BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
NGUYỄN THỊ KIM OANH
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ CHỈ SỐ SINH HỌC VÀ TRÍ TUỆ CỦA
HỌC SINH THỊ TRẤN CAO THƢỢNG, HUYỆN TÂN YÊN,
TỈNH BẮC GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC
HÀ NỘI, 2010
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các hình
Phần 1. MỞ ĐẦU ......................................................................................................1
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI .......................................................................................1
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ................................................................................2
1.3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ................................................................................3
1.4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ……….………………………...3
1.5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........................................................................3
1.6. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI .........................................................................3
Phần 2. NỘI DUNG...................................................................................................4
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ......................................................................4
1.1.NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH THÁI THỂ LỰC ...................................4
1.1.1. Về hình thái thể lực .......................................................................................4
1.1.2. Chiều cao và thể lực ngƣời Việt Nam .......................................................5
1.1.3. Chƣơng trình nâng cao tầm vóc và thể lực ngƣời Việt Nam ........................7
1.1.4. Tình hình nghiên cứu hình thái thể lực ở trẻ em...........................................8
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRÍ TUỆ .......................................................10
1.2.1. Khái niệm trí tuệ .........................................................................................10
1.2.2. Sự phát triển của trí tuệ ..............................................................................11
1.2.3 Phƣơng pháp đánh giá trí tuệ .......................................................................12
1.2.4. Tình hình nghiên cứu trí tuệ ở Việt Nam ....................................................14
1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRÍ NHỚ ......................................................16
1.3.1. Khái niệm trí nhớ ........................................................................................16
1.3.2. Cấu trúc não liên quan đến trí nhớ ..............................................................17
1.3.3. Sự khác nhau giữa trí nhớ của trẻ em với trí nhớ của ngƣời lớn ................18
1.3.4. Tình hình nghiên cứu về trí nhớ .................................................................19
1.4. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CẢM XÚC ....................................................19
1.4.1. Khái niệm cảm xúc .....................................................................................19
1.4.2. Cảm xúc ảnh hƣởng nhƣ thế nào đến sự phát triển trí tuệ ..........................21
1.4.3.Tình hình nghiên cứu về trạng thái cảm xúc ...............................................22
1.5. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHÚ Ý ..........................................................22
1.5.1. Khái niệm chú ý ..........................................................................................22
1.5.2. Tình hình nghiên cứu về chú ý ...................................................................24
Chƣơng 2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .......................25
2.1. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU ...........................................................................25
2.2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ......................................................................25
2.2.1. Các chỉ số đƣợc nghiên cứu ........................................................................25
2.2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu các chỉ số ...........................................................26
2.2.3. Phƣơng pháp tính tuổi .................................................................................30
2.2.4. Phƣơng pháp xử lý số liệu ..........................................................................31
Chƣơng 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ..................................................................34
3.1. MỘT SỐ CHỈ SỐ THỂ LỰC CỦA HỌC SINH TỪ 7 ĐẾN 15 TUỔI .............34
3.1.1.Chiều cao của học sinh ................................................................................34
3.1.2. Cân nặng của học sinh ................................................................................38
3.1.3.Vòng ngực của học sinh ...............................................................................42
3.1.4. Chỉ số pignet của học sinh ..........................................................................45
3.1.5. BMI của học sinh ........................................................................................49
3.2. TRÍ TUỆ CỦA HỌC SINH TỪ 7-15 TUỔI ......................................................53
3.2.1. Chỉ số IQ của học sinh theo tuổi .................................................................53
3.2.2. Chỉ số IQ của học sinh theo giới tính .........................................................54
3.2.3. Phân bố học sinh theo mức trí tuệ...............................................................56
3.3. TRÍ NHỚ CỦA HỌC SINH TỪ 7-15 TUỔI .....................................................58
3.3.1. Trí nhớ của học sinh theo tuổi ....................................................................58
3.3.2. Trí nhớ của học sinh theo giới tính .............................................................59
3.4. TRẠNG THÁI CẢM XÚC CỦA HỌC SINH 7-15 TUỔI ................................65
3.4.1. Trạng thái cảm xúc của học sinh theo tuổi .................................................65
3.4.2. Trạng thái cảm xúc của học sinh theo giới tính ..........................................67
3.4.3. Các chỉ tiêu về trạng thái cảm xúc của học sinh theo tuổi ..........................68
3.5. KHẢ NĂNG CHÚ Ý CỦA HỌC SINH 7-15 TUỔI .........................................74
3.5.1. Độ tập trung chú ý của học sinh 7-15 tuổi ..................................................74
3.5.2. Độ chính xác chú ý của học sinh 7-15 tuổi .................................................77
3.6. MỐI TƢƠNG QUAN GIỮA NĂNG LỰC TRÍ TUỆ VÀ MỘT SỐ CHỈ SỐ
SINH HỌC CỦA HỌC SINH TỪ 7-15 TUỔI .........................................................80
3.6.1. Mối tƣơng quan giữa chỉ số IQ với một số chỉ số sinh học của học sinh từ
7-11 tuổi ................................................................................................................80
3.6.2. Mối tƣơng quan giữa chỉ số IQ với một số chỉ số sinh học của học sinh từ
12-15 tuổi ..............................................................................................................83
Chƣơng 4. BÀN LUẬN ............................................................................................87
4.1. Thể lực của học sinh 7-15 tuổi ...........................................................................87
4.2. Trí tuệ của học sinh 7-15 tuổi ............................................................................91
Phần 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ..................................................................94
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................98
PHỤ LỤC ...............................................................................................................106
1
Phần 1. MỞ ĐẦU
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đổi mới phƣơng pháp dạy học là một trong những trọng tâm của đổi
mới chƣơng trình và sách giáo khoa phổ thông [6]. Đổi mới cách dạy của
thầy chỉ đạt hiệu quả khi đồng hành với đổi mới cách học của trò. Học sinh
chỉ có thể tự lực, chủ động đạt đƣợc các mục tiêu về kiến thức, kỹ năng, có
thái độ học tập tốt khi có thể lực, năng lực trí tuệ, sự tập trung chú ý, khả
năng ghi nhớ và tổng hợp kiến thức tốt. Để tổ chức đƣợc các hoạt động học
tập thích hợp, ngƣời giáo viên phải dựa vào tình trạng thể lực, năng lực trí
tuệ của học sinh ở từng vùng, từng khối lớp, từng lứa tuổi cũng nhƣ đặc
điểm về giới tính.
Hiện nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu các chỉ số về thể lực và
năng lực trí tuệ ở học sinh [9], [11], [12], [24], [30], [34], [35], [37] ... Đặc
biệt là công trình nghiên cứu của các tác giả trong nhóm đề tài “Nghiên
cứu các chỉ tiêu thể lực và trí tuệ ở học sinh” do GS.TSKH.Tạ Thuý Lan
làm chủ nhiệm và nhóm đề tài “Nghiên cứu đặc điểm sinh thể con ngƣời
Việt Nam, tình trạng dinh dƣỡng và các biện pháp nâng cao chất lƣợng sức
khoẻ” do GS.TS Lê Nam Trà làm chủ nhiệm. Kết quả của những công trình
nghiên cứu này sẽ giúp cho các ngành chức năng chăm lo sức khoẻ và năng
lực trí tuệ của học sinh lứa tuổi học đƣờng; giúp các thầy giáo, cô giáo có
cơ sở điều chỉnh phƣơng pháp tổ chức dạy học sao cho phù hợp với từng
đối tƣợng học sinh. Vì vậy, việc nghiên cứu thể lực và năng lực trí tuệ ở
học sinh, không chỉ là vấn đề quan tâm của ngành y tế, ngành thể dục thể
thao mà còn là vấn đề cấp thiết cần đƣợc ngành Giáo dục & Đào tạo quan
tâm nghiên cứu. Có nhƣ vậy thì giáo dục mới đào tạo đƣợc những con
ngƣời toàn diện về trí tuệ, thể chất và tinh thần.
2
Tân Yên là huyện miền núi nghèo nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Bắc
Giang. Năm học 2009-2010, trên địa bàn huyện có 4 trƣờng trung học phổ
thông, 1 trung tâm giáo dục thƣờng xuyên, 313 lớp với 10.530 học sinh bậc
trung học cơ sở, 473 lớp với 11.847 học sinh ở bậc tiểu học [67]. Hiện nay đã
có hai đề tài bƣớc đầu nghiên cứu về năng lực trí tuệ và một số chỉ số sinh
học của học sinh bậc trung học phổ thông trên địa bàn huyện. Tuy nhiên, chƣa
có nghiên cứu nào thực hiện trên đối tƣợng học sinh tiểu học và trung học cơ
sở, mặc dù các chỉ số này ở học sinh luôn thay đổi, phụ thuộc vào môi trƣờng
tự nhiên và xã hội, chế độ dinh dƣỡng, lƣợng thông tin. Vì vậy, việc nghiên
cứu thể lực, năng lực trí tuệ, khả năng ghi nhớ ở học sinh phải đƣợc tiến hành
thƣờng xuyên và liên tục ở mọi bậc học.
Trƣờng tiểu học, trung học cơ sở thị trấn Cao Thƣợng là một trƣờng trọng
điểm của huyện Tân Yên. Việc giáo dục toàn diện cho học sinh, giáo dục học
sinh "mũi nhọn" luôn đƣợc Ban Giám hiệu Nhà trƣờng, giáo viên và phụ
huynh học sinh quan tâm. Để đạt đƣợc mục tiêu đặt ra, Ban Giám hiệu, giáo
viên bộ môn nên có hiểu biết nhất định về tình trạng thể lực, năng lực trí tuệ
của học sinh nhằm đề xuất phƣơng pháp tổ chức giờ học sao cho phát huy
đƣợc tính tích cực, chủ động và sáng tạo của các em. Chính vì vậy, những kết
quả nghiên cứu về thể lực, năng lực trí tuệ, khả năng ghi nhớ của học sinh thị
trấn Cao Thƣợng, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang là hết sức cần thiết.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế trên, trong điều kiện thời gian cho phép,
chúng tôi chọn đề tài: “Nghiên cứu một số chỉ số sinh học và trí tuệ của
học sinh thị trấn Cao Thƣợng, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang”.
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Xác định một số chỉ số về thể lực, trí nhớ, khả năng chú ý và trạng thái
cảm xúc của học sinh từ 7 đến 15 tuổi thuộc địa bàn nghiên cứu.
Xác định các chỉ số về trí tuệ của học sinh từ 7 đến 15 tuổi.
3
Xác định đƣợc mối tƣơng quan giữa các chỉ số nghiên cứu.
1.3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu một số chỉ số thể lực (chiều cao, cân nặng, vòng ngực, chỉ số
pignet, BMI), trí nhớ ngắn hạn, trạng thái cảm xúc, khả năng chú ý của học
sinh từ 7-15 tuổi.
Nghiên cứu năng lực trí tuệ (chỉ số IQ, mức trí tuệ) của học sinh từ 7-15
tuổi.
Phân tích mối tƣơng quan giữa các chỉ số nghiên cứu.
1.4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tƣợng nghiên cứu là 971 em học sinh từ 7 đến 15 tuổi, của trƣờng tiểu
học và trung học cơ sở thị trấn Cao Thƣợng, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang
năm học 2009-2010.
Phạm vi nghiên cứu là một số chỉ số sinh học và trí tuệ của học sinh từ 715 tuổi thuộc địa bàn nghiên cứu.
1.5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phƣơng pháp thu thập số liệu.
Phƣơng pháp tính tuổi.
Phƣơng pháp xử lý số liệu.
1.6. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
Đánh giá sự phát triển một số chỉ số thể lực (chiều cao, cân nặng, vòng
ngực, chỉ số pignet và BMI) và trí tuệ, trí nhớ, trạng thái cảm xúc, khả năng
chú ý của học sinh tiểu học và THCS thuộc địa bàn nghiên cứu. Xác định mối
tƣơng quan giữa chỉ số IQ với trí nhớ, IQ với khả năng chú ý của học sinh.
Hy vọng các kết quả nghiên cứu trong luận văn có thể đƣợc các thầy, cô
giáo dùng làm căn cứ để lựa chọn phƣơng pháp tổ chức dạy học phù hợp.
Giúp một số ngành chức năng có liên quan nhƣ y tế, thể dục thể thao trên địa
bàn huyện có cơ sở ban đầu phục vụ chiến lƣợc nâng cao tầm vóc và thể lực
con ngƣời, đặc biệt là học sinh tiểu học và THCS.
4
Phần 2. NỘI DUNG
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1.NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỂ LỰC
1.1.1. Về thể lực
Thể lực là khái niệm phản ánh cấu trúc tổng hợp của cơ thể, có liên quan
chặt chẽ tới sức lao động, khả năng học tập và thẩm mỹ của con ngƣời.
Nghiên cứu thể lực con ngƣời, đặc biệt là của thế hệ trẻ đã đƣợc các nhà khoa
học thực hiện từ lâu [59], [60], [61]....
Thể lực của trẻ là một chỉ tiêu phức hợp, đƣợc cấu thành từ các chỉ số về hình
thái nhƣ chiều cao, cân nặng, vòng ngực, vòng đầu, vòng cánh tay, vòng đùi. Để
đánh giá sự phát triển thể lực, tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã đƣa ra khuyến cáo
dùng hai chỉ số là chiều cao và cân nặng. Đây cũng là một chỉ tiêu hình thái quan
trọng đánh giá thể lực trong công tác tuyển chọn các chiến sỹ làm nhiệm vụ bảo
vệ an ninh tổ quốc và trật tự an toàn xã hội. Vòng ngực cũng là một chỉ tiêu không
thể thiếu sau hai chỉ tiêu này. Từ ba chỉ số cơ bản là chiều cao, cân nặng, vòng
ngực có thể tính thêm chỉ số pignet, BMI (Body Mass Index).
Chiều cao là một đặc điểm nhân chủng quan trọng, là dấu hiệu đƣợc nhận
xét sớm nhất trong hầu hết các lĩnh vực ứng dụng của nhân trắc học. Tuy
nhiên, không chỉ có sự khác biệt về chiều cao theo giới tính, giữa các dân tộc,
vùng miền cũng có sự khác biệt về chỉ số này. Nguyên nhân của những khác
biệt này có thể do tác động của môi trƣờng sống đến sự tăng trƣởng và phát
triển của con ngƣời trong các giai đoàn phát triển khác nhau [7], [37], [41]...
Khối lƣợng cơ thể cũng thay đổi theo quy luật giống nhƣ chiều cao.
Ngƣời miền Nam Việt Nam thƣờng có khối lƣợng cơ thể lớn hơn ngƣời miền
Bắc. Từ thế kỷ XIII đã có công trình của Tenon về cách tính khối lƣợng cơ
thể bằng kilogam (kg). Đến thế kỷ XIX, cân nặng đƣợc coi là một tiêu chuẩn
để đánh giá thể lực của con ngƣời (theo [29]).
5
Từ những năm 20 của thế kỷ trƣớc, các bác sỹ lâm sàng là những ngƣời
đầu tiên nghiên cứu số đo vòng ngực. Đến cuối thế kỷ XIX, vòng ngực đƣợc
trở thành một chỉ tiêu đánh giá thể lực sau chiều cao và cân nặng.
Tuy nhiên, việc đánh giá thể lực chỉ dựa trên một trong các chỉ số nhƣ cân
nặng, chiều cao hay vòng ngực đều không cho kết quả nhƣ mong muốn. Vì
vậy, ngƣời ta đã hợp nhất nhiều đại lƣợng tăng trƣởng vào một chỉ số chung
để đánh giá thể lực nhƣ chỉ số pignet (dùng chiều cao, cân nặng, vòng ngực)
và BMI (dùng chiều cao, cân nặng). Chỉ số pignet và BMI có ý nghĩa quan
trọng trong việc đánh giá sự phát triển thể chất của học sinh. Hiện nay tổ chức
Y tế thế giới (WHO), tổ chức Nông lƣơng thế giới đã công nhận BMI là chỉ
số đƣợc dùng để đánh giá mức độ gầy hay béo của một ngƣời. Trẻ gầy hoặc
béo đều không tốt cho sức khoẻ. Vì vậy, cần có chế độ dinh dƣỡng hợp lý, để
trẻ phát triển một cách cân đối giữa chiều cao và cân nặng. Đặc biệt, trong
giai đoạn hiện nay khi xã hội đòi hỏi một nguồn nhân lực chất lƣợng cao, có
tri thức, có kĩ năng, có sức khỏe. Do đó đã có rất nhiều công trình nghiên cứu
về vấn đề này [4], [12], [13], [41], ...
1.1.2. Chiều cao và thể lực ngƣời Việt Nam
Tại lễ công bố thành lập quỹ “1 triệu ly sữa cho trẻ em nghèo” tổ chức vào
ngày 30/06/2008 ở Hà Nội, phó viện trƣởng Viện Dinh dƣỡng Lê Thị Hợp
cho biết, chiều cao và thể lực ngƣời Việt Nam xếp vào loại yếu nhất khu vực.
Nam thanh niên 18 tuổi Việt Nam thấp hơn ngƣời Nhật Bản 8cm, còn nữ
thanh niên thấp hơn 4cm. Chiều cao trung bình của nam Việt Nam 18 tuổi là
trên 1,63m, còn của nữ là 1,52m. Trong khi đó, chiều cao trung bình của nam
cùng lứa tuổi trên thế giới là 1,76m, của nữ là 1,63m. Theo Viện Dinh dƣỡng
Quốc gia, thì từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1985, trung bình chiều cao của
ngƣời Việt Nam trƣởng thành tăng khoảng 1-1,3cm.
6
Tại sao chiều cao và thể lực ngƣời Việt Nam thuộc loại kém nhất khu
vực? Các chuyên gia dinh dƣỡng cho rằng, sở dĩ tồn tại hiện tƣợng này là do
một số nguyên nhân. Trƣớc tiên là tỷ lệ suy dinh dƣỡng ở nƣớc ta còn ở mức
cao so với thế giới. Điều này một phần do thu nhập của ngƣời dân thấp, phần
còn lại do bố mẹ nuôi con không đúng cách, chế độ ăn không hợp lý. Điểm
cần lƣu ý khác là nhiều phụ huynh để “tuột” mất thời kỳ phát triển thể lực và
chiều cao của con trẻ (từ 10-18 tuổi) do thiếu kiến thức về giai đoạn tăng
trƣởng chiều cao, hoặc chỉ ăn uống cho vừa khẩu vị mà quên chất lƣợng [75].
Theo kinh nghiệm của Nhật Bản, các yếu tố ảnh hƣởng đến chiều cao
gồm: Dinh dƣỡng chiếm 32%; Thể dục thể thao chiếm 20%; Môi trƣờng tâm
lý và xã hội 16%; Chỉ có 23% do di truyền [75].
Về dinh dƣỡng, theo tiến sỹ Nguyễn Thị Minh Kiều [77], món ăn Việt
Nam ngon, tốt cho sức khoẻ nhƣng chúng ta sử dụng thực phẩm chƣa hợp lý,
chƣa cân bằng các nhóm thức ăn, ít uống sữa, trong khi sữa giúp chiều cao
phát triển tối đa.
Theo bác sỹ Nguyễn Thanh Danh - Trung tâm Dinh dƣỡng Thành Phố Hồ
Chí Minh, ngủ nhiều và ngủ sâu có vai trò quan trọng trong việc “nâng” chiều
cao trẻ em. Chính trong giấc ngủ say, tuyến yên trong cơ thể trẻ tiết hormone
tăng trƣởng làm cho hai đầu mỏm sụn của xƣơng mọc dài thêm [77].
Bác sỹ Phan Vƣơng Huy Đổng - phó Chủ tịch Hội Y học Thể dục thể thao
thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, mảng chăm sóc sức khoẻ học đƣờng hiện
còn yếu. Ông đề nghị tăng cƣờng kiến thức về y học thể thao cho học sinh, để
phòng tránh, xử lý chấn thƣơng [77].
Muốn nâng cao thể lực, chiều cao của thanh niên Việt Nam, Nhà nƣớc cần
có chiến lƣợc dài hơn, có sự phối hợp giữa các chuyên gia dinh dƣỡng và y tế,
đƣa ra chƣơng trình cải tạo giống nòi vào trƣờng học.
7
1.1.3. Chƣơng trình nâng cao tầm vóc và thể lực ngƣời Việt Nam
Chƣơng trình nâng cao thể lực và tầm vóc ngƣời Việt Nam là một dự án
cấp Nhà nƣớc đƣợc thực hiện từ năm 2005-2030, nhằm cải thiện rõ rệt thể
lực và tầm vóc của ngƣời Việt Nam trong khoảng thời gian 25 năm, góp
phần nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực, tạo cơ sở tốt cho quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế và bảo vệ an ninh quốc phòng. Chƣơng trình bao gồm
4 đề án lớn: Xúc tiến nghiên cứu cơ bản phục vụ nâng cao thể lực và tầm
vóc con ngƣời; Tiến hành chăm sóc dinh dƣỡng cho học sinh từ 6 - 18 tuổi;
Phát triển thể dục thể thao trƣờng học góp phần nâng cao thể lực và tầm
vóc cho học sinh từ 6 - 18 tuổi; Giáo dục và tuyên truyền về nâng cao thể
lực và tầm vóc ngƣời Việt Nam.
Đối tƣợng của đề án (3) là các trƣờng tiểu học, THCS, THPT. Nhƣng theo
sự chỉ đạo của Chính phủ trong giai đoạn này sẽ thực hiện thí điểm thêm trên
đối tƣợng mẫu giáo để đến năm 2010 tiến hành nghiên cứu mở rộng trên đối
tƣợng này.
Chƣơng trình sẽ đƣợc tiến hành trong 25 năm và đƣợc chia làm 3 giai
đoạn: Giai đoạn 1 (2005-2010) thực hiện thí điểm. Giai đoạn 2 (2010-2020)
thực hiện mở rộng diện các trƣờng thí điểm. Giai đoạn 3 (2021-2030) phổ
cập rộng rãi và hoàn thiện chƣơng trình. Ở giai đoạn 1, đối tƣợng đƣợc
hƣởng chƣơng trình là những gia đình đã thoát nghèo, học sinh ở lứa tuổi
tiểu học, THCS và đầu THPT. Theo chƣơng trình, kết thúc giai đoạn 1,
chiều cao trung bình của nam thanh niên 18 tuổi sẽ đạt từ 165cm-166cm,
của nữ đạt 154cm-155cm. Đến cuối năm 2030 tố chất thể lực của thanh
niên Việt Nam đạt xấp xỉ với các nƣớc trong khu vực. Để đạt đƣợc các mục
tiêu đề ra trong chƣơng trình này, phải xác định thực trạng về thể lực và trí
tuệ của học sinh.
8
1.1.4. Tình hình nghiên cứu thể lực ở trẻ em
Những nghiên cứu về tăng trƣởng và phát triển của trẻ em đƣợc bắt đầu
vào khoảng giữa thế kỷ XVIII. Năm 1729, cuốn sách đầu tiên về sự tăng
trƣởng chiều cao ở ngƣời của A.Stoeller đƣợc xuất bản. Tuy nhiên, trong
cuốn sách này chƣa có những số liệu đo đạc cụ thể. Năm 1754, các số liệu đo
đạc về cân nặng, chiều cao và các đại lƣợng khác của một loạt trẻ trai, trẻ gái
và thanh niên từ 1-25 tuổi tại các trại trẻ mồ côi Hoàng gia ở Berlin và một số
nơi khác trên nƣớc Đức, đã đƣợc tác giả Christian Friedrich Jumpert trình bày
trong luận án tiến sĩ của mình. Công trình này đƣợc xem là nghiên cứu cắt
ngang đầu tiên về tăng trƣởng ở trẻ em (theo[9]).
Nghiên cứu dọc đầu tiên về chiều cao đƣợc thực hiện bởi Philibert
Guénneaude Monbeilard trên con trai của mình từ năm 1759 đến năm 1777.
Đây là nghiên cứu tốt nhất đã đƣợc tiến hành cho đến nay và đƣợc trích dẫn
trong các nghiên cứu về tăng trƣởng trong suốt thế kỷ XIX (theo [60]).
Hình thái thể lực con ngƣời Việt Nam đƣợc nghiên cứu lần đầu tiên vào
năm 1875 do Mondiere thực hiện và sau này là của Huard và Bogot (1938),
Đỗ Xuân Hợp (1943) [60]. Tác phẩm “Hình thái học và giải phẫu học mỹ
thuật” là một trong số những tác phẩm đầu tiên của bác sỹ Đỗ Xuân Hợp
(cộng tác với Huard), đƣợc xem là một công trình đầu tiên nghiên cứu về
hình thái ngƣời Việt Nam.
Năm 1975, cuốn sách “Hằng số sinh học của ngƣời Việt Nam” do giáo sƣ
Nguyễn Tấn Gi Trọng làm chủ biên [61] đƣợc xuất bản. Đó là một công trình
nghiên cứu tƣơng đối công phu, khá hoàn chỉnh về các chỉ số sinh học, sinh
lý, sinh hóa của ngƣời Việt Nam.
Năm 1991, thông qua việc nghiên cứu gần 50 chỉ số nhân trắc của 1478
học sinh phổ thông Đào Duy Khuê [30] đã rút ra kết luận về sự tăng trƣởng
kích thƣớc thể lực theo tuổi ở cả hai giới tính. Tuy nhiên, tốc độ tăng trƣởng
các thông số này không theo tuổi và giới tính.
9
Năm 1992, Thẩm Thị Hoàng Điệp [12] thông qua việc nghiên cứu dọc đối
với 31 chỉ số nhân trắc của học sinh phổ thông từ 6 đến 17 tuổi ở Hà Nội, đã
đƣa ra kết luận chiều cao của nữ phát triển mạnh nhất ở tuổi 11-12, của nam
mạnh nhất ở tuổi 13-15. Cân nặng phát triển mạnh nhất ở tuổi 13 đối với nữ,
ở tuổi 15 đối với nam.
Năm 1998, Trần Đình Long và CS [43] đã tiến hành nghiên cứu trên học
sinh nhóm tuổi từ 6 đến 16 tuổi ở thị xã Thái Bình. Các tác giả nhận thấy, từ
11 đến 14 tuổi, trẻ nữ vƣợt trội hơn trẻ nam về các kích thƣớc nghiên cứu, còn
từ 15 đến 16 tuổi trẻ nam lại phát triển vƣợt trội so với trẻ nữ.
Năm 2002, tác giả Trần Thị Loan [41] nghiên cứu một số chỉ số thể lực
của 3023 học sinh từ 6 đến 17 tuổi tại một số trƣờng phổ thông thành phố Hà
Nội đã cho thấy, chiều cao của học sinh nam tăng nhanh ở giai đoạn 11-15
tuổi, của học sinh nữ ở giai đoạn 10-13 tuổi. Cân nặng của học sinh nam tăng
nhanh lúc 14-16 tuổi và của học sinh nữ lúc 11-14 tuổi. Vòng ngực trung
bình của học sinh nam tăng nhanh lúc 13-16 tuổi, ở học sinh nữ lúc 12-14
tuổi. Chỉ số pignet của học sinh cả hai giới tính tăng ở giai đoạn đầu khi tốc
độ tăng chiều cao nhanh hơn so với tốc độ tăng cân nặng và vòng ngực. Còn
BMI ở học sinh nam và học sinh nữ tăng dần theo tuổi do trong quá trình phát
triển cá thể từ 6 đến 17 tuổi, mức tăng cân nặng của học sinh lớn hơn so với
mức tăng chiều cao.
Năm 2008, Đỗ Hồng Cƣờng [9] nghiên cứu một số chỉ số sinh học của
học sinh THCS các dân tộc ở tỉnh Hoà Bình đã cho thấy, các chỉ số chiều cao,
cân nặng và các vòng của học sinh tăng dần theo tuổi, tốc độ tăng các chỉ số
không đều. Chỉ số pignet của học sinh nằm trong nhóm trung bình và yếu,
còn BMI thuộc nhóm gầy.
Năn 2006, Trung tâm Tâm lý học và sinh lí lứa tuổi thuộc Viện Chiến
lƣợc và Chƣơng trình giáo dục [56] đã tiến hành nghiên cứu các chỉ số cơ bản
10
về sinh lí và tâm lý của 12.824 học sinh phổ thông từ 8 đến 20 tuổi. Kết quả
nghiên cứu cho thấy, về chiều cao đứng của học sinh nam lứa tuổi 11-15 và
học sinh nữ ở mọi lứa tuổi (trừ 16 và 18 tuổi) đã thoát khỏi trạng thái còi cọc.
Về cân nặng, trong nhóm trẻ cùng độ tuổi có sự phân hóa sâu sắc, bên cạnh
những trẻ nhẹ cân đã xuất hiện những trẻ có dấu hiệu béo phì, đặc biệt là các
trẻ ở thành phố lớn.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về thể lực của học sinh Việt Nam
khá phong phú. Tuy các công trình có ít nhiều khác nhau nhƣng cùng xác
định đƣợc, thể lực biến đổi theo lứa tuổi, theo giới tính và thay đổi theo từng
miền, từng nhóm dân tộc khác nhau.
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRÍ TUỆ
1.2.1. Khái niệm trí tuệ
Các nhà tâm lý học khác nhau thông qua các thí nghiệm và tƣ duy đã đƣa
ra định nghĩa khác nhau về trí tuệ. Trí tuệ, tiếng Latinh (Intellectus) có nghĩa
là hiểu biết, thông tuệ [44]. Theo từ điển tiếng Việt [69], trí tuệ là khả năng
nhận thức lý tính đạt đến một trình độ nhất định. Trí tuệ là khả năng hoạt
động trí óc đặc trƣng của con ngƣời [44]. Ngoài ra, còn có nhiều thuật ngữ
khác nhau dùng để mô tả năng lực trí tuệ nhƣ: trí khôn, trí lực, trí thông
minh…, nhƣng chúng đều xuất phát từ tiếng Anh intelligence [16], [17],…Trí
khôn là khả năng suy nghĩ và hiểu biết [48], trí khôn đạt đến mức tƣ duy trừu
tƣợng thì gọi là trí tuệ [68]; trí lực thuộc bình diện năng lực hoạt động trí tuệ
của cá nhân [31]. Trí thông minh có 2 nghĩa: Một là có trí lực tốt, hiểu nhanh,
tiếp thu nhanh; Hai là nhanh trí và khôn khéo, tài tình trong cách ứng đáp đối
phó [48].
Bản chất của trí thông minh là một phẩm chất cao của tƣ duy sáng tạo đƣa
đến sự giải quyết vấn đề một cách mau lẹ và thích hợp trong tình hình mới.
Nó không chỉ thể hiện ở sự nhận thức mà biểu hiện cả trong hành động thực
tiễn [18].
11
Hiện nay có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về trí tuệ. Wechsler D
cho rằng, trí tuệ là khả năng tổng thể hoạt động một cách có suy nghĩ, tƣ duy
hợp lý, chế ngự đƣợc môi trƣờng xung quanh [72]. Trí tuệ là khả năng xử lý
thông tin để giải quyết vấn đề và nhanh chóng thích nghi với tình huống mới.
Theo H. Gardner, trí tuệ bao gồm nhiều năng lực thích ứng khác nhau [17].
1.2.2. Sự phát triển của trí tuệ
Sự phát triển của trí tuệ là một vấn đề đƣợc nhiều nhà nghiên cứu quan
tâm. Mỗi tác giả có quan điểm riêng về sự phát triển trí tuệ nhƣng đều thống
nhất cho rằng, sự phát triển trí tuệ là quá trình tạo lập ra cấu trúc trí tuệ mới
theo khuynh hƣớng kế thừa [44]. Piaget [47] cho rằng, sự phát triển trí tuệ là
sản phẩm của hoạt động cá nhân. Khi hoạt động, tác động lên các sự vật, hiện
tƣợng, con ngƣời sẽ tích lũy đƣợc những kinh nghiệm, góp phần hình thành
nên cấu trúc trí tuệ mới.
Sự phát triển trí tuệ của trẻ em phải trải qua các giai đoạn khác nhau, từ
trẻ sơ sinh đến tuổi trƣởng thành. Quá trình này không diễn ra đều đặn, không
ổn định mà thay đổi thƣờng xuyên về nhịp độ và tốc độ.
Khả năng hoạt động trí tuệ của con ngƣời qua các giai đoạn phát triển có
liên quan đến sự phát triển, trƣởng thành và lão hóa của hệ thần kinh. Các
chức năng của não bộ, trƣởng thành vào thời kỳ thanh thiếu niên [44]. Quá
trình phát triển cũng nhƣ tốc độ lão hóa của hệ thần kinh phụ thuộc vào chế
độ luyện tập và hoạt động của nó [70].
Nhƣ vậy, trí tuệ của con ngƣời gắn liền với sự phát triển, hoàn thiện hóa
của hệ thần kinh, nó phụ thuộc vào lƣợng thông tin, tri thức mà con ngƣời thu
nhận đƣợc. Trong đó, yếu tố sinh học - di truyền là tiền đề vật chất, hoạt động
cá nhân là động lực quyết định và môi trƣờng - xã hội là yếu tốt thúc đẩy sự
phát triển trí tuệ [4], [44], [47].
12
1.2.3 Phƣơng pháp đánh giá trí tuệ
Phƣơng pháp phổ biến hiện nay dùng để đánh giá trí tuệ là sử dụng trắc nghiệm.
Theo nguyên nghĩa thì trắc nghiệm (test) là phép thử, phép đo. Đó là công
cụ đã đƣợc tiêu chuẩn hóa, dùng để đo lƣờng khách quan một hay nhiều khía
cạnh của một nhân cách hoàn chỉnh qua những mẫu trả lời bằng ngôn ngữ hay
phi ngôn ngữ hoặc những loại hành vi khác nhau [16]. Một trắc nghiệm đã
đƣợc chuẩn hóa phải đảm bảo những tiêu chuẩn sau [44]:
- Tính hiệu quả hay độ ứng nghiệm (Validity)
- Độ tin cậy hay tính trung thành (Fedelity)
- Độ phân biệt (Diference)
- Tính quy chuẩn (Standardize)
Nhờ có tính chuẩn hóa mà trắc nghiệm ngày càng đƣợc sử dụng rộng rãi.
Năm 1905, Binet và Simon đã dùng test nghiên cứu trí tuệ để phân biệt trẻ em
học kém bình thƣờng và trẻ em học kém do trí tuệ chậm phát triển. Năm
1912, W.Stern đã đƣa ra khái niệm “hệ số thông minh” (Intelligence
Quotient) viết tắt là IQ qua công thức sau:
IQ
MA
100
CA
(1)
Trong đó: MA (Mental Age) - Tuổi trí khôn đƣợc tính theo kết quả bài
trắc nghiệm; CA (Chrorological Age) - Tuổi thời gian tính theo ngày tháng
năm sinh.
Nhƣ vậy, hệ số IQ chỉ ra sự vƣợt lên trƣớc hay chậm lại của tuổi trí khôn
(MA) so với tuổi thời gian (CA). Giữa tuổi trí khôn và tuổi thời gian có mối
tƣơng quan tuyến tính. D. Wechsler, không đồng ý với khái niệm IQ của
W.Stern. Ông cho rằng, sự phát triển trí tuệ diễn ra trong suốt đời ngƣời một
cách không đồng đều nên một đại lƣợng nhƣ vậy không thể đánh giá đƣợc sự
phát triển của trí tuệ và không phải là một chỉ số thông minh [66]. Ông đƣa ra
khái niệm IQ bằng công thức sau:
13
IQ =
X X
15 100
SD
(2)
Trong đó: X là điểm trắc nghiệm cá nhân; X là điểm trắc nghiệm trung
bình trong cùng một độ tuổi; SD là độ lệch chuẩn.
Mỗi điểm trắc nghiệm ở đây sẽ có một giá trị IQ tƣơng đƣơng. Dựa trên
chỉ số IQ, ngƣời ta phân thành 7 mức trí tuệ khác nhau (bảng 1.1) (theo [53]).
Để tính đƣợc chỉ số IQ ngƣời ta thƣờng sử dụng các loại test khác nhau.
Trong số đó test Raven đƣợc sử dụng rộng rãi.
Bảng 1.1. Phân loại chỉ số IQ và mức trí tuệ
STT
Chỉ số IQ
Mức trí tuệ
Loại trí tuệ
1
≥ 130
I
Rất xuất sắc
2
120 – 129
II
Xuất sắc
3
110 – 119
III
Thông minh
4
90 – 109
IV
Trung bình
5
80 – 89
V
Tầm thƣờng
6
70 – 79
VI
Kém
7
<70
VII
Ngu độn
Test Raven đƣợc xây dựng trên cơ sở thuyết tri giác hình thể của Tâm lý
học Gestal và thuyết tân phát sinh của Spearman [25]. Sau hai lần chuẩn hóa
vào những năm 1954 và 1956, test Raven đã đƣợc UNESCO công nhận và
chính thức đƣa vào sử dụng để chẩn đoán trí tuệ con ngƣời từ những năm
1960 [1], [2], [55].
Tuy nhiên, do phƣơng pháp trắc nghiệm chỉ chú ý tới kết quả cuối cùng
của bài tập mà ít quan tâm tới tiến trình thực hiện của nghiệm thể nên không
14
thể phản ánh xu hƣớng phát triển của trí tuệ. Hệ thống bài tập trắc nghiệm chỉ
hƣớng tới một yếu tố nhất định, bỏ qua nhiều yếu tố tâm lý nên kết quả chƣa
hẳn đã phản ánh khả năng thực chất của cá thể trong tình huống khác nhau.
Các bài tập trắc nghiệm phần lớn đo lƣờng tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, tƣ duy,
là những yếu tố dễ thay đổi và phát triển trong quá trình dạy và học. Vì vậy,
kết quả thực hiện các bài tập không thể coi là ổn định, cố định, phản ánh trung
thực mọi hoạt động trí tuệ [65].
Để đánh giá chính xác trí tuệ của con ngƣời, ngƣời ta cần phối hợp nhiều
phƣơng pháp nghiên cứu khác nhƣ: quan sát. thực nghiệm…Tuy nhiên, với
những ƣu điểm nổi bật, phƣơng pháp trắc nghiệm vẫn đƣợc sử dụng rộng rãi
ở Việt Nam.
1.2.4. Tình hình nghiên cứu trí tuệ ở Việt Nam
Ở Việt nam, trƣớc năm 1975 việc nghiên cứu về trí tuệ bằng cách dùng
test còn hạn chế, chỉ thƣờng dùng trong y tế để chẩn đoán bệnh [54]. Từ những
năm 80 trở lại đây, các công trình nghiên cứu về trí tuệ ngày càng nhiều.
Trần Trọng Thuỷ là ngƣời đầu tiên nghiên cứu sự phát triển trí tuệ của học
sinh Việt Nam. Từ kết quả nghiên cứu của mình, tác giả đã khẳng định tính
hiệu quả của test Raven với đối tƣợng học sinh Việt Nam và trình độ trí tuệ
học sinh Việt Nam không thua kém học sinh nƣớc ngoài [53].
Năm 1991, Ngô Công Hoàn [24], [25] nghiên cứu và so sánh trí tuệ của
học sinh chuyên toán và học sinh thƣờng đã cho thấy, có sự chênh lệch về
mức độ phát triển giữa hai đối tƣợng này.
Nguyễn Quang Uẩn (1994) [65], trong nghiên cứu của mình đã đề cập đến
vai trò và sự tƣơng tác của gen, văn hóa và môi trƣờng đối với sự phát triển trí
tuệ con ngƣời.
Tạ Thúy Lan, Võ Văn Toàn (1995) đã nghiên cứu năng lực trí tuệ của học
sinh tiểu học và trung học cơ sở ở Hà Nội và Quy Nhơn. Kết quả nghiên cứu
15
cho thấy, trí tuệ của học sinh phát triển theo lứa tuổi và năng lực trí tuệ của
học sinh Hà Nội cao hơn của học sinh Quy Nhơn [34].
Tạ Thúy Lan, Trần Thị Loan (1996), nghiên cứu đánh giá sự phát triển trí
tuệ của học sinh thành phố và học sinh nông thôn. Kết quả nghiên cứu cho
thấy, không có sự khác biệt giữa học sinh nam và học sinh nữ, học sinh thành
phố có mức trí tuệ cao hơn học sinh nông thôn [35], [40].
Tạ Thuý Lan, Mai Văn Hƣng [36] nghiên cứu trí tuệ của học sinh Thanh
Hoá cũng nhận thấy, năng lực trí tuệ của học sinh tăng dần theo tuổi và năng
lực trí tuệ của học sinh có mối tƣơng quan thuận với học lực.
Năm 2002, Trần Thị Loan, nghiên cứu trí tuệ của học sinh từ 6 – 17
tuổi ở quận Cầu Giấy- Hà Nội có nhận xét, quá trình phát triển trí tuệ của
học sinh diễn ra liên tục, tƣơng đối đồng đều và không có sự khác biệt về
giới tính [41].
Năm 2003, trong luận án tiến sĩ nghiên cứu một số chỉ số thể lực và năng
lực trí tuệ của sinh viên ở một số trƣờng đại học phía Bắc Việt Nam, tác giả
Mai Văn Hƣng [32] đã cho thấy, có mối tƣơng quan thuận không chặt chẽ
giữa trí tuệ và các chỉ số thể lực. Năng lực trí tuệ và khả năng tập trung chú ý
có mối tƣơng quan thuận [32]…
Mối liên quan giữa yếu tố di truyền và sự phát triển trí tuệ của học sinh
đƣợc Trịnh Văn Bảo [3], [4], nghiên cứu vào năm 1993 -1994. Kết quả cho
thấy, yếu tố di truyền là tiền đề cho sự phát triển trí tuệ của học sinh, chỉ số
thông minh và nhận thức trong quá trình học tập của học sinh phù hợp với kết
quả học tập.
Nhƣ vậy, trí tuệ và mối tƣơng quan giữa năng lực trí tuệ với các chỉ số
sinh học đã đƣợc nhiều tác giả nghiên cứu và đã đạt đƣợc những kết quả
nhất định [24], [28], [29], [34], [40], [41] ... Tuy nhiên, vẫn cần có những
số liệu của các vùng miền, khác nhau trên toàn quốc.
16
1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRÍ NHỚ
1.3.1. Khái niệm trí nhớ
Trí nhớ là hoạt động liên quan đến toàn bộ đời sống tinh thần của con
ngƣời và là thành phần quan trọng của trí tuệ [33], [39]. Trí nhớ của con
ngƣời là một trong số những chức năng tâm sinh lý cao cấp của não bộ [20],
có nhiều cách hiểu về trí nhớ. Trí nhớ phản ánh những sự vật, những hiện
tƣợng đã tác động vào cơ thể mà hiện tại không còn tồn tại. Đó là khả năng
lƣu giữ và tái hiện những gì ta đã cảm giác, đã tri giác, đã suy nghĩ, hành
động [38]. Ngƣời ta coi trí nhớ là sự vận dụng một khái niệm đã biết trƣớc và
là kết quả hoạt động của hệ thần kinh [33], [39].
Đặc điểm hoạt động của não bộ cho phép nó ghi nhận tất cả những gì tác
động lên cơ thể từ lúc mới sinh đến lúc chết. Trong cuộc sống hàng ngày, cả
những gì chúng ta không quan tâm đến thì các phân tích quan vẫn tiếp nhận
nó và lƣu giữ trong não bộ [33]. Không có trí nhớ thì con ngƣời sẽ không có
quá khứ, không có tƣơng lai mà chỉ có hiện tại tức thời.
Trong quá trình nhớ, não thực hiện việc khái quát hoá các hình ảnh đã
cảm giác, tri giác trƣớc đây thành các biểu tƣợng. Bởi vậy, trí nhớ đƣợc xem
nhƣ là một bƣớc chuyển tiếp từ nhận thức cảm tính lên nhận thức lí tính [33].
Trí nhớ của con ngƣời là một hoạt động phức tạp, có bản chất là việc hình
thành các đƣờng liên hệ thần kinh tạm thời, lƣu giữ và tái hiện chúng [38].
L.Vƣgotxki viết “Bản chất trí nhớ ở con ngƣời là con ngƣời dùng các dấu
hiệu để nhớ một cách tích cực” (theo [8]).
Từ những nghiên cứu về trí nhớ ở mức neuron, Hyden cho rằng, cơ sở của
trí nhớ là sự thay đổi trong cấu trúc phân tử của axit ribo nucleic (ARN) [33].
Trí nhớ, là khả năng lƣu giữ và phục hồi thông tin gắn với các kinh nghiệm
trƣớc đó. Trí nhớ của con ngƣời đƣợc hình thành qua hai giai đoạn là trí nhớ
dài hạn và trí nhớ ngắn hạn. Ngày nay, cơ chế của sự lƣu giữ thông tin đƣợc
17
nghiên cứu sâu hơn. Tuy nhiên, chƣa có một cơ chế lý thuyết thống nhất về cơ
chế nhớ. Trí nhớ cũng là lĩnh vực còn chứa nhiều điều bí ẩn liên quan tới hoạt
động của hàng chục tỷ nơron trong hệ thần kinh.
1.3.2. Cấu trúc não liên quan đến trí nhớ
Các ký ức tập trung trong não của chúng ta, chen lấn nhau ở đó. Nhƣng
các ký ức này đƣợc cất giữ ở đâu? Chúng đƣợc ghi dấu nhƣ thế nào trong
não? Cũng nhƣ nó đƣợc lấy ra nhƣ thế nào? Theo dõi hình ảnh hoạt động của
não cho phép bƣớc đầu trả lời những câu hỏi này. Để hình thành một ký ức có
thể sơ đồ hoá nhƣ là một chuỗi liên tiếp 4 quá trình nhận thức thần kinh: mã
hoá, ghi nhớ, củng cố và tái tạo thông tin. Bốn quá trình này liên quan đến các
vùng khác nhau của não.
Tất cả các thông tin đều đến não qua các giác quan. Chúng đƣợc xử lý, mã
hoá và biến đổi thành các vệt nhớ để đƣợc lƣu giữ. Vỏ trán trái và thuỳ cá ngựa
phải và trái tham gia vào quá trình mã hoá [76]. Thông tin đã đƣợc mã hoá sẽ
đƣợc ghi nhớ cuối cùng trong tân não, vùng chẩm cho các thông tin thị giác
chi tiết, vùng thái dƣơng ngoài cho các thông tin ngữ nghĩa. Mức độ ghi nhớ
tuỳ thuộc vào chất lƣợng củng cố.
Để không quên, các thông tin phải đƣợc củng cố. Quá trình này xảy ra
không ngừng và chậm, nó kéo dài trong thời gian có thể đến 10 năm. Ở đây
thuỳ cá ngựa giữ vai trò trung tâm. Vai trò này đƣợc tích hợp trong cung thần
kinh “Papez” (do nhà giải phẫu học James Papez mô tả năm 1937) bao gồm
thuỳ cá ngựa, vòm, thể vú và hồi đai. Vai trò của cung này là phân bố các
thông tin liên quan đến ký ức trong tân não.Ở thời điểm nhớ lại hiện tƣợng,
các yếu tố cấu trúc khác nhau của ký ức đƣợc “tái tổ hợp”. Một ký ức càng
đƣợc mã hoá tốt, càng có cấu trúc tốt, càng dễ nhớ lại.
Các nhà khoa học thần kinh đang nghiên cứu các thay đổi tế bào học xảy
ra trong trí nhớ và khi học tập. Hạnh nhân có thể hoạt động nhƣ một bộ lọc trí
- Xem thêm -