ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------***------
TRẦN XUÂN HỒNG
NGHIấN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIấN TRƯỜNG
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
THỰC TRẠNG - NGUYÊN NHÂN - GIẢI PHÁP
LUận văn thạc sỹ khoa học xã hội học
Hà nội - 2007
97
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA XÃ HỘI HỌC
------***------
NGHIấN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIấN TRƯỜNG
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
THỰC TRẠNG - NGUYÊN NHÂN - GIẢI PHÁP
CHUYÊN NGÀNH :XÃ HỘI HỌC
MÃ SỐ : 603130
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : PGS.TS.Lấ NGỌC HÙNG
NGƯỜI THỰC HIỆN : TRẦN XUÂN HỒNG
HÀ NỘI - 2007
96
☺Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài :
Về mặt thực tiễn, những người làm công tác quản lý đào tạo và nghiên cứu
khoa học của nhà trường, quan tâm tới mâu thuẫn giữa phương hướng phát
triển chiến lược của nhà trường trong nghị quyết đại hội đảng bộ lần thứ
XXVI năm 2006: xây dựng Trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà
Nội theo hướng một trường “Đại học nghiên cứu chất lượng cao” với thực tế
hiện tại nhà trường là “Trường Đại học ít chất nghiên cứu”. Với những đánh
giá như, chúng ta đang đào tạo những gì có, chưa thực sự đào tạo những gì xã
hội cần. Phương pháp giảng dạy cổ điển, nặng về lý thuyết, chậm đổi mới.
Sinh viên học một cách thụ động, thiếu sáng tạo. Hoạt động nghiên cứu khoa
học chỉ có tính chất phong trào chưa có tính bắt buộc bằng cơ chế. Sản phẩm
đào tạo là những cử nhân tốt nghiệp, chưa đáp ứng được yêu cầu của thị
trường...Hiện nay nhà trường đang thực hiện bước đột phá trong công tác đào
tạo đó là chuyển dần từ hình thức đào tạo niên chế sang hình thức đào tạo theo
tín chỉ nhằm mục đích nâng cao hơn hàm lượng nghiên cứu trong quá trình
đạo tạo và bám sát yêu cầu của thị trường lao động…Muốn vậy, một trong
những bước đi cần thiết cho sự chuyển đổi đó là nhà trường phải xác định và
đánh giá chính xác các điều kiện hiện tại về mọi mặt của mình. Đặc biệt là nhà
trường phải đánh giá được việc thực hiện nhiệm vụ cơ bản là giảng dạy và
nghiên cứu khoa học của tập thể đông đảo giảng viên và sinh viên của trong
trường. Câu hỏi đặt ra là hịên nay hoạt động nghiờn cứu khoa học của sinh
viờn trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà
Nội đang được thực hiện như thế nào ?
Về mặt lý luận khoa học, nghiên cứu khoa học sinh viên là một trong những
chủ đề cơ bản của xã hội học giáo dục và xã hội học. Đã có nhiều nghiên cứu
1
khoa học về phương pháp học, lối sống, nhận thức về tình yêu, tình bạn sinh
viên...Cũng đã có một số nghiên cứu về hoạt động NCKH của sinh viên nhưng
míi chỉ nghiên cứu một vài khía cạnh, hoặc những hình thức đơn lẻ của hoạt
động này. Những nghiên cứu đầu đủ về tất cả các hình thức hoạt động NCKH
của sinh viên dưới góc độ xã hội học còn rất ít. ở nghiên cứu này, dưới góc độ
xó hội học chúng tôi muốn góp phần trả lời câu hỏi trên đây bằng cách chọn chủ
đề “Nghiên cứu khoa học của sinh viên Trường Đaị học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, Thực trạng - Nguyên nhân - Giải pháp”, để nghiên cứu. Mục đích của nghiên
cứu là nhằm tìm ra các luận cứ khoa học cụ thể để đánh giá mức độ thực hiện các
hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên hiện nay, xác định những nguyên
nhân, đề ra những giải pháp cho công tác quản lý đào tạo, quản lý nghiên cứu khoa
học và những định hướng cho việc xây dựng Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn thành một trường Đại học nghiên cứu chất lượng cao trong thời gian tới.
2. ý nghĩa khoa học và thực tiễn :
2.1 ý nghĩa khoa học :
- Vận dụng một số kiến thức xó hội học để nghiên cứu một vấn đề xã hội cụ
thể là vị trí, vai trò của NCKH của sinh viên trong trương đại học, qua đó
cung cấp một số phát hiện, góp phần bổ sung và phát triển xã hội học giáo dục
và xã hội học tri thức khoa học.
2.2 ý nghĩa thực tiễn:
- Góp phần tìm ra những luận cứ khoa học cho việc triển khai cỏc hoạt động
định hướng “xây dựng Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà nội
thành trường đại học nghiên cứu chất lượng cao” trong đó giảng dạy, học tập
gắn liền với nghiên cứu khoa học thời gian tới.
2.3. Điểm mới của luận văn:
2
- Lần đầu tiên từ gúc độ xó hội học, khảo sát toàn bộ 8 hình thức nghiờn cứu
khoa học cơ bản do ĐHQG HN quy định :
+ Thực tập thực tế (kể cả các hình thức thực tập thực tế phục vụ cho mỗi môn
học do giảng viên yêu cầu).
+ Khoá luận tốt nghiệp
+ Thảo luận chuyên đề (Seminar)
+ Tham gia các câu lạc bộ khoa học
+ Viết bài tham dự hội thảo khoa học
+ Viết bài báo khoa học công bố trên các tạp chí khoa học chuyên ngành
+ Thực hiện báo cáo khoa học tại hội nghị khoa học sinh viên hàng năm
+ Tham gia các dự án nghiên cứu thực tế.
- Nhiệm vụ lý luận là nghiên cứu, phân tích, hệ thống hoá những quan niệm,
khái niệm về nghiên cứu khoa học của sinh viên.
- Đánh giá thực chất nghiên cứu khoa học của sinh viên trong quá trình đào
tạo của nhà trường, phân tích những nguyên nhân, đề ra những giải pháp cho
hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên nhà trường.
4. Nhiêm vụ nghiên cứu :
- Mô tả (định lượng), mức độ tham gia thực hiện các hình thức hoạt động
nghiên cứu khoa học của sinh viên trong trường.
- Mô tả và đánh giá mức độ chủ động, sáng tạo trong hoạt động nghiên cứu.
- Xác định và phân tích các nguyên nhân cơ bản tác động tới các hình thức
hoạt động nghiên cứu khoa học đó.
- Đề ra một số giải pháp nâng cao tính chất nghiên cứu trong học tập và đào
tạo của sinh viờn và nhà trường.
5. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
5.1. Khách thể nghiên cứu:
3
Sinh viên hệ chính quy văn bằng 1, 2, chất lượng thường và chất lương cao từ
năm thứ 1 đến năm thứ 4 hiện đang học tại trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn - ĐHQGHN.
5.2. Đối tượng nghiên cứu:
Hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viờn Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn. Thực trạng - nguyên nhân - giải pháp.
5.3. Phạm vi nghiên cứu:
- Thời gian : Từ tháng 9/2006 – 9/2007
- Không gian : Tại trường ĐHKHXH&NV – HN
- Phạm vi vấn đề nghiên cứu : Các hình thức, mức độ thực hiện hoạt động
nghiờn cứu khoa học của sinh viờn hệ chính quy chất lượng thường và chất
lương cao từ năm thứ 1 đến năm thứ 4 hiện đang học tại trường.
6. Phương pháp nghiên cứu :
6.1. Phân tích tài liệu:
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
lần thứ hai mươi sáu (2006); Báo cáo tổng kết năm học 2006 - 2007 của nhà
trường; Báo cáo tổng kết các khoa hàng năm: Kết quả các báo cáo tổng kết
NCKH sinh viên năm 2001 - 2007; Biên bản thảo luận trên lớp; Danh sách
tên đề tài NCKH sinh viên các khoa; Danh sách tên đề tài khóa luận tốt
nghiệp; Các phụ lục, tên các báo cáo, kỷ yếu khoa học sinh viên...
Trong 5 khoa được chọn, có 3 khoa là Triết học, Văn học, Sử học là những
khoa có bề dày phát triển lâu năm, từ khi thành lập trường ĐHTH Hà Nội
(1956), được đánh giá là những ngành khoa học có tính chất lý luận, lý thuyết
làm cơ sở cho cho các ngành khoa học khác nhiều hơn. Hai ngành là Xã hội
học (1991) và Khoa học Quản lý (2002) đựơc coi là trẻ và có tính ứng dụng
và thực nghiệm nhiều hơn.
4
6.5. Các phương pháp chọn mẫu :
Vì các thuộc tính của sinh viên như số lượng, tỷ lệ giới tính... tương đối thuần
nhất cho nên, để mẫu mang tính đại diện, số lượng phiếu được chọn tương đối
bằng nhau cho năm khoa và bốn khoá từ khoá năm thứ nhất đến năm thứ tư
được chọn. Số phiếu được phỏng vấn ngay tại các lớp học vào cuối các giờ
học. Các điều tra viên căn cứ vào các thuộc tính của sinh viên như khoa,
khoá, giới tính, nơi xuất thân, để chọn phỏng vấn lấy ý kiến. Số phiếu được
chọn cụ thể phân bố như sau:
Phân bố mẫu theo khoa
Triết học : 71 phiếu (20.2%)
Sử học: 72 phiếu (20,5%)
Văn học: 69 phiếu (19.6%)
Khoa học Quản lý: 70 phiếu (19.9%)
Xã hội học : 70 phiếu (19.9%)
Phân bố mẫu theo khóa
Năm thứ 1: 86 phiếu (24.4%)
Năm thứ 2 : 87 phiếu (24.7%)
Năm thứ 3 : 90 phiếu (25.6%)
Năm thứ 4 : 89 phiếu.(25.3%)
Cơ cấu giới tính
Nam : 54 (15.3%)
5
Nữ : 298 (84.7%)
Nơi sinh
Nông thôn : 233(66.2%)
Đô thị : 119(33.8%)
Tuổi
1983: 1(0.3%)
1984: 6(1.7%)
1985 : 82(23.3%)
1986 : 85(24.1%)
1987 : 97(27.6%)
1988 : 81(23.0%)
Lực học
Giỏi : 37 (10.5%)
Khá : 296 (84.1%)
Trung bình khá : 19 (5.4%)
Trung bình : 0 phiếu (0%)
6.4. Quan sát:
6
- Quan sát các buổi thảo luận (seminar) trên lớp, (2 lớp thuộc khoa Xã hội
học và Khoa học quản lý). Tác giả cùng tham dự buổi học trong đó giảng viên
giảng dạy theo phương pháp có cho sinh viên thảo luận các vấn đề phục vụ
cho bài giảng của môn học. Phương pháp tổ chức thảo luận, các nội dung,
phương pháp thảo luận, cách tranh luận, đánh giá cho điểm, số câu hỏi... được
nghi chép và mô tả cụ thể ở phần nội dung chính của luận văn.
Quan sát Hội nghị nghiên cứu khoa học sinh viên năm học 2006 - 2007 khoa
Xó hội học tổ chức
Quan sát Hội thảo khoa học trong nước do các khoa, các trung tâm nghiên
cứu tổ chức.
Quan sát Hội thảo quốc tế do Khoa Quốc tế học tổ chức có sinh viên tham
gia.
7. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết :
7.1. Giả thuyết :
- Sinh viên tham gia NCKH chủ yếu tập trung dưới các hình thức nghiên cứu
cú cỏc yếu tố bắt buộc và cú liên quan đến chương trỡnh đào tạo. Những hình
thức NCKH không có trong chương trình đào tạo, sinh viên tham gia với một
tỷ lệ nhỏ.
- Tỷ lệ sinh viờn tham gia NCKH không có sự khác biệt nhiều về số lượng ở
các khoa và tăng dần từ năm thứ nhất đến năm cuối khóa. Thái độ của sinh
viờn khi tham gia NCKH thụ động, khả năng sáng tạo ít được phát huy.
- Hoạt động NCKH của sinh viên phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố khách
quan bên ngoài như: phương pháp giảng dạy, yêu cầu của giảng viên, cơ chế
quản lý hoạt động giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học, nhu cầu từ phía thị
trường lao động và một số yếu tố tự thân mỗi sinh viên.
7
7.2. Khung lý thuyết :
Điều kiện
kinh tế – Xã hội
Đặc điểm
Phương thức
Quy chế
Thị trường lao
của sinh viên
đào tạo
của nhà
động
trường
Khoa
Lực
Chươ
PP
Quy
Các
kỹ
Dư
và
học
ng
dạy
định
lợi
năng
luân
Khoá
trỡnh
học
về
ích
nghề
xh
học
học
và
nck
nck
nghiệ
học
h
h
p
Thực trạng nghiên cứu khoa
học của sinh viên
Số
Cơ
Thỏi
Chất
Mức
Giỏ trị
lượng
cấu
độ
lượn
độ đa
lý luận
tỷ lệ
sinh
tham
g
dạng
và thực
sinhviê
viên
gia
sáng
cỏc
tiễn
n tham
tham
tạo
hỡnh
8
gia
gia
thức
NCKH
9
Nội dung chính
Chương i : Cơ sở lý luận
1. Cơ sở lý thuyết :
1.1. Quan điểm Mác-Xít về nhận thức khoa học:
- Nhận thức là một quá trình, từ trực quan sinh động mang tính cảm tính (cảm
giác, tri giác, biểu tượng) đến tư duy trừu tượng mang tính lý tính (khái niệm,
phán đoán, suy luận) và đến thực tiễn kiểm nghiệm là vòng khâu của nhận
thức bản chất của các sự vật và hiện tượng. Nghiên cứu khoa học là loại hoạt
động nhận thức đặc biệt của chủ thể là con người nhằm khám phá ngày càng
đầy đủ hơn về bản chất các sự vật, hiện tượng và sáng tạo các giải pháp tác
động trở lại sự vật, mãn nhu cầu nhận thức và cải tạo thế giới. Như vậy trước
hết đây phải là hoạt động tư duy trừu tượng ở cấp độ lý tính, nó không thể
thực hiện được khi không có các hoạt động ở giai đoạn nhận thức cảm tính
trước đó. Bởi vì giai đoạn nhận thức cảm tính là giai đoạn thu nhận tài liệu
của thế giới khách quan thông qua các giác quan như nghe, nhìn, ghi chép,
ghi nhớ, tái hiện bằng hệ thống biểu tượng như hình ảnh , ngôn ngữ. Giai
đoạn này cho phép nhận thức được từ các thuộc tính riêng lẻ của sự vật qua
cảm nhận trực tiếp, đến mối liên hệ nhiều mặt hơn của sự vật qua tri giác trực
tiếp, và cao hơn là có thể lưu giữ tái tạo hình ảnh một cách giám tiếp bằng hệ
thống biểu tượng. Nếu dừng lại ở đây thì hoạt động nhận thức không thể có
tính chất nghiên cứu. Để hiểu sâu bản chất sự vật, hiện tượng, thì hoạt động
nhận thức phải ở mức cao hơn đó là tư duy trừu tượng, bắt đầu từ khái niệm,
là sự phản ánh bao quát cả một lớp sự vật ở những thuộc tính cơ bản, những
mối liên hệ bản chất có tính chung tất yếu và tính quy luật bên trong. Khái
niệm là kết quả của sự tổng hợp khái quát biện chứng tài liệu thực nghiệm
khoa học và kinh nghiệm nhận thức cảm tính. Phán đoán là sự liên kết những
khái niệm để phản ánh mối liên hệ giữa các sự vật và hiện tượng, có tính chất
10
xác nhận hay phủ nhận, phán đoán được phản ánh trong ngôn ngữ các mệnh
đề. Suy lý (suy luận) là sự kết hợp nhiều phán đoán đã có. Nhờ suy luận (quy
nạp hay diễn dịch) kết hợp các mối liên hệ có tính quy luật trong nhiều phán
đoán, người nghiên cứu rút ra được những kết luận mới về mối liên hệ có tính
quy luật bên trong sự vật nhờ đó nhận thức những cái chưa biết.
- Đối với sinh viên, hoạt động nghiên cứu khoa học là hoạt động nhận thức có
tính chất lý tính cao hơn ở phổ thông trung học một bậc. Sinh viên được tiếp
nhận, tái tạo các tri thức khoa học được tổng kết thành hệ thống và qua NCKH
sinh viờn học cách tư duy, phương pháp khoa học lĩnh hội tri thức, kỹ năng
nghề nghiệp để trở thành các chuyên gia trong các lĩnh vực xã hội trong tương
lai. Yêu cầu của hoạt động nhận thức khoa học đòi hỏi sự cố gắng vượt bậc
của sinh viên trong thời gian học trong trường đại học.
1.2. Lý thuyết trao đổi và sự lựa chọn hợp lý:
Theo G.Homans, nhà xã hội học người Mỹ thì các cá nhân hành động tuân
theo nguyên tắc trao đổi giá trị vật chất và tinh thần như sự ủng hộ, tán thưởng
hay danh dự… Homans đưa ra 4 nguyên tắc tương tác giữa các cá nhân như
sau:
- Nếu một dạng hành vi được thưởng hay có lợi thì hành vi đó có xu hướng
lặp lại.
- Hành vi được thưởng, được lợi trong hoàn cảnh nào thì cá nhân sẽ có xu
hướng lặp lại hành vi đó trong hoàn cảnh tương tự.
- Nếu như phần thưởng, mối lợi đủ lớn thì cá nhân sẽ sẵn sàng bỏ ra nhiều
“chi phí” vật chất và tinh thần để đạt được nó.
- Mức độ hài lòng, thoả mãn với những phần thưởng, mối lợi cá nhân giành
được cao nhất ở lần đầu và có xu hướng giảm dần.
Tiêu điểm của thuyết lựa chọn hợp lý là chủ thể – người hành động. Các chủ
thể được xem là có mục đích hay mục tiêu về cái hành động của họ hướng
11
tới. Các chủ thể cũng được xem là có sở thích như các giá trị, các tiện ích.
Thuyết lựa chọn hợp lý không quan tâm đến tính chất các sở thích này cũng
như các nguồn của chúng. Cái quan trọng là hành động được thực hiện để đạt
được các đối tượng phù hợp với hệ thống sở thích của chủ thể. Về nguyên tắc,
lý thuyết này cho rằng mỗi cá nhân đều xuất phát từ động cơ duy lý - tức là
được tính toán kỹ lưỡng, và lựa chọn hành động nào đem lại lợi ích lớn nhất
với nguy cơ chi phí và thiệt hại nhỏ nhất.
Theo Friedman và Hechter thì các chủ thể hành động được xem là những
nhân vật hành động có mục đích, có mục tiêu và có sở thích riêng. Hành động
của chủ thể được thực hiện để đạt được mục đích, mục tiêu phù hợp với hệ
thống sở thích của chủ thể hành động. Tuy nhiên, trong quá trình hành động,
chủ thể chịu tác động của hai nhóm yếu tố:
+ Sự hiếm hoi của tiềm năng :
Mỗi chủ thể hành động có các tiềm năng khác nhau. Tiềm năng được hiểu là
điều kiện như mức sống, điều kiện kinh tế, thời gian… Đối với những người
có tiềm năng, mục đích có thể đạt được dễ dàng hơn so với những người ít
tiềm năng. Liên quan tới tiềm năng những chi phí, giá phải trả. Trong việc
theo đuổi mục đích, các chủ thể phải quan tâm tới cái giá của hành động lôi
cuốn nhất của họ. Các chủ thể có thể chọn cách không theo đuổi mục đích có
giá trị cao nhất nếu tiềm năng của bản thân là không đáng kể, nếu cơ may là
quá ít và nếu trong việc cố gắng để đạt được mục đích chủ thể hành động huỷ
hoại các cơ may có giá trị cao hơn kế tiếp của mình. Các chủ thể hành động
được xem là luôn tối đa hoá điều lợi cho mình.
+ Các thể chế xã hội :
Theo Friedman và Hechter thì các thể chế xã hội đã áp đặt khuôn mẫu hành
động cho các cá nhân (được phép hay không, thế nào là đúng, thế nào là
12
sai…) thông qua các tiêu chí, các quy luật, các lịch trình, các nguyên tắc tạo
ra sự ảnh hưởng có hệ thống với các kết quả xã hội.
Hai nhà xã hội học hành vi Mỹ A.jzen và Fisbein (1975) cũng cho rằng một
hành vi được thực hiện trên cơ sở ngoài mục đích được xác định còn phụ
thuộc vào các thiết chế xã hội liên quan, nghĩa là hệ thống chuẩn mực luật
pháp có bắt buộc, cho phép thực hiện hay không.
Trong thực tế cuộc sống xã hội, quá trình tương tác theo mô hình trao đổi xã
hội cũng như việc hành động dựa trên sự lựa chọn hợp lý là phổ biến. Theo
Homans, toàn bộ các tương tác xã hội là một tập hợp phức tạp những trao đổi
dựa trên các nguyên lý trên đây.
- Trên cơ sở những luận điểm và mô hình phương pháp luận của lý thuyết
này, chúng tôi nhìn nhận hành động tham gia NCKH của sinh viên là hành
động duy lý, được cân nhắc kỹ lưỡng trên cơ sở tiềm năng mỗi cá nhân, nhóm
sinh viên, những chi phí về vật chất, tinh thần và mối lợi của NCKH mang lại.
Và hành động NCKH của sinh viên cũng phụ thuộc nhiều vào tính bắt buộc
của quy chế đào tạo, mức độ phần thưởng của nhà trường.
1.3. Lý thuyết xã hội hoá cá nhân:
Theo Andreeva – Nhà xã hội học người Nga thì xã hội hoá là một quá trình 2
mặt, một mặt cá nhân tiếp nhận kinh nghiệm xã hội bằng cách thâm nhập vào
môi trường xã hội, hệ thống các quan hệ xã hội (học các giá trị xã hội để đảm
nhận các vai trò xã hội). Mặt khác tái sản xuất một cách chủ động hệ thống
các mối quan hệ thông qua chính việc họ tham gia vào các hoạt động thâm
nhập vào các mối quan hệ xã hội đó (đóng góp các giá trị sáng tạo về vật
chất & tinh thần của mính cho xã hội).
- Đối với sinh viên, họ đang trong lứa tuổi trưởng thành, các hoạt động xã
hội hoá chủ yếu trong giai đoạn này là học tập lĩnh hội tri thức, kỹ năng kỹ
xảo của các chuyên ngành, phạm vi hẹp, sâu sắc để sau này trở thành các
13
chuyên gia trong các lĩnh vực đó. Để trở thành các chuyên gia trong tương lai,
rõ ràng sinh viờn chỉ nạp kiến thức thì chưa đủ, mà phải thực hiện nghiên
cứu khoa học nghĩa là phải nắm vững lý thuyết và thực hành có thể tìm hiểu
sâu bản chất của sự vật, để vận dụng giải quyết các vấn đề thực tiễn, đồng
thời sáng tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần mới đóng góp cho xã hội. Như
vậy nghiên cứu khoa học sinh viên phải là một trong các hình thức hoạt động
chủ đạo, bắt buộc trong quá trình đào tạo đại học mới có thể giúp cho sinh
viên hình thành khả năng tìm tòi, nghiên cứu tri thức và như vậy mới đóng góp
cho xã hội những sáng tạo của mình ngay từ khi còn ở trong trường đại học.
1.4. Lý thuyết hành động xã hội của M.Weber:
Theo quan điểm của Max Weber thì một hành động được gọi là hành động
xã hội khi nó tương quan và định hướng hành động của người khác theo ý
muốn chủ quan của chủ thể hành động.
Max Weber chia hành động xã hội thành bốn loại cơ bản:
- Hành động duy lý- công cụ: là hành động được thực hiện với sự cân
nhắc, tính toán, lựa chọn công cụ, phương tiện, mục đích sao có hiệu quả cao
nhất.
- Hành động duy lý- giá trị: là hành động được thực hiện vì bản thân hành
động (mục đích tự thân).
- Hành động duy lý cảm xúc: là hành động do các trạng thái xúc cảm, tình
cảm bột phát gây ra mà không có sự cân nhắc, xem xét, phân tích mối quan hệ
giữa công cụ, phương tiện và mục đích hành động.
- Hành động duy lý truyền thống: là hành động làm theo thói quen, nghi
lễ, phong tục tập quán đã được truyền lại từ đời này sang đời khác.
Theo tác giả, hành động xã hội là một hành vi mà chủ thể gắn cho nó ý nghĩa
chủ quan nhất định. Tác giả nhấn mạnh đến “động cơ” bên trong của chủ thể
như là nguyên nhân của hành động [12, 130].
14
Đối với sinh viên, NCKH là hành động xã hội có tính duy lý - công cụ, do
nhiều động cơ bên trong hình thành nên nhu cầu tham gia NCKH của họ.
Hành động duy lý - công cụ xã hội thường gắn với tính tích cực của cá nhân.
Tính tích cực của cá nhân này bị quy định bởi hàng loạt các yếu tố như nhu
cầu, lợi ích và định hướng giá trị của chủ thể hành động. Khi chúng ta nghiên
cứu thực trạng NCKH của sinh viên, có thể thấy được tâm tư, nguyện vọng
liên quan đến hành động của họ.
Mô hình về cấu trúc của hành động xã hội như sau:
Hoàn cảnh
Nhu
Động
Chủ
Công cụ,
cầu
cơ
thể
Phương tiÖn
Mục
đích
Phân tích mô hình, chúng ta thấy nhu cầu đóng vai trò hết sức quan trọng để
hình thành nên hành động xã hội. Nhu cầu của chủ thể tạo ra động cơ thúc đẩy
hành động để thỏa mãn nhu cầu đó. Các động cơ này không chỉ liên quan đến
nhu cầu vật chất, mà xét rộng ra tất cả các giá trị, kỹ năng nghề nghiệp, lợi
ích, lý tưởng trong xã hội đã được các chủ thể tiếp nhận.
- Mục đích của NCKH của sinh viên : NCKH là hành động xã hội của sinh
viên, có mục đích nhận thức khoa học phục vụ cho nghiệm vụ học tập do đó
không tạo ra nhiều giá trị mới.
15
- Công cụ của NCKHSV là hệ thống các khái niệm, các nguyên lý, mô hình,
quy luật.
- Chủ thể của NCKH là cá nhân hoặc nhóm sinh viên.
- Động cơ của NCKH là nâng cao nhận thức và hướng tới những giá trị, lợi
ích mà chủ thể nhận thấy rằng mình có thể đạt được khi đi tham gia.
- Hoàn cảnh NCKH SV trong môi trường học đại học, có mức độ và yêu cầu
chuyên môn cao hơn hẳn môi trường PTTH.
Hành động xã hội nói chung chịu ảnh hưởng bởi sự quy định của nhiều yếu tố
như:
- Các yếu tố tự nhiên: gen di truyền...
- Quá trình xã hội hóa và cơ cấu xã hội: quá trình xã hội hóa cũng có ảnh
hưởng nhất định đến hành động NCKH của sinh viên. Ví dụ: những sinh viên
ở thành phố thường tham gia nhiều hơn, do được xã hội hóa ở môi trường xã
hội năng động hơn.
- Hành động xã hội là sự trao đổi xã hội: nhu cầu NCKH được hình thành khi
chủ thể thấy được những lợi ích mà mình sẽ có được khi thực hiện được hành
động đó. Bởi theo cách giải thích này chính những mối lợi và phần thưởng,
những hình phạt quy định hành động xã hội.
- Ngoài ra hành động xã hội cũng là sự tuân theo và là sự phản ứng đối với
xung quanh. Có những hành động được hình thành do chịu tác động của các
chủ thể khác hay sự học đòi theo trào lưu. Như vậy, để hình thành nên hành
động NCKH của sinh viên, ngoài những lý do chủ quan của chủ thể còn có
những yếu tố khách quan khác, các điều kiện vật chất kỹ thuật, phương tiện
16
như, thư viện, internet và môi trường NCKH. Trong nghiên cứu này, chúng tôi
xem xét cả hai yếu tố tác động đến hành động NCKH của họ.
2. Các khái niệm công cụ
2.1.Khái niệm nghiên cứu khoa học:
Trong tác phẩm Phương pháp nghiên cứu khoa học - Tác giả Vũ Cao Đàm nêu
ra khái niệm nghiên cứu khoa học và các đặc điểm sau :
Nghiên cứu khoa học: là sự tím tòi, khám phá bản chất các sự vật và sáng tạo
các giải pháp tác động trở lại sự vật, biến đổi sự vật theo mục đìch sử dụng.
Nói cho cùng, nghiên cúu khoa học là một hoạt động xã hội nhằm thoả mãn
nhu cầu nhận thức và cải tạo thế giới.
2.2.các đăc điểm của nghiên cứu khoa học:
Đặc điểm chung nhất của nghiên cứu khoa học là sự tìm tòi những sự vật mà
khoa học chưa hề biết đến. Đặc điểm này dẫn đến hàng loạt các đặc điểm khác
nhau của nghiên cứu khoa học, mà người nghiên cứu cũng như người quản lý
nghiên cứu cần phải quan tâm khi xử lý những vấn đề cụ thể về mặt phương
pháp luận nghiên cứu và tổ chức nghiên cứu.
2.2.1. Tình mới.
Vì nghiên cứu khoa học là quá trình thâm nhập thế giới của những sự vật mà
khoa học chưa biết, cho nên quá trình nghiên cứu khoa học luôn là quá trình
hướng tới những phát hiện mới hoặc sáng tạo mới. Trong nghiên cứu khoa học
không có sự lặp lại như cũ những phát hiện hoặc sáng tạo. Vì vậy, tính mới là
thuộc tính quan trọng số một của lao động khoa học.
2.2.2. Tình tin cậy.
Một kết quả nghiên cứu đạt được nhờ một phương pháp nào đó phải có khả
năng kiểm chứng lại nhiều lần trong những điều kiện quan sát hoặc thí nghiệm
hoàn toàn giống nhau với những kết quả thu được hoàn toàn giống nhau. Một
17
kết quả thu được ngẫu nhiên dù phù hợp với giả thuyết đặt ra trước đó cũng
chưa thể xem là đủ tin cậy để kết luận về bản chất của sự vật hoặc hiện tượng.
Điều này dẫn đến một nguyên tắc mang tính phương pháp luận nghiên cứu
khoa học, là khi trình bày một kết quả nghiên cứu cần chỉ rõ những điều kiện,
các nhân tố và phương tiện thực hiện (nếu có)
2.2.3. Tính thông tin
Sản phẩm của nghiên cứu khoa học được thể hiện dưới nhiều dạng, có thể đó
là một báo cáo khoa học, tác phẩm khoa học, song cũng có thể là một mẫu vật
liệu mới, mẫu sản phẩm mới, mô hình thí điểm về một phương thức tổ chức
sản xuất mới… Tuy nhiên, trong tất cả các trường hợp này, sản phẩm khoa
học luôn mang những đặc trưng thông tin. Đó là những thông tin về những
quy luật vận động của sự vật, thông tin về quy trình công nghệ và các tham số
đi kèm quy trình đó.
2.2.4. Tính khách quan
Tính khách quan vừa là một đặc điểm của nghiên cứu khoa học, vừa là một
tiêu chuẩn về phẩm chất của người nghiên cứu khoa học. Trong xã hội khoa
học người ta xem đó là một chuẩn mực giá trị. Một nhận định vội vã theo cảm
tính, một kết luận vội vã thiếu chính xác nhận bằng kiểm chứng chưa thể được
xem là một phản ánh khách quan về bản chất của sự vật.
Để đảm bảo tính khách quan, người nghiên cứu cần phải luôn đặt các loại câu
hỏi ngược lại với những kết luận được xác nhận:
* Kết quả có thể khác không ?
* Nếu kết quả đúng, thì đúng trong những điều kiện nào?
* Còn phương pháp nào cho kết quả tốt hơn?
2.2.5. Tình rủi ro
Quá trình khám phá bản chất sự vật và sáng tạo sự vật mới hoàn toàn có thể
gặp phải thất bại. Đó là tính rủi ro (risque) của nghiên cứu. Sự thất bại trong
18
- Xem thêm -