố không gian của các đối tượng du lịch. Đây là phương pháp cần thiết trong quá trình nghiên cứu bất kỳ tổ chức không gian lãnh thổ du lịch nào, đặc biệt là khi nghiên cơ sở khoa học cho sự phát triển bền vững du lịch nói chung và tổ chức không gian hoạt động du lịch nói riêng. Bản đồ được sử dụng chủ yếu theo hướng chuyên ngành với việc thể hiện sự phân bố lãnh thổ của các khu bảo tồn thiên nhiên, các hệ sinh thái đặc thù, hệ thống cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật. Phương bản đồ sẽ đặc biệt có hiệu quả khi sử dụng công nghệ GIS (Geographic Information System - hệ thông tin địa lý) để phân tích đánh giá tiềm năng du lịch căn cứ vào mức độ quan trọng và phân hoá lãnh thổ của các tài nguyên và điều kiện có liên quan cũng như để phân tích phát hiện các mối quan hệ trong tổ chức không gian du lịch. 5.2.5. Phương pháp xã hội học: Phương pháp này nhằm khảo sát đặc điểm xã hội của các đối tượng du lịch. Phương pháp này dùng để lấy ý kiến của cộng đồng, du khách, các chuyên gia. Trong du lịch bền vững dùng để điều tra về sức hấp dẫn của các điểm du lịch, tài nguyên du lịch, chất lượng dịch vụ, chất lượng nguồn nhân lực…; điều tra thái độ nhận thức của dân cư đối với các vấn đề bảo vệ tài nguyên môi trường du lịch, mức sống của họ… Phương pháp điều tra xã hội học bao gồm các bước: xác định các vấn đề cần điều tra, thiết kế bảng hỏi, lựa chọn khu vực và đối tượng để điều tra, thời gian tiến hành điều tra, xử lý các kết quả điều tra. 5.2.6. Phương pháp dự báo và phương pháp chuyên gia: Đề tài nghiên cứu có nhiệm vụ rất quan trọng là xác lập cơ sở khoa học để tổ chức phát triển bền vững du lịch của huyện Côn Đảo. Vì vậy phương pháp dự báo có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nghiên cứu, tổ chức hướng khai thác xây dựng các điểm, tuyến du lịch; sử dụng tài nguyên du lịch một cách hiệu quả. Các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp, gián tiếp ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững du lịch là dự báo về nguồn khách, cơ cấu khách và thị trường khai thác khách; dự báo về khả năng đầu tư, tôn tạo, nâng cấp các điểm du lịch bổ trợ; dự báo về phát triển cơ sở hạ tầng, mức tăng trưởng và phát triển của ngành du lịch. Phương pháp chuyên gia nhằm thu thập những ý kiến đóng góp để đề tài mang tính khách quan, đảm bảo kết quả của đề tài có giá trị khoa học và thực tiễn cao, vì vậy phương pháp này cũng hết sức quan trọng trong quá trình nghiên cứu đề tài. Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG DU LỊCH 1.1. Một số khái niệm cơ bản: 1.1.1. Du lịch: Du lịch xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử loài người. Mỗi thời đại, quan niệm về Du lịch khác nhau, buổi ban đầu thường đi kèm với hoạt động truyền giáo, buôn bán hoặc thám hiểm các vùng đất mới. Việc cung ứng các dịch vụ cho du khách để thu lợi nhuận với mục tiêu ưu tiên hàng đầu là thương mại hoá các sản phẩm Du lịch. Từ đó xuất hiện hình thức Du lịch đầu tiên và tồn tại cho đến ngày nay tạm gọi là Du lịch thương mại hay Du lịch ồ ạt. Năm 1925, Hiệp hội Quốc tế các tổ chức Du lịch được thành lập tại Hà Lan, đánh dấu bước ngoặt trong việc thay đổi, phát triển các khái niệm về Du lịch. Đầu tiên, Du lịch được hiểu là việc đi lại của từng cá nhân họăc một nhóm người rời khỏi chỗ ở của mình trong khoảng thời gian ngắn đến các vùng xung quanh để nghỉ ngơi, giải trí hay chữa bệnh. Năm 1985, I.I.Pirogionic đưa ra khái niệm: Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong thời gian nhàn rỗi liên quan tới sự di chuyển và lưu trú tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức về văn hoá hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hoá. Tháng 6/2005, Tổng cục Du lịch Việt Nam ban hành luật Du lịch (có hiệu lực từ 1.1.2006) và đưa ra khái niệm: Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong khoảng thời gian nhất định. UNWTO thì cho rằng: Du lịch theo nghĩa hành động được định nghĩa là một hoạt động di chuyển vì mục đích giải trí, tiêu khiển và tổ chức các dịch vụ xung quanh hoạt động này. Người đi Du lịch là người đi ra khỏi nơi mình cư trú một quãng đường tối thiểu là 80 km trong khoảng thời gian 24 giờ với mục đích giải trí tiêu khiển . Còn nhiều khái niệm khác nữa về Du lịch, song tôi cho rằng khái niệm về Du lịch của Tổng cục Du lịch Việt Nam đầy đủ và ngắn gọn nhất. 1.1.2. Sự phát triển bền vững: Cụm từ "phát triển bền vững" có nguồn gốc từ thực tiễn quản lý rừng ở Đức vào thế kỷ XIX, nhưng mãi đến thập niên 80 của thế kỷ XX mới được phổ biến rộng rãi. Năm 1980, IUCN cho rằng: "phát triển bền vững phải cân nhắc đến việc khai thác các nguồn tài nguyên tái tạo và không tái tạo, đến các điều kiện thuận lợi cũng như khó khăn trong việc tổ chức các kế hoạch hành động ngắn hạn và dài hạn đan xen nhau”. Năm 1987, Uỷ ban Môi trường và phát triển thế giới WCED do bà Groharlem Brundtland thành lập đã công bố thuật ngữ "phát triển bền vững" trong báo cáo "tương lai của chúng ta" như sau: “phát triển bền vững được hiểu là sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của những thế hệ mai sau”. Theo hội nghị thượng đỉnh về Trái Đất năm 1992, được tổ chức Riodejaneiro thì: "phát triển bền vững được hình thành trong sự hoà nhập, xen cài và thoả hiệp giữa ba hệ thống là hệ tự nhiên, hệ kinh tế và hệ xã hội". Ngày nay, hầu như tất cả các quốc gia đều đề cập đến "phát triển bền vững" trong quá trình hoạch định chính sách và quản lý phát triển kinh tế với ý muốn nhấn mạnh phương thức và việc sử dụng có trách nhiệm các nguồn lực của sự phát triển. Đối với Việt Nam, "phát triển bền vững" đựơc thể hiện trong chỉ thị 36/CT của Bộ chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng ngày 25.6.1998: mục tiêu và các quan điểm cơ bản của phát triển bền vững chủ yếu dựa vào hoạt động bảo vệ môi trường, bảo vệ môi trường sinh thái, sử dụng hợp lý tài nguyên như một cấu thành không thể tách rời của phát triển bền vững. 1.1.3. Du lịch bền vững: Khái niệm du lịch bền vững (Sustainable tourism) được xuất hiện vào năm 1996, trên cơ sở cải tiến và nâng cấp khái niệm về du lịch mềm của những năm 90 và thật sự gây được sự chú ý rộng rãi. Mặc dù chưa đạt đến giai đoạn chín muồi, nhưng nó cũng thể hiện được điểm đặc trưng cơ bản của DLBV, đó là : DLBV không chỉ cổ vũ cho hoạt động du lịch ít gây tổn hại cho môi trường mà còn thu hút và đòi hỏi sự tham gia của tất cả các thành tố của ngành công nghiệp du lịch: các tổ hợp khách sạn toàn cầu, các tổ chức du lịch lữ hành, các khách sạn nhỏ bé biệt lập, với mục tiêu: sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; bảo vệ văn hoá và phúc lợi cộng đồng địa phương; tạo lập sự công bằng trong nội bộ và giữa các thế hệ. "Du lịch bền vững là việc di chuyển và tham quan đến các vùng tự nhiên một cách có trách nhiệm với môi trường để tận hưởng và đánh giá cao tự nhiên, các đặc điểm văn hoá kèm theo (có thể là cả trong quá khứ và hiện tại) theo cách khuyến cáo về bảo tồn, có tác động thấp từ du khách và mang lại những lợi ích cho sự tham gia chủ động về kinh tế - xã hội của cộng đồng địa phương" (World Conservation Union, 1996) Cũng trong thời gian này, Hội đồng Du lịch và lữ hành quốc tế (WTTC) khái niệm: "Du lịch bền vững là việc đáp ứng các nhu cầu hiện tại của du khách và vùng Du lịch mà vẫn đảm bảo những khả năng đáp ứng nhu cầu cho các thế hệ tương lai". Du lịch bền vững đòi hỏi phải quản lý tất cả các dạng tài nguyên theo cách nào đó để chúng ta có thể đáp ứng các nhu cầu kinh tế, xã hội và thẩm mỹ trong khi vẫn duy trì được bản sắc văn hoá, các quá trình sinh thái cơ bản, đa dạng sinh học và các hệ đảm bảo sự sống (Hens L.1998). Theo quan điểm của Tổng cục Du lịch Việt Nam, phát triển Du lịch phải được định hướng và quản lí theo phương châm: kết hợp hài hoà nhu cầu của hiện tại và tương lai trên cả hai góc độ sản xuất và tiêu dùng Du lịch; khai thác, sử dụng hợp lí và phát triển tài nguyên Du lịch tự nhiên; chú trọng bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị của tài nguyên du lịch nhân văn; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc; tránh hiện đại hoá hoặc làm biến dạng môi trường, cảnh quan di tích; xây dựng và giữ gìn môi trường xã hội lành mạnh; đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội đặc biệt là ở các đô thị du lịch và các điểm tham quan du lịch. Như vậy, du lịch bền vững không phải là trào lưu du lịch mà đó là cương lĩnh phát triển du lịch của thời đại. 1.1.4. Điểm du lịch: Các nhà nghiên cứu và lập pháp đã đưa điểm du lịch vào Pháp lệnh Du lịch được chủ tịch nước ký và công bố vào tháng 2.1999, theo đó "điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, có khả năng thu hút khách du lịch". Như vậy theo Pháp lệnh Du lịch, "điểm du lịch" là khái niệm tương đối mở, không hạn chế về quy mô lãnh thổ. Đồng thời với khái niệm trên, "điểm du lịch" có thể bao gồm:Điểm tài nguyên (tiềm năng), nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn và có khả năng thu hút khách song có thể chưa đưa vào khai thác; và điểm chức năng - nơi các tài nguyên du lịch đã được khai thác đưa vào phục vụ nhu cầu khách du lịch (tức là đã có sức thu hút khách du lịch). Tuy nhiên khái niệm trên vẫn để ngỏ vấn đề "quy hoạch" đối với điểm du lịch. Trong trường hợp lãnh thổ điểm du lịch được quy hoạch thì sự khác biệt với khái niệm "khu du lich" được xác định ngay trong Pháp lệnh Du lịch, theo đó "khu du lịch là nơi có tài nguyên du lịch…, được quy hoạch đầu tư phát triển nhằm thoả mãn nhu cầu đa dạng của du khách…" là chưa rõ ràng. Trong thực tế cuộc sống, hai khái niệm này thường được sử dụng một cách vô thức mà chưa có sự phân biệt rõ ràng. 1.1.5. Tuyến du lịch: "Tuyến du lịch là lộ trình nối các điểm du lịch, khu du lịch khác nhau" (Pháp lệnh Du lịch, 1999). Tuyến du lịch được xem là sản phẩm du lịch đặc biệt, là một đơn vị tổ chức không gian du lịch được tạo bởi sự kết nối nhiều điểm du lịch khác nhau về quy mô, chức năng, sự đa dạng của các đối tượng du lịch trên một lãnh thổ. Cơ sở tiền đề cho việc xác định tuyến du lịch là sự phân bố trong không gian hệ thống các điểm du lịch và hệ thống giao thông liên kết chúng. Do vậy, tuyến du lịch có thể là tuyến du lịch đường bộ, tuyến du lịch đường thuỷ, tuyến du lịch hàng không hoặc tuyến du lịch tổng hợp với các phân đoạn có các loại phương tiện vận chuyển khác nhau. Tuyến du lịch có thể là tuyến du lịch tổng hợp (liên kết các điểm du lịch chức năng khác nhau), hoặc tuyến du lịch chuyên đề (liên kết các điểm du lịch có chức năng, sản phẩm du lịch tương đồng). Tuyến du lịch là một khái niệm không hạn chế bởi ranh giới hành chính. Các tuyến du lịch có thể được xây dựng phát triển trong một đơn vị hành chính (trong trường hợp có các điểm du lịch cần thiết phân bố trọn trong đơn vị hành chính đó), song trong nhiều trường hợp, tuyến du lịch được phát triển trên lãnh thổ xuyên ranh giới hành chính (lien xã, liên huyện, liên tỉnh/thành phố), thậm chí xuyên quốc gia. Trong xu thế hội nhập hợp tác cùng phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực du lịch thì các tuyến du lịch liên vùng như vậy thường chiếm ưu thế. Điều này cũng làm tăng đáng kể sức hấp dẫn của các tuyến du lịch. 1.2. Những điều kiện cơ bản và nguyên tắc đảm bảo phát triển bền vững Du lịch : 1.2.1. Những điều kiện cơ bản để phát triển bền vững Du lịch: Để ngành du lịch phát triển một cách bền vững cần những điều kiện sau: 1.2.1.1. Sự đa dạng của tài nguyên du lịch. Đối với tài nguyên thiên nhiên, gắn với nó là loại hình du lịch sinh thái, đòi hỏi tính đa dạng sinh học cao. Đa dạng sinh học bao gồm đa dạng sinh thái, đa dạng di truyền và đa dạng loài. Đa dạng sinh thái thể hiện ở sự khác nhau của các kiểu cộng sinh tạo nên các cơ thể sống và mối liên hệ giữa chúng với nhau và với các yếu tố vô sinh có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp lên sự sống như: đất, nước, địa hình, khí hậu…đó là các hệ sinh thái (eco - systems) và các nơi trú ngụ, sinh sống của một hoặc một số loài sinh vật (theo công ước đa dạng sinh học được thông qua tại hội nghị thượng đỉnh Rio De Janeiro về môi trường). Đối với tài nguyên nhân văn bao gồm những di tích lịch sử, di tích cách mạng, những công trình văn hoá, kiến trúc… kể cả những giá trị văn hoá truyền thống cần được giữ gìn, bảo tồn để mỗi điểm du lịch mang nét độc đáo riêng tạo sự hấp dẫn đa dạng cho ngành du lịch. 1.2.1.2. Sự am hiểu về du lịch Người làm công tác du lịch đặc biệt là các nhà điều hành, hướng dẫn viên du lịch và dân địa phương phải thật am hiểu - đây cũng là một trong những nguyên tắc của du lịch bền vững. Sự am hiểu ở đây bao gồm hiểu về tài nguyên du lịch (các đặc điểm sinh thái tự nhiên, văn hoá cộng đồng), tác động tiềm ẩn của hoạt động du lịch đối với tài nguyên - môi trường và cả ngoại ngữ. Điều này rất quan trọng và có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của hoạt động du lịch . Muốn vậy cần phải có chiến lược giáo dục thật hiệu quả đặc biệt đối với cộng đồng địa phương về những kiến thức về du lịch và bảo vệ môi trường. Vì hơn ai hết chỉ có họ mới ý thức được quyến lợi họ được hưởng và bảo vệ môi trường du lịch chính là bảo vệ cuộc sống của chính họ. Họ cũng là những người truyền đạt những kiến thức đó đến du khách hiệu quả nhất. Từ đó tất cả các lực lượng tham gia du lịch, dân bản địa cùng nhau bảo vệ tài nguyên du lịch và môi trường du lịch, là điều kiện quan trọng để du lịch phát triển một cách bền vững. Các nhà điều hành du lịch truyền thống thường chỉ quan tâm đến lợi nhuận và không có cam kết gì đối với việc bảo tồn hoặc quản lý các khu tự nhiên và môi trường. Họ chỉ đơn giản tạo cho du khách một cơ hội để biết được những giá trị tự nhiên và văn hoá trước khi những cơ hội này thay đổi hoặc vĩnh viễn mất đi. Ngược lại, để đạt được nền du lịch bền vững, các nhà điều hành du lịch phải có được sự cộng tác với các nhà quản lý các khu bảo tồn thiên nhiên, cộng đồng địa phương và các lực lượng bảo vệ môi trường với mục đích bảo vệ lâu dài các giá trị tự nhiên, nhân văn, văn hoá địa phương và môi trường; cải thiện cuộc sống , nâng cao sự hiểu biết chung giữa người dân địa phương với du khách. 1.2.1.3. Đảm bảo về cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật du lịch Giao thông vận tải: đảm bảo nhu cầu đi lại cho du khách từ đất liền ra Côn Đảo và ngược lại; đến các điểm du lịch. Thông tin liên lạc: đảm bảo để du khách liên lạc với gia đình, người thân. Điện, nước: cung cấp đầy đủ cho các hoạt du lịch và sinh hoạt cho du khách. Cơ sở lưu trú: chất lượng và phù hợp với môi trường du lịch của địa phương. Các dịch vụ du lịch khác: ăn, uống, mua sắm…phải đảm bảo trên tinh thần tươi sống, an toàn vệ sinh thực phẩm, giá cả phù hợp. 1.2.1.4. Tuân thủ chặt chẽ các quy định về "sức chứa" Nhằm hạn chế tới tới mức tối đa tác động của hoạt động du lịch đến tài nguyên du lịch và môi trường, đạt đến nền du lịch bền vững, cần tổ chức với sự tuân thủ chặt chẽ các quy định về "sức chứa". Khái niệm "sức chứa" được hiểu từ bốn khía cạnh: vật lý, sinh học, tâm lý học và xã hội học. Tất cả những khía cạnh này có liên quan đến lượng khách ở một thời điểm trong cùng địa điểm. Đứng trên góc độ vật lý: "sức chứa" ở đây được hiểu là số lượng tối đa du khách mà khu vực đó có thể tiếp nhận. Điều này liên quan đến những tiêu chuẩn tối thiểu về không gian đối với mỗi du khách cũng như đối với nhu cầu sinh hoạt của họ. Đứng ở góc độ sinh học: sức chứa được hiểu là lượng khách tối đa mà nếu lớn hơn sẽ vượt quá khả năng tiếp nhận của môi trường, làm xuất hiện các tác động sinh thái do hoạt động của du khách và tiện nghi mà họ sử dụng gây ra. Sức chứa này sẽ đạt tới khi số lượng du khách và các tiện nghi mà họ sử dụng bắt đầu có những ảnh hưởng tới tập tục sinh hoạt của các loài thú hoang dã, làm cho hệ sinh thái xuống cấp (ví dụ: làm phá vỡ tập quán kết bầy, làm đất bị xói mòn…); tài nguyên nhân văn bị tổn hại và các giá trị truyền thống dần mai mọt, mất đi. Đứng ở góc độ tâm lý: Sức chứa được hiểu là giới hạn lượng khách mà nếu vượt quá bản thân du khách cảm thấy khó chịu vì sự đông đúc và hoạt động của họ bị ảnh hưởng bởi sự có mặt của các du khách khác. Nói cách khác mức độ thoả mãn của du khách giảm xuống quá mức bình thường do tình trạng quá tải. Đứng ở góc độ xã hội: sức chứa là giới hạn về lượng du khách mà ở đó bắt đầu xuất hiện những tác động tiêu cực của hoạt động du lịch đến đời sống văn hoá - xã hội, kinh tế - xã hội của khu vực. Cuộc sống bình thường của cộng đồng địa phương có cảm giác bị phá vỡ, bị xâm nhập. Đứng ở góc độ quản lý, sức chứa được hiểu là lượng khách tối đa mà khu du lịch có khả năng phục vụ. Nếu lượng khách vượt quá giới hạn này, năng lực quản lý (lực lượng nhân viên, trình độ và phương tiện quản lý…) của khu du lịch sẽ không đáp ứng được nhu cầu của du khàch, làm mất khả năng quản lý kiểm soát hoạt động của khách và kết quả sẽ ảnh hưởng đến môi trường và xã hội. Do khái niệm sức chứa bao gồm cả tính định tính và định lượng, vì vậy khó có thể xác định một con số chính xác về sức chứa cho một khu vực. Mặt khác mỗi khu vực khác nhau sẽ có chỉ số sức chứa khác nhau. Các chỉ số này chỉ có thể xác định một cách tương đối bằng phương pháp thực nghiệm. Một điểm cần phải lưu ý trong quá trình xác định sức chứa là "quan niệm" về sự "đông đúc" của các nhà nghiên cứu khác nhau sẽ khác nhau, đặc biệt trong những điều kiện phát triển xã hội khác nhau. Rõ ràng, để đáp ứng yêu cầu này của du lịch, cần phải tiến hành nghiên cứu sức chứa của các địa điểm cụ thể và căn cứ vào đó sẽ có những quyết định về quản lý. Điều này cần được tiến hành với các nhóm đối tượng khách/thị trường khác nhau phù hợp với tâm lý và quan niệm của họ. 1.2.1.5. Thoả mãn nhu cầu nâng cao hiểu biết của du khách. Việc thoả mãn nâng cao nhu cầu hiểu biết của du khách về tự nhiên, văn hoá bản địa thường rất khó khăn song lại là nhu cầu cần thiết đối với sự tồn tại lâu dài của ngành du lịch. Vì vậy những dịch vụ để làm hài lòng du khách có vị trí quan trọng chỉ đứng sau công tác bảo tồn những gì họ tham quan. 1.2.2. Những nguyên tắc đảm bảo phát triển bền vững du lịch: 1.2.1.1. Sử dụng các nguồn lực một cách bền vững Việc bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên, văn hoá và xã hội là tối cần thiết, nó sẽ khiến cho việc kinh doanh phát triển lâu dài. Tất cả các hoạt động kinh tế đều liên quan tới việc sử dụng các nguồn tài nguyên (thiên nhiên và nhân văn). Nhiều nguồn trong đó không thể đổi mới, tái chế hay thay thế được. Phát triển bền vững chủ trương ủng hộ việc lưu lại cho các thế hệ tương lai một nguồn tài nguyên thiên nhiên không kém hơn so với cái mà các thế hệ trước được hưởng. Ngăn ngừa những thay đổi không thể tránh được đối với tài sản môi trường không có khả năng thay thế, ngăn chặn sự mất đi của tầng ôzôn và các loài sinh vật, sự phá hoại chức năng thiết yếu của các hệ sinh thái. điều này cũng có nghĩa là việc tính tới các dịch vụ được môi trường thiên nhiên cung cấp, những dịch vụ này không phải là "hàng hoá cho không" mà phải được tính vào chi phí các hoạt động kinh tế. Các nguyên tắc như vậy cũng được áp dụng đối với tài nguyên nhân văn. Cần trân trong các nền văn hoá địa phương, truyền thống dân tộc, kế sinh nhai và đất đai người ta dựa vào để sống. Việc sử dụng bền vững, bảo tồn và bảo vệ các nguồn lực này là vấn đề sống còn đối với việc quản lý hợp lý mang tính toàn cầu và cũng mang ý nghĩa kinh doanh tích cực. 1.2.1.2. Giảm sự tiêu thụ quá mức và giảm chất thải sẽ tránh được những chi phí tốn kém cho việc phục hồi tổn hại về môi trường và đóng góp cho chất lượng du lịch. Sự tiêu thụ quá mức sẽ dẫn tới sự huỷ hoại môi trường toàn cầu và đi ngược lại với sữ phát triển bền vững. Kiểu tiêu thụ này là đặc trưng của những nước có nền công nghiệp phát triển và lan rộng rất nhanh trên toàn cầu. Sự tiêu dùng tài nguyên môi trường và các tài nguyên khác một cách lãng phí, không cần thiết đã gây ra sự ô nhiễm và xáo trộn về văn hoá, xã hội. Sự phớt lờ hoặc không quản lí chất thải của các công trình mà dự án triển khai không có đánh giá tác động đến môi trường làm cho môi trường xuống cấp lâu dài, khó khắc phục. Vì thế cần "phạt ô nhiễm" đối với các công trình trên. 1.2.1.3. Duy trì tính đa dạng Việc duy trì và tăng cường tính đa dạng của thiên nhiên, văn hoá và xã hội là hết sức quan trọng cho sự phát triển bền vững du lịch và là chỗ dựa sinh tồn của ngành công nghiệp du lịch. Sự đa dạng trong môi trường tự nhiên, văn hoá và xã hội là thế mạnh mang lại khả năng phục hồi cho những đột biến và áp lực. Đa dạng cũng sự sống còn để tránh việc quá phụ thuộc một hay một vài nguồn hỗ trợ sinh tồn. Phát triển bền vững chủ trương việc để lại cho thế hệ tương lai sự đa dạng cả về thiên nhiên và nhân văn không ít hơn những gì thế hệ trước được thừa hưởng. Nhận thức được rằng thay đổi về môi trường sinh học, văn hoá, kinh tế là kết cục không tránh khỏi của bất cứ loại hình phát triển nào. Chiến lược Bảo Tồn Thế Giới (1980) nhấn mạnh sự cần thiết bảo tồn đa dạng nguồn gien. Từ đó mục đích đã được mở rộng, trong đó có sự đa dạng các cơ cấu chính trị, kinh tế - xã hội và các nền văn hoá. 1.2.1.4. Hợp nhất du lịch vào quá trình quy hoạch Hợp nhất phát triển du lịch vào trong khuôn khổ hoạch định chiến lược cấp quốc gia và địa phương, tiến hành đánh giá tác động môi trường làm tăng khả năng tồn tại lâu dài của ngành du lịch. Các mâu thuẫn quyền lợi, sử dụng quá mức các nguồn tài nguyên và tình trạng quá phụ thuộc có thể tránh hay giảm thiểu được bằng cách hợp nhất lĩnh vực này với lĩnh vực khác dựa trên hai qui tắc: quy hoạch chiến lược dài hạn và đánh giá tác động môi trường. Khuôn khổ hoạch định có tính chiến lược cho phép đánh giá các tác động của sự phát triển đối với các điều kiện kinh tế, xã hội và môi trường ở cả cấp địa phương và khu vực trong khuôn khổ ngắn trung và dài hạn. Đánh giá tác động môi trường được tiến hành trong các giai đoạn lập kế hoạch và thực hiện của dự án sẽ làm giảm thiểu tổn hại đối với môi trường tự nhiên, kinh tế và xã hội. Đánh giá tác động của môi trường bao gồm tác động gián tiếp và trực tiếp của con người đối với các hệ động - thực vật, đất đai, nguồn nước, khí hậu và cảnh quan; và cả tác động qua lại của các nhân tố này với các tài nguyên nhân văn. Tuy nhiên sự đánh giá này mới diễn ra chủ yếu ở Cộng đồng Châu Âu, phần lớn các nước còn lại đang trong giai đoạn thử nghiệm. 1.2.1.5. Hỗ trợ kinh tế địa phương Ngành du lịch hỗ trợ được các hoạt động kinh tế địa phương, tính đến các giá trị và chi phí về mặt môi trường thì mới bảo vệ được nền kinh tế địa phương và tránh được sự tổn thất về môi trường. Sự tăng trưởng kinh tế thể hiện qua sự tăng trưởng của Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) mà biểu hiện của nó là các giá trị hàng hoá trên thị trường; còn giá trị các loại hình dịch vụ và tài nguyên môi trường không được tính, dẫn đến tình trạng huỷ hoại môi trường. Sự phát triển bền vững, một mặt thoả mãn nhu cầu và phúc lợi của con người đồng thời vẫn duy trì và cải thiện môi trường . Lưu tâm đến chức năng kinh tế và việc đánh giá tác động đến môi trường của các dự án đầu tư có ý nghĩa rất quan trọng. Cốt lõi của sự phát triển kinh tế bền vững là tính không phụ thuộc, ngày càng phát triển và đa dạng. Nó đòi hỏi sự tái thiết lập hệ thống thị trường để hợp lý hoá các dịch vụ ở góc độ môi trường và các chi phí sản xuất có tính xã hội rộng lớn hơn. Hoạt động kinh tế quan tâm đến môi trường cũng là quan tâm đến lợi ích quần chúng địa phương. 1.2.1.6. Lôi kéo sự tham gia của cộng đồng địa phương Việc tham gia của cộng động địa phương vào Du lịch sẽ không chỉ mang lại lợi ích cho họ và môi trường mà còn nâng cao chất lượng Du lịch. Sự tham gia của cộng đồng địa phương là rất cần thiết để phát triển hợp lý và bền vững. Ngược lại sự phát triển bền vững sẽ đáp ứng được nhu cầu của dân bản địa bảo vệ môi trường thiên nhiên và văn hoá của họ. Để đạt được mục tiêu đó, cần có chiến lược phát triển phù hợp của địa phương sở tại. Để sự tham gia của cộng đồng địa phương thật sự hiệu quả, cần có chiến lược giáo dục bài bản, khoa học và cho phép họ tham gia vào quá trình hoạch định và tiến hành các chiến lược phát triển. 1.2.1.7. Lấy ý kiến quần chúng và các đối tượng có liên quan Sự đồng lòng giữa công nghiệp Du lịch với cộng đồng địa phương, các tổ chức và các cơ quan khác nhau là rất cần thiết, đồng thời cùng nhau giải toả các mâu thuẫn tiềm ẩn về quyền lợi. Tham khảo ý kiến quần chúng nhằm tranh thủ sự quan tâm của họ trong việc dung hoà giữa phát triển kinh tế (đặc biệt là công nghiệp) và sự tác động tiềm ẩn của nó lên môi trường tự nhiên, xã hội và văn hoá. Đó là việc làm cần thiết để đánh giá một dự án phát triển, các biện pháp để giảm thiểu các tác động tiêu cực và tối đa hoá sự đóng góp của quần chúng địa phương. Thiếu sự tham khảo ý kiến giữa cơ quan nhà nước và cộng đồng địa phương có thể đưa đến sự thù địch và đối kháng thậm chí khó có thể giải quyết được các mâu thuẫn về quyền lợi. Các cộng đồng địa phương trên toàn thế giới nếu được trang bị kiến thức đầy đủ, họ sẽ là những người quan tâm nhất và đi đầu trong công tác bảo vệ môi trường của chúnh mình. Phát triển bền vững là tính đến các nhu cầu hiện tại, tương lai và phúc lợi của con người dựa trên sự lựa chọn, hiểu biết về những chi phí phát triển môi trường, xã hội và văn hoá. Tham khảo ý kiến mang tính chất then chốt vì nó hàm nghĩa trao đổi thông tin, ý kiến, đánh giá và hành động dựa vào kỹ năng, kiến thức và các nguồn lực địa phương. 1.2.1.8. Đào tạo nhân viên Việc đào tạo nhân viên trong đó có lồng ghép vấn đề Du lịch bền vững vào thực tiễn công việc, cùng với việc tuyển dụng lao động địa phương vào mọi cấp sẽ làm tăng chất lượng sản phẩm du lịch. một lực lượng lao động được đào tạo và có kỹ năng thành thạo không những đem lại lợi ích về kinh tế cho ngành mà còn nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch. việc đào tạo đúng mức và nhận thức của người học về tầm quan trọng và tính chất phức tạp của du lịch góp phần nâng cao lòng tự hào nghề nghiệp, sự tự tin và tự nguyện công tác của nhân viên; nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, lòng tin vào tính hiệu quả của tất cả các cấp đối với sự phát triển của ngành du lịch. Việc đào tạo phải bao gồm cả giáo dục đa văn hoá nhằm tăng cường hiểu biết cho học viên giúp họ đem lại sự hài lòng cao nhất cho du khách. Đào tạo và sử dụng nhân viên là người địa phương, đặc biệt là các cán bộ tổ chức và các hướng dẫn viên du lịch sẽ mang lại lợi ích lâu dài cho ngành. Sự phát triển bền vững nhấn mạnh đén tăng cường giáo dục nhằm mục đích nâng cao sự phồn vinh về kinh tế - xã hội. Giáo dục nâng cao nhận thức về quản lý môi trường là then chốt cho sự phát triển tổng hợp bền vững cần phải bao hàm những vấn đề về xã hội, văn hoá và kinh tế. 1.2.1.9. Tiếp thị du lịch một cách có trách nhiệm Việc tiếp thị cung cấp thông tin cho du khách một cách đầy đủ và có trách nhiệm sẽ nâng cao sự tôn trọng của du khách đối với môi trường thiên nhiên, văn hoá, xã hội của địa phương đồng thời làm tăng thêm sự thoả mãn cho du khách. Tiếp thị và quảng cáo là vũ khí lợi hại giúp bán thành công bất cứ sản phẩm nào. Phát triển bền vững dựa trên sự tiếp thị đầy đủ và trung thực các thông tin về sản phẩm góp phần nâng cao chất lượng môi trường tự nhiên, nhân văn và mức sống (có tính đến giá thành của những giá trị về môi trường). chiến lược tiềp thị đối với du lịch bền vững bao gồm việc xác định, đánh giá và luôn rà soát lại mặt cung của tài nguyên du lịch và những nguồn lực khác, đồng thời luôn quan tâm đến cán cân cung cầu. Sự tăng trưởng của du lịch và sự hoán vị của các điểm tham quan tạo nên sự cạnh tranh trong tiếp thị du lịch. 1.2.1.10. Thường xuyên tiến hành công tác nghiên cứu Thường xuyên tiến hành công tác nghiên cứu và giàm sát ngành công nghiệp du lịch thông qua việc sử dụng và phân tích hiệu quả các số liệu là cần thiết trong việc giải quyết những vấn đề tồn đọng, mang đến lợi ích cho các điểm tham quan, cho ngành và cả khách hàng. để ngành du lịch phát triển và tồn tại một cách bền vững, điều cốt yếu là có dự đoán vấn đề và nắm được trước chi phí giải quyết vấn đề. Tốc độ phát triển nhanh của du lịch tại những khu vực dễ bị tổn thương về mặt môi trường, kinh tế và xã hội; mà những khu vực này thường khó thu thập số liệu. Vì thế cần cấp bách nghiên cứu cơ bản hơn nữa để đảm bảo không chỉ cho hiệu quả kinh doanh mà cho cả sự phát triển bền vững trong mối quan hệ với cơ chế chính sách, với việc bảo vệ tài nguyên - môi trường. Việc nghiên cứu toàn diện đòi hỏi sự phối hợp giữa ngành du lịch với các trường đại học, các viện nghiên cứu, chính phủ, các tổ chức phi chính phủ về tiềm năng, kỹ năng nghiên cứu và tổ chức cũng như thiện chí về chính trị, sự trung thực và sự cam kết về nghiệp vụ. 1.2.3. Những điều kiện và chỉ tiêu cơ bản để xây dựng các điểm, tuyến du lịch 1.2.3.1. Những điều kiện cơ bản để xây dựng các điểm, tuyến du lịch: - Tài nguyên du lịch: Tài nguyên du lịch được xem là tiền đề quan yrọng cơ bản để xây dựng nên các điểm, tuyến du lịch. Điều này đã được khẳng định ngay trong pháp lệnh du lịch: "Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử, di tích cách mạng, giá trị nhân văn, công trình lao động sáng tạo của con người có thể được sử dụng nhằm thoả mãn nhu cầu du lịch; là yếu tố cơ bản để hình thành các điểm du lịch, khu du lịch nhằm tạo ra sự hấp dẫn du lịch". Bên cạnh những tài nguyên đã và đang được khai thác để thoả mãn nhu cầu du lịch, nhiều tài nguyên du lịch còn tồn tại ở dạng tiềm năng do:  Chưa được nghiên cứu điều tra và đánh giá đầy đủ.  Chưa có nhu cầu khai thác do khả năng "cầu" còn thấp.  Tính đặc sắc của tài nguyên thấp hoặc chưa đủ tiêu chuẩn cần thiết để khai thác hình thành các sản phẩm du lịch.  Các điều kiện để tiếp cận và các phương tiện để khai thác hạn chế, do đó chưa có khả năng hoặc gặp nhiều khó khăn trong khai thác.  Chưa đủ khả năng đầu tư để khai thác. Trong thực tế, ở nước ta, nhiều di tích văn hoá lịch sử, lịch sử cách mạng mặc dù đã được xếp hạng sonh chưa được khai thác phục vụ du lịch; nhiều khu rừng nguyên sinh với tính đa dạng sinh học cao, nhiều bãi biển đẹp ở miện Trung, nhiều lễ hội… vẫn chưa đầy đủ điều kiện đưa vào khai thác và sử dụng.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan