Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu nhóm vị từ chỉ tình cảm trong tiếng hán và tiếng việt...

Tài liệu Nghiên cứu nhóm vị từ chỉ tình cảm trong tiếng hán và tiếng việt

.PDF
72
2112
67

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------ LÝ QUẾ PHƢƠNG NGHIÊN CỨU NHÓM VỊ TỪ CHỈ TÌNH CẢM TRONG TIẾNG HÁN VÀ TIẾNG VIỆT LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Hà Nội - 2012 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ====================== LÝ QUẾ PHƢƠNG NGHIÊN CỨU NHÓM VỊ TỪ CHỈ TÌNH CẢM TRONG TIẾNG HÁN VÀ TIẾNG VIỆT NGÀNH NGÔN NGỮ HỌC MÃ SỐ: LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC GS.TS. NGUYỄN THIỆN GIÁP Hà Nội- 2012 Mục Lục MỞ ĐẦU .............................................................................................................1 1. Lí do chọn đề tài ...............................................................................................1 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ........................................................3 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................5 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.....................................................................5 5. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của đề tài ...............................................................6 6. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu .........................................................7 7. Kết cấu của luận văn ........................................................................................8 CHƢƠNG I CƠ SỞ LÍ LUẬN: LÍ THUYẾT TRƢỜNG NGHĨA VÀ VIỆC MIÊU TẢ TỪ VỰNG…………………………………………………..………9 1.1 LÍ THUYẾT VỀ TRƢỜNG NGHĨA VÀ TRƢỜNG TỪ VỰNG ...................9 1.2 NHỮNG QUAN HỆ VỀ NGHĨA ................................................................ 16 1.3 ĐẶC TRƢNG VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG NGÔN NGỮ ..................... 23 CHƢƠNG II NGHIÊN CỨU NHÓM VỊ TỪ CHỈ TÌNH CẢM TRONG TIẾNG HÁN…………………………………………………………………..25 2.1 “THẤT TÌNH LỤC DỤC” – QUAN ĐIỂM CỦA NGƢỜI TRUNG QUỐC ĐỐI VỚI TÌNH CẢM ........................................................................................ 25 2.2 PHÂN TÍCH VỊ TỪ CHỈ TÌNH CẢM “爱 ÁI” VÀ “恶 Ố” TRONG TIẾNG HÁN................................................................................................................... 39 CHƢƠNG III NGHIÊN CỨU NHÓM VỊ TỪ CHỈ TÌNH CẢM TRONG TIẾNG VIỆT VÀ SO SÁNH VỚI TIẾNG HÁN ............................................ 56 KẾT LUẬN ....................................................................................................... 63 TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................ 67 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Tâm lí học cho rằng, tình cảm là sự thể nghiệm thái độ của con ngƣời đối với sự vật khách quan có phù hợp với nhu cầu của bản thân mình hay không. Tình cảm là một phản ứng tâm lí của con ngƣời đối với sự kích thích bên ngoài, bao gồm các mặt nhƣ cảm giác, sinh lí, hành vi, kinh nghiệm, tri nhận và khái niệm hóa v.v. Ortony cho rằng đa số tình cảm đến từ sự giải thích tri nhận. Quá trình tri nhận của con ngƣời không ngừng lặp lại và ngày càng sâu sắc hơn, làm cho con ngƣời có những cảm giác nhất định đối với sự vật, và tỏ ra những phản ứng nhất định, tạo thành tình cảm. Những tình cảm khác nhau liên quan đến quá trình tri nhận khác nhau. Tình cảm thƣờng liên quan đến cơ chể sinh lí của con ngƣời, ngƣời khỏe thƣờng mặt mày rạng rỡ, còn ngƣời ốm thì thƣờng đa sầu đa cảm. Tình cảm cũng liên quan đến môi trƣờng xã hội của loài ngƣời, khi thành công ngƣời ta sẽ phấn khởi xúc động, khi thất bại thì sẽ chán nản thất vọng. Tình cảm là sự phản ánh về cách tƣ duy và cách sống phổ biến và độc đáo của loài ngƣời. Mọi ngƣời đều có tình cảm chung – vui, buồn, yêu, ghét, tức, sợ v.v. Tình cảm có thể là sự biểu hiện chung của tập thể, ví dụ nhƣ vẻ vui mừng phấn khởi của ngƣời ta trong những ngày tết và ngày lễ, cũng có thể là sự biểu thị đơn độc của cá thể, ví 1 dụ nhƣ sự đau buồn của một ngƣời trong khi mất ngƣời thân. Tình cảm có thể lộ ra một cách cụ thể qua nét mặt, cũng có thể đƣợc thể hiện một cách trừu tƣợng qua ngôn ngữ. Cách bày tỏ tình cảm của dân tộc khác nhau có sự giống nhau, cũng có sự khác nhau. Ngƣời dân các nƣớc đều sử dùng phƣơng tiện ngôn ngữ và phƣơng tiện phi ngôn ngữ để bày tỏ tình cảm. Các phƣơng tiện phi ngôn ngữ nhƣ nét mặt, thần sắc của mắt, động tác của tay và cơ thể v.v. cũng có thể dùng để bày tỏ tình cảm phong phú. Ví dụ ngƣời ta nghiến răng nghiến lợi khi tức giận, thƣờng mặt mày hớn hở khi vui mừng, đỏ mặt tía tai khi cảm thấy xấu hổ, những cái này đều đƣợc bày tỏ ra qua nét mặt. Ngƣời ta hoa chân múa tay trong khi phấn khởi, hai tay chống nạnh, giậm chân đấm ngực trong khi bực bội, giọng nói cao lên và tiết tấu hoan khoái trong khi vui mừng, những điều này đều là đƣợc bày tỏ ra qua biểu cảm dáng điệu. Tình cảm của con ngƣời rất phức tạp, sự biểu đạt của tình cảm cũng rất phức tạp, thƣờng là hai hoặc ba loại đồng thời xảy ra trong ba loại là vẻ mặt, biểu cảm dáng điệu, biểu cảm ngôn ngữ. Mà ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng nhất của loài ngƣời, cách biểu đạt tình cảm quan trọng nhất, thƣờng dùng nhất cũng là qua ngôn ngữ, ví dụ nhƣ thông qua những kiểu câu, ngữ điệu, từ ngữ nhất định để biểu đạt. Phƣơng tiện giao lƣu của ngôn ngữ biểu đạt tình cảm, bao gồm các từ tình cảm mà trực tiếp biểu thị tình cảm, tức là các từ và cụm từ có nghĩa mặt chữ là bày tỏ tình cảm, thán từ 2 trút ra tình cảm, và sự ẩn dụ tình cảm ngụ ý tình cảm. Từ ngữ biểu đạt tình cảm chủ yếu bao gồm danh từ, động từ, tính từ, thán từ và những cụm từ cố định. Thán từ trong tiếng Hán đều biểu đạt tình cảm, nhƣng các thán từ này chỉ có thể dùng để biểu đạt sự thể nghiệm của bản thân ngƣời nói, không thể dùng để kể lại tình cảm của ngƣời khác, do đó trong tiếng Hán cũng có những danh từ, động từ, tính từ, cụm từ cố định biểu thị tình cảm để bù đắp sự thiếu sót của thán từ về mặt biểu đạt tình cảm, mà trở thành thành viên quan trọng để biểu đạt tình cảm trong ngôn ngữ. Trong đó vị từ chỉ tình cảm là phong phú nhất trong các từ này. Chính những lý do đó đã thôi thúc tác giả lựa chọn đề tài: “Nghiên cứu nhóm vị từ chỉ tình cảm trong tiếng Hán và tiếng Việt” cho luận văn thạc sĩ ngôn ngữ học, chuyên ngành Ngôn ngữ học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Về các từ chỉ tình cảm trong tiếng Hán, theo sự khảo sát của tác giả, trƣớc đây chƣa có nhiều ngƣời nghiên cứu, cho đến những năm 80 của thế kỷ XX có thể nói là chƣa có, đến những năm 90 của thế kỷ XX có mấy bài luận văn nghiên cứu so sánh những từ chỉ tình cảm trong tiếng Hán và tiếng Anh, ví dụ: “Sơ lƣợc khảo sát đặc điểm bổ sung quan niệm và sự chênh lệch về sắc thái tình cảm giữa các từ tƣơng đƣơng nhau trong tiếng Hán và tiếng Anh” của Đổng Kiếm Kiều, còn có những công trình nghiên cứu về sắc thái tình cảm của từ, ví dụ nhƣ “Thảo luận về sắc thái tình cảm của nghĩa từ” của Vƣơng Hóa Bằng, “Sắc thái tình cảm của từ ngữ nhìn từ nhiều góc độ” của Lý Thứ Nhân, “Sơ lƣợc khảo sát 3 về sắc thái tình cảm của từ ngữ” của Ngụy Khâm Văn v.v. Những bài luận văn này chủ yếu nghiên cứu sắc thái tình cảm là nhu cầu của sự biểu thị tình cảm, và tính dân tộc, tính phát triển, hiệu quả tu từ v.v. của chúng. Phần lớn đều không có liên quan trực tiếp với các từ chỉ tình cảm. Còn có mấy bài viết về mặt vận dụng sắc thái tình cảm của từ, ví dụ nhƣ “Thử khảo sát sự vận dụng của sắc thái tình cảm trong ngôn ngữ” của Lý Xƣơng Niên, “Phân tích sơ qua về cách dùng của từ tình cảm” v.v. Còn có mấy bài viết về sự vận dụng sắc thái tình cảm của từ, ví dụ nhƣ “Phân tích sự ẩn dụ của các từ biểu thị tình cảm mặt trái”. Đến những năm gần đây, cũng có một số bài viết về các từ chỉ tình cảm trong tiếng Hán, ví dụ nhƣ “Nghiên cứu về các từ chỉ tình cảm trong tiếng Hán” của Ninh Kì, “Nghiên cứu về sự phán biệt khuynh hƣớng ngữ nghĩa của các từ chỉ tình cảm trong tiếng Hán” của Yao Tian Fang và Lou De Cheng v.v.. Nhìn vào những bài trên, sự nghiên cứu của các tác giả đều có đặc điểm riêng của họ, và cũng đã có đƣợc những thành quả, nhƣng đối với một số vấn đề chƣa đƣợc nghiên cứu sâu sắc hơn, đối với một số vấn đề cũng chƣa đƣợc nhất trí. Nhất là đối với ngữ nghĩa của các từ chỉ tình cảm, cụ thể là ngữ nghĩa của các vị từ chỉ tình cảm trong tiếng Hán thì chƣa có ngƣời nghiên cứu. Trong tiếng Việt, có luận án phó tiến sĩ của Nguyễn Ngọc Trâm với đề tài là “Đặc trƣng ngữ nghĩa – ngữ pháp của nhóm từ biểu thị tâm lí – tình cảm trong tiếng Việt” nghiên cứu về mặt này, nhƣng chƣa có sự so sánh với tiếng Hán. Đối với lĩnh 4 vực ngƣời ta chƣa nghiên cứu đến, tác giả muốn thử tiến hành một số sự khám phá, và mong sẽ có đƣợc một sự đóng góp đối với việc nghiên cứu về các vị tù chỉ tình cảm trong tiếng Hán và tiếng Việt. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, tác giả sẽ phân tích và so sánh nhóm vị từ chỉ tình cảm trong tiếng Hán và tiếng Việt, góp phần vào việc nghiên cứu và giảng dạy tiếng Hán và tiếng Việt. - Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt đƣợc mục đích trên, tác giả luận văn sẽ thực hiện những nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau đây: - Về mặt lí luận, khảo sát các khái niệm về trƣờng nghĩa, phân biệt trƣờng nghĩa với trƣờng từ vựng, nắm bắt các phƣợng pháp nghiên cứu, làm cơ sở lí luận cho việc phân tích nhóm vị từ chỉ tình cảm trong tiếng Hán và tiếng Việt. - Phân tích trƣờng nghĩa và trƣờng từ vựng của nhóm vị từ chỉ tình cảm trong tiếng Hán và tiếng Việt, và trên cơ sở đó tiến hành công việc so sánh và đƣa ra kết luận. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu 5 Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn này là nhóm vị từ chỉ tình cảm trong tiếng Hán và tiếng Việt. - Phạm vi nghiên cứu Phậm vi nghiên cứu của luận văn là nhóm vị từ chỉ tình cảm trong tiếng Hán trong mục “tình cảm” của “Từ điển phân loại Hán Ngữ hiện đại” do nhà xuất bản đại từ điển Hán ngữ xuất bản, bao gồm “vui, buồn, yêu, ghét, tức, sợ”v.v.,nhƣng trong phạm vi này, tôi chỉ đi sâu vào 2 vị từ chỉ “爱 yêu, 恶 ghét” trong tiếng Hán và tiếng Việt. 5. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của đề tài - Ý nghĩa lí luận Nghiên cứu nhóm vị từ chỉ tình cảm trong tiếng Hán và tiếng Việt, luận văn sẽ góp phần vào việc làm sáng tỏ một số vấn đề lí luận về các từ chỉ tình cảm trong tiếng Hán và tiếng Việt, giải quyết đƣợc những vấn đề mà ngƣời ta chƣa quan tâm đến. - Ý nghĩa thực tiễn Kết quả của luận văn sẽ góp phần làm phong phú thêm cho những công trình nghiên cứu về các vị từ chỉ tình cảm trong tiếng Hán và tiếng Việt, và trên cơ sở đó tiến hành công việc so sánh, tìm ra sự giống nhau và khác nhau giữa nhóm từ chỉ tình cảm trong tiếng Hán và tiếng Việt, góp phần vào việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập tiếng Hán cũng nhƣ tiếng Việt. 6 Ngoài ra, quá trình nghiên cứu đề tài cũng sẽ là một cơ hội để tác giả luận văn tích lũy kiến thức, nâng cao khả năng phân tích và nghiên cứu của mình, và sẽ có đƣợc sự giúp ích trong công việc học tập và giảng dạy sau này. 6. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Cơ sở lí luận Cơ sở lí luận của luận văn là những thành quả của lí luận về trƣờng nghĩa của nhóm từ “yêu” và “ghét”, đặc trƣng trƣờng nghĩa và ngữ dụng của các từ trong hai trƣờng đó trong tiếng Hán và tiếng Việt. - Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện công trình nghiên cứu này, chúng tôi sẽ sử dụng kết hợp một số phƣơng pháp nghiên cứu sau đây: Thủ pháp phân tích trƣờng nghĩa - Xác lập trƣờng - Quan hệ về nghĩa trong trƣờng + đồng nghĩa + trái nghĩa + tổng phân nghĩa + bao nghĩa Tất cả các phƣơng pháp kể trên đều có tác động tích cực vào kết quả của luận văn. 7 7. Kết cấu của luận văn Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, những nội dung chủ yếu của luận văn đƣợc trình bày trong 3 chương,5 tiết, 74 trang. 8 CHƢƠNG I CƠ SỞ LÍ LUẬN: LÍ THUYẾT TRƢỜNG NGHĨA VÀ VIỆC MIÊU TẢ TỪ VỰNG 1.1 LÍ THUYẾT VỀ TRƢỜNG NGHĨA VÀ TRƢỜNG TỪ VỰNG 1.1.1 Lí thuyết trƣờng nghĩa Trong tiếng Hán, trƣờng nghĩa còn có thể gọi là hệ thống nghĩa vị, hệ thống nghĩa vị lớn hơn và phức tạp hơn hệ thống ngữ âm và hệ thống ngữ pháp. Tuy nhiên, vào thời xƣa, Huấn Hỗ học đã có những nhận thức sơ bộ đối với sự liên hệ và hệ thống của nghĩa chữ và nghĩa từ. Cuốn sách “Nhĩ Nhã” đƣợc nhiều ngƣời cùng nhau biên soạn từ thời Châu, thời Tần cho đến thời Hán, bao gồm 19 thiên: các chữ và từ đƣợc thu thập trong thiên 4 đến thiên 19 đƣợc phân loại về mặt nghĩa theo “thân, cung, khí, nhạc, thiên, địa, khâu, sơn, thủy, thảo, mộc, trùng, ngƣ, điểu, thú, súc”(Thích Thân: giải thích các cách xƣng hô thân thuộc; Thích Cung: giải thích kiến trúc cung đình; Thích Khí: giải thích các vật dụng hàng ngày, ẩm thực, y phục; Thích Nhạc: giải thích về âm nhạc;Thích Thiên: giải thích về thiên văn, lịch pháp; Thích Địa: giải thích về địa lý, hành chính; Thích Khâu: giải thích về Khâu Lăng, cao địa; Thích Sơn: giải thích về núi; Thích Thuỷ: giải thích về sông ngòi; Thích Thảo: giải thích về hoa cỏ; Thích Mộc: giải thích về cây cối; Thích Trùng: giải 9 thích về côn trùng; Thích Ngƣ: giải thích về cá; Thích Điểu: giải thích về chim; Thích Thú: giải thích về động vật; Thích Súc: giải thích về động vật.)Hơn nữa, trong những điều mục của các thiên trên đã thu thập một nhóm chữ có sự liên hệ chặt chẽ về mặt nghĩa, ví dụ nhƣ trong "Thích Khí" có câu “kim vị chi lũ, mộc vị chi khắc, cốt vị chi thiết, tƣớng vị chi tha, ngọc vị chi trác, thạch vị chi ma.”(có nghĩa là tuy đều là động tác gia công các loại vật dùng, nhƣng dựa vào đối tƣợng khác nhau thì động từ cũng khác nhau: gia công vàng thì dùng từ "lũ", gia công gỗ thì dùng từ "khắc"...). Ngoài ra, trong thiên 1 – “Thích Hỗ” đã lập điều mục theo các chữ và từ đồng nghĩa và gần nghĩa, điều này chứng minh rằng ngƣời biên soạn đã biết khái niệm đồng nghĩa. Trong “Nhĩ Nhã” có hiện tƣợng phản huấn, Quách Phác của thời Đông Tấn là ngƣời đầu tiên chú ý đến hiện tƣợng này. Trong “Nhĩ Nhã Chú” ông đã nêu rằng: “tứ” vừa có nghĩa là xƣa, vừa có nghĩa là nay, xƣa tức là nay, nay tức là xƣa, nghĩa này tƣơng phản và lại tƣơng thông với nhau. Ngoài ra, ông Từ Khải trong thời Nam Đƣờng trong “Thuyết Văn· Mộc Bộ” đã nhắc đến hiện tƣợng đa nghĩa. Ngữ nghĩa học truyền thống đối với vài mặt về sự liên hệ và hệ thống của nghĩa từ, đã có đƣợc những thành quả nghiên cứu, sự nghiên cứu này khá rõ ràng và tỉ mỉ, chủ yếu thể hiện ở các từ đồng nghĩa, trái nghĩa và đa nghĩa. Trong một thời gian rất lâu, các học giả Trung Quốc đã áp dụng các luận điểm này tiến hành nhiều nghiên cứu đối với các hiện tƣợng liên quan trong tiếng Hán 10 hiện đại, tiếng Hán cổ đại và các phƣơng ngôn tiếng Hán, các luận điểm này không những có giá trị thảo luận, mà còn có giá trị thực dụng. Chúng đã đóng một vai trò rất quan trọng đối với các công tác nhƣ giảng dạy ngôn ngữ, viết, phiên dịch và biên soạn từ điển v.v... Nhƣng chúng ta cũng phải nhận thức rằng, trong huấn hỗ học và ngữ nghĩa học truyền thống, sự nhận thức đối với sự liên hệ và hệ thống của nghĩa từ rất có hạn. Sự nhận thức của huấn hỗ học rất thô sơ, sự phân tích của ngữ nghĩa học truyền thống tuy tỉ mỉ và sâu sắc hơn, nhƣng mặt nhắc đến cũng rất hẹp. Trong hệ thống nghĩa vị, hiện tƣợng đồng nghĩa và trái nghĩa chiếm tỉ số rất có hạn, ngữ nghĩa học truyền thống hầu nhu khống có sự nghiên cứu gì đối với sự liên hệ phức tạp giữa các nghĩa vị. Về hệ thống nghĩa vị của ngôn ngữ, ngữ nghĩa học hiện đại có những giải thích rất có giá trị, đó là những lí luận về trƣờng nghĩa. Humboldt sớm hơn Saussure, là ngƣời đặt nền móng của ngôn ngữ học đại cƣơng, ông đã có quan niệm sơ bộ về trƣờng nghĩa. Nhƣng những nhà ngôn ngữ học Đức và Thụy Sĩ mới là những ngƣời đầu tiên nêu ra khái niệm trƣờng nghĩa và tiến hành công việc nghiên cứu, trong đó nổi bật nhất là Trier. Lí luận trƣờng nghĩa của Trier đƣợc nêu ra trong những năm 30 thế kỷ XX. Ullmann cho rằng lí luận của Trier đã mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử của ngữ nghĩa học. Lí luận này sau đó do Trier và học sinh của ông ấy và L. Weisgerber phát triển. Đến những năm 50, 11 chomsky nêu ra ngữ pháp tạo thành cải biến, những nhà ngôn ngữ học nhân loại ở Mỹ nêu ra cách phân tích nghĩa tố, việc nghiên cứu ngữ nghĩa ngày càng đƣợc coi trọng, lí luận trƣờng nghĩa mới có đƣợc sự chú ý phổ biến. Hiện nay, lí luận trƣờng nghĩa đã đƣợc phát triển rất lớn, nhiều nhà ngôn ngữ học Trung Quốc cũng áp dụng và phát triển những lí luận này để nghiên cứu các hiện tƣợng ngôn ngữ trong tiếng Hán. Trƣờng nghĩa là phạm vi những đơn vị từ vựng có quan hệ lẫn nhau về ý nghĩa, trong đó, đơn vị từ vựng có thể là một từ vị hay một đơn vị thành ngữ. Các đơn vị từ vựng trong một trƣờng nghĩa phải có chung một thành tố nghĩa. Ví dụ nhƣ ý nghĩa chung của 7 nghĩa vị từ “thứ hai” đến “chủ nhật” trong tiếng Hán hiện đại là chỉ chúng cùng nhau tạo thành một trƣờng nghĩa biểu thị các ngày trong mỗi tuần, nghĩa tố mà chúng cùng nhau gồm có là “(trong 1 tuần) (ngày)”. Sự khác biệt giữa 7 nghĩa vị này là chúng bao gồm các nghĩa tố khác biệt từ ngày “(thứ nhất)” đến “(thứ bẩy)”v.v… Nhƣ vậy, các nghĩa vị trong một trƣờng nghĩa bao gồm các nghĩa tố nhƣ nhau và khác nhau mà liên hệ với nhau, bao gồm ý nghĩa hệ thống, mà tạo thành một trƣờng nghĩa, cùng nhau phản ánh một hệ thống của thế giới bên ngoài. Trƣờng nghĩa của tiếng Hán đã là một sự phản ánh đối với tính hệ thống của thế giới bên ngoài, thì nó tất yếu phải phân chia thế giới bên ngoài. Sự phân chia này chủ yếu có hai tình hình. Một là sự phản ánh trong ngữ nghĩa của một 12 sự phân loại vốn có nào đó trong thế giới bên ngoài, nhƣ tƣờng nghĩa “vàng, bạc, đồng, sắt, thiếc” là nhƣ vậy. Đây là mấy loại kim loại mà dân tộc Hán thƣờng xuyên tiếp xúc, chúng đƣợc chia thành 5 loại là do tính chất của bản thân chúng quyết định, chúng ta không thể chia thành 6 loại hoặc 4 loại. Ngoài ra còn có một tình hình, sự phân chia trƣờng nghĩa đối với sự vật, thƣờng đƣợc xem xét từ nhận thức của con ngƣời, sự thuận tiện của giao tiếp và thói quen. Ví dụ hai nghĩa vị trong trƣờng nghĩa “tốt, xấu” là đƣợc căn cứ vào ƣu điểm nhiều hoặc khuyết điểm nhiều của sự vật và làm cho ngƣời ta hài lòng hoặc không hài lòng mà phân chia. Thực ra theo tiêu chuẩn này chia thành hai là đơn giản nhất, chúng ta hoàn toàn có thể chia thành ba, bốn, năm, thậm chí chia thành đẳng cấp vô hạn. Ví dụ về nhiệt độ khác nhau, trong tiếng Hán dùng trƣờng nghĩa tứ nguyên “nóng, ấm, mát, lạnh” để biểu thị. Sự phân chia này là tƣơng đối và thuận tiện, còn có thể phân chia theo kiểu khác. Và trƣờng nghĩa cũng rất phức tạp, có thể phân chia thành trƣờng nghĩa thứ tự, trƣờng nghĩa phân loại, trƣờng nghĩa quan hệ v.v…. 1.1.2 Trƣờng từ vựng và phân biệt trƣờng nghĩa với trƣờng từ vựng Lgor A Mel’cuk và một số nhà ngôn ngữ học khác phân biệt rõ trƣờng nghĩa và trƣờng từ vựng. Các ông định nghĩa trƣờng nghĩa nhƣ sau: trƣờng nghĩa là tập hợp các đơn vị từ vựng có chung một thành tố nghĩa có giá trị nhận 13 diện một trƣờng nghĩa. Muốn hiểu rõ định nghĩa trên, cần biết khái niệm đơn vị từ vựng. Theo các ông, đơn vị từ vựng có thể là một từ vị hay một đơn vị thành ngữ. Khái niệm trƣờng từ vựng đƣợc định nghĩa nhƣ sau: trƣờng từ vựng của một trƣờng nghĩa là tập hợp các từ ngữ có những đơn vị từ vựng cơ sở cùng thuộc trƣờng nghĩa này. Đối với Mel’cuk, cách xử lí theo trƣờng nghĩa là một trong những nguyên tắc cơ sở để biên soạn từ điển. Trong từ điển giải thích và kết hợp của ông, việc miêu tả các đơn vị từ vựng bắt buộc phải đƣợc thực hiện theo trƣờng nghĩa hay trƣờng từ vựng. Khi soạn thảo các mục từ điển, các trƣờng và các từ ngữ cùng có vai trò nhƣ nhau: chúng bảo đảm việc xử lí mỗi đơn vị từ vựng trong sự đối chiếu với các đối tác “hàng ngang” (=trong các trƣờng) và các đối tác hàng dọc (=trong các từ ngữ). Tuy nhiên, Mel’cuk và những ngƣời cùng làm việc với ông thừa nhận rằng khái niệm trƣờng nghĩa không chặt chẽ nhƣ ngƣời ta tƣởng. Tính không chặt chẽ, theo các ông, thể hiện ở ba điểm sau đây: 1) Ranh giới không đƣợc xác định cụ thể 2) Các từ vị có thể thuộc về nhiều trƣờng nghĩa. 3) Sự chồng chéo của các trƣờng nghĩa Khái niệm trƣờng từ vựng cần đƣợc định nghĩa nhƣ sau: Trƣờng từ vựng của một trƣờng nghĩa là tập hợp các từ ngữ có những đơn vị từ vựng cơ sở cùng 14 thuộc trƣờng nghĩa này. Ví dụ: trƣờng nghĩa “bộ phận cơ thể” trong tiếng Hán có các từ nhƣ: 头(đầu),颈(cổ),肩(vai),腹(bụng),手(tay),脚(chân), ... Mỗi từ vị nêu trên lại nằm trong một từ nhất định. Từ “头(đầu)” gồm những từ vị sau: 1) Phần trên cùng của cơ thể con ngƣời hay bộ phận trƣớc nhất của thân thể động vật; 2) Tóc hay kiểu tóc; 3) Phần trƣớc nhất hoặc phần trên cùng của sự vật; 4) Điểm xuất phát của một việc nào đó; 5) Phần còn lại của vật thể; 6) Trƣớc đây, ở phía trƣớc; 7) Thứ tự ở trƣớc, thứ nhất; 8) Thủ lãnh; 9) Mặt; 10) gần, sắp; 11) Lƣợng từ, thƣờng dùng để chỉ gia súc; 12) Khoảng, hoặc số lƣợng không xác định. Từ “颈(cổ)” gồm những từ vị sau: Phần nối liền đầu và thân của cơ thể, hoặc chỉ phần nhƣ cổ của sự vật. Từ “肩(vai)” gồm những từ vị sau: 1) Phần bên cạnh cổ và trên tay trong cơ thể; 2) Gánh vác. Từ “腹(bụng)” gồm những từ vị sau: 1) Bộ phận cơ thể ngƣời, động vật chứa ruột, dạ dày, v.v.; 2) Chỉ phần trƣớc, phần trong hoặc phần giữa của một vùng nào đó; 3) Dày; 4) ôm. Từ “手(tay)” gồm những từ vị sau: 1) Bộ phận phía trên của cơ thể ngƣời, từ vai đến các ngón, dùng để cầm nắm; 2) Cầm nắm; 3) Làm tận tay; 4) Kỹ năng, bản lãnh; 5) Những ngƣời làm việc nào đó hoặc có loại kỹ năng nào đó; 6) nhỏ bé và dễ cầm lấy. 15 Từ “脚(chân)” gồm những từ vị sau: 1) Bộ phận dƣới cùng của cơ thể ngƣời hay động vật, dùng để đi đứng; 2) Phần dƣới cùng; 3) Vật liệu còn lại mà không còn tác dụng gì; 4) Kịch bản mà diễn kịch và đóng phim phải tuân theo; 5) Trƣớc đây chỉ những công việc liên quan đến khuân vác. Sự tập hợp tất cả các từ này (với tất cả các từ vị của chúng) tạo nên trƣờng từ vựng về các bộ phận cơ thể trong tiếng Hán. 1.2 NHỮNG QUAN HỆ VỀ NGHĨA 1.2.1 Đồng nghĩa Có hai cách quan niệm khác nhau về hiện tƣợng đồng nghĩa. Quan niệm đầu cho loạt đồng nghĩa bao gồm các từ. Do kết cấu ý nghĩa của các từ không giống nhau cho nên mức độ đồng nghĩa của các từ cũng khác nhau. Theo quan niệm thứ nhất, từ đồng nghĩa là những từ có tối thiểu một trong các ý nghĩa giống nhau. Sự phân biệt nhau của các từ đồng nghĩa rộng hẹp khác nhau, đúng hơn là sự tồn tại trong kết cấu ý nghĩa của mình số lƣợng ít hay nhiều các ý nghĩa giống nhau. Quan niệm thứ hai cho rằng loạt đồng nghĩa chỉ bao gồm những nghĩa vị đồng nghĩa chứ không phải các từ vị đồng nghĩa. Bởi vì dung lƣợng ý nghĩa của các từ không giống nhau, có từ một nghĩa, có từ nhiều nghĩa và không phải bao giờ toàn bộ các ý nghĩa của từ này cũng đồng nghĩa với toàn bộ các ý nghĩa của từ kia, cho nên khó có thể nói từ này đồng nghĩa với từ kia mà phải nói nghĩa vị nào của chúng đồng nghĩa với nhau. Thí dụ: từ ăn chỉ đồng 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan