Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu khoa học của sinh viên trường đại học khoa học xã hội và nhân văn thự...

Tài liệu Nghiên cứu khoa học của sinh viên trường đại học khoa học xã hội và nhân văn thực trạng - nguyên nhân - giải pháp

.PDF
105
645
143

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------***------ TRẦN XUÂN HỒNG NGHIấN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIấN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN THỰC TRẠNG - NGUYÊN NHÂN - GIẢI PHÁP LUận văn thạc sỹ khoa học xã hội học Hà nội - 2007 97 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA XÃ HỘI HỌC ------***------ NGHIấN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIấN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN THỰC TRẠNG - NGUYÊN NHÂN - GIẢI PHÁP CHUYÊN NGÀNH :XÃ HỘI HỌC MÃ SỐ : 603130 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : PGS.TS.Lấ NGỌC HÙNG NGƯỜI THỰC HIỆN : TRẦN XUÂN HỒNG HÀ NỘI - 2007 96 ☺Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài : Về mặt thực tiễn, những người làm công tác quản lý đào tạo và nghiên cứu khoa học của nhà trường, quan tâm tới mâu thuẫn giữa phương hướng phát triển chiến lược của nhà trường trong nghị quyết đại hội đảng bộ lần thứ XXVI năm 2006: xây dựng Trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội theo hướng một trường “Đại học nghiên cứu chất lượng cao” với thực tế hiện tại nhà trường là “Trường Đại học ít chất nghiên cứu”. Với những đánh giá như, chúng ta đang đào tạo những gì có, chưa thực sự đào tạo những gì xã hội cần. Phương pháp giảng dạy cổ điển, nặng về lý thuyết, chậm đổi mới. Sinh viên học một cách thụ động, thiếu sáng tạo. Hoạt động nghiên cứu khoa học chỉ có tính chất phong trào chưa có tính bắt buộc bằng cơ chế. Sản phẩm đào tạo là những cử nhân tốt nghiệp, chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường...Hiện nay nhà trường đang thực hiện bước đột phá trong công tác đào tạo đó là chuyển dần từ hình thức đào tạo niên chế sang hình thức đào tạo theo tín chỉ nhằm mục đích nâng cao hơn hàm lượng nghiên cứu trong quá trình đạo tạo và bám sát yêu cầu của thị trường lao động…Muốn vậy, một trong những bước đi cần thiết cho sự chuyển đổi đó là nhà trường phải xác định và đánh giá chính xác các điều kiện hiện tại về mọi mặt của mình. Đặc biệt là nhà trường phải đánh giá được việc thực hiện nhiệm vụ cơ bản là giảng dạy và nghiên cứu khoa học của tập thể đông đảo giảng viên và sinh viên của trong trường. Câu hỏi đặt ra là hịên nay hoạt động nghiờn cứu khoa học của sinh viờn trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội đang được thực hiện như thế nào ? Về mặt lý luận khoa học, nghiên cứu khoa học sinh viên là một trong những chủ đề cơ bản của xã hội học giáo dục và xã hội học. Đã có nhiều nghiên cứu 1 khoa học về phương pháp học, lối sống, nhận thức về tình yêu, tình bạn sinh viên...Cũng đã có một số nghiên cứu về hoạt động NCKH của sinh viên nhưng míi chỉ nghiên cứu một vài khía cạnh, hoặc những hình thức đơn lẻ của hoạt động này. Những nghiên cứu đầu đủ về tất cả các hình thức hoạt động NCKH của sinh viên dưới góc độ xã hội học còn rất ít. ở nghiên cứu này, dưới góc độ xó hội học chúng tôi muốn góp phần trả lời câu hỏi trên đây bằng cách chọn chủ đề “Nghiên cứu khoa học của sinh viên Trường Đaị học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Thực trạng - Nguyên nhân - Giải pháp”, để nghiên cứu. Mục đích của nghiên cứu là nhằm tìm ra các luận cứ khoa học cụ thể để đánh giá mức độ thực hiện các hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên hiện nay, xác định những nguyên nhân, đề ra những giải pháp cho công tác quản lý đào tạo, quản lý nghiên cứu khoa học và những định hướng cho việc xây dựng Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thành một trường Đại học nghiên cứu chất lượng cao trong thời gian tới. 2. ý nghĩa khoa học và thực tiễn : 2.1 ý nghĩa khoa học : - Vận dụng một số kiến thức xó hội học để nghiên cứu một vấn đề xã hội cụ thể là vị trí, vai trò của NCKH của sinh viên trong trương đại học, qua đó cung cấp một số phát hiện, góp phần bổ sung và phát triển xã hội học giáo dục và xã hội học tri thức khoa học. 2.2 ý nghĩa thực tiễn: - Góp phần tìm ra những luận cứ khoa học cho việc triển khai cỏc hoạt động định hướng “xây dựng Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà nội thành trường đại học nghiên cứu chất lượng cao” trong đó giảng dạy, học tập gắn liền với nghiên cứu khoa học thời gian tới. 2.3. Điểm mới của luận văn: 2 - Lần đầu tiên từ gúc độ xó hội học, khảo sát toàn bộ 8 hình thức nghiờn cứu khoa học cơ bản do ĐHQG HN quy định : + Thực tập thực tế (kể cả các hình thức thực tập thực tế phục vụ cho mỗi môn học do giảng viên yêu cầu). + Khoá luận tốt nghiệp + Thảo luận chuyên đề (Seminar) + Tham gia các câu lạc bộ khoa học + Viết bài tham dự hội thảo khoa học + Viết bài báo khoa học công bố trên các tạp chí khoa học chuyên ngành + Thực hiện báo cáo khoa học tại hội nghị khoa học sinh viên hàng năm + Tham gia các dự án nghiên cứu thực tế. - Nhiệm vụ lý luận là nghiên cứu, phân tích, hệ thống hoá những quan niệm, khái niệm về nghiên cứu khoa học của sinh viên. - Đánh giá thực chất nghiên cứu khoa học của sinh viên trong quá trình đào tạo của nhà trường, phân tích những nguyên nhân, đề ra những giải pháp cho hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên nhà trường. 4. Nhiêm vụ nghiên cứu : - Mô tả (định lượng), mức độ tham gia thực hiện các hình thức hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên trong trường. - Mô tả và đánh giá mức độ chủ động, sáng tạo trong hoạt động nghiên cứu. - Xác định và phân tích các nguyên nhân cơ bản tác động tới các hình thức hoạt động nghiên cứu khoa học đó. - Đề ra một số giải pháp nâng cao tính chất nghiên cứu trong học tập và đào tạo của sinh viờn và nhà trường. 5. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu: 5.1. Khách thể nghiên cứu: 3 Sinh viên hệ chính quy văn bằng 1, 2, chất lượng thường và chất lương cao từ năm thứ 1 đến năm thứ 4 hiện đang học tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQGHN. 5.2. Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viờn Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Thực trạng - nguyên nhân - giải pháp. 5.3. Phạm vi nghiên cứu: - Thời gian : Từ tháng 9/2006 – 9/2007 - Không gian : Tại trường ĐHKHXH&NV – HN - Phạm vi vấn đề nghiên cứu : Các hình thức, mức độ thực hiện hoạt động nghiờn cứu khoa học của sinh viờn hệ chính quy chất lượng thường và chất lương cao từ năm thứ 1 đến năm thứ 4 hiện đang học tại trường. 6. Phương pháp nghiên cứu : 6.1. Phân tích tài liệu: Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn lần thứ hai mươi sáu (2006); Báo cáo tổng kết năm học 2006 - 2007 của nhà trường; Báo cáo tổng kết các khoa hàng năm: Kết quả các báo cáo tổng kết NCKH sinh viên năm 2001 - 2007; Biên bản thảo luận trên lớp; Danh sách tên đề tài NCKH sinh viên các khoa; Danh sách tên đề tài khóa luận tốt nghiệp; Các phụ lục, tên các báo cáo, kỷ yếu khoa học sinh viên... Trong 5 khoa được chọn, có 3 khoa là Triết học, Văn học, Sử học là những khoa có bề dày phát triển lâu năm, từ khi thành lập trường ĐHTH Hà Nội (1956), được đánh giá là những ngành khoa học có tính chất lý luận, lý thuyết làm cơ sở cho cho các ngành khoa học khác nhiều hơn. Hai ngành là Xã hội học (1991) và Khoa học Quản lý (2002) đựơc coi là trẻ và có tính ứng dụng và thực nghiệm nhiều hơn. 4 6.5. Các phương pháp chọn mẫu : Vì các thuộc tính của sinh viên như số lượng, tỷ lệ giới tính... tương đối thuần nhất cho nên, để mẫu mang tính đại diện, số lượng phiếu được chọn tương đối bằng nhau cho năm khoa và bốn khoá từ khoá năm thứ nhất đến năm thứ tư được chọn. Số phiếu được phỏng vấn ngay tại các lớp học vào cuối các giờ học. Các điều tra viên căn cứ vào các thuộc tính của sinh viên như khoa, khoá, giới tính, nơi xuất thân, để chọn phỏng vấn lấy ý kiến. Số phiếu được chọn cụ thể phân bố như sau: Phân bố mẫu theo khoa Triết học : 71 phiếu (20.2%) Sử học: 72 phiếu (20,5%) Văn học: 69 phiếu (19.6%) Khoa học Quản lý: 70 phiếu (19.9%) Xã hội học : 70 phiếu (19.9%) Phân bố mẫu theo khóa Năm thứ 1: 86 phiếu (24.4%) Năm thứ 2 : 87 phiếu (24.7%) Năm thứ 3 : 90 phiếu (25.6%) Năm thứ 4 : 89 phiếu.(25.3%) Cơ cấu giới tính Nam : 54 (15.3%) 5 Nữ : 298 (84.7%) Nơi sinh Nông thôn : 233(66.2%) Đô thị : 119(33.8%) Tuổi 1983: 1(0.3%) 1984: 6(1.7%) 1985 : 82(23.3%) 1986 : 85(24.1%) 1987 : 97(27.6%) 1988 : 81(23.0%) Lực học Giỏi : 37 (10.5%) Khá : 296 (84.1%) Trung bình khá : 19 (5.4%) Trung bình : 0 phiếu (0%) 6.4. Quan sát: 6 - Quan sát các buổi thảo luận (seminar) trên lớp, (2 lớp thuộc khoa Xã hội học và Khoa học quản lý). Tác giả cùng tham dự buổi học trong đó giảng viên giảng dạy theo phương pháp có cho sinh viên thảo luận các vấn đề phục vụ cho bài giảng của môn học. Phương pháp tổ chức thảo luận, các nội dung, phương pháp thảo luận, cách tranh luận, đánh giá cho điểm, số câu hỏi... được nghi chép và mô tả cụ thể ở phần nội dung chính của luận văn. Quan sát Hội nghị nghiên cứu khoa học sinh viên năm học 2006 - 2007 khoa Xó hội học tổ chức Quan sát Hội thảo khoa học trong nước do các khoa, các trung tâm nghiên cứu tổ chức. Quan sát Hội thảo quốc tế do Khoa Quốc tế học tổ chức có sinh viên tham gia. 7. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết : 7.1. Giả thuyết : - Sinh viên tham gia NCKH chủ yếu tập trung dưới các hình thức nghiên cứu cú cỏc yếu tố bắt buộc và cú liên quan đến chương trỡnh đào tạo. Những hình thức NCKH không có trong chương trình đào tạo, sinh viên tham gia với một tỷ lệ nhỏ. - Tỷ lệ sinh viờn tham gia NCKH không có sự khác biệt nhiều về số lượng ở các khoa và tăng dần từ năm thứ nhất đến năm cuối khóa. Thái độ của sinh viờn khi tham gia NCKH thụ động, khả năng sáng tạo ít được phát huy. - Hoạt động NCKH của sinh viên phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố khách quan bên ngoài như: phương pháp giảng dạy, yêu cầu của giảng viên, cơ chế quản lý hoạt động giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học, nhu cầu từ phía thị trường lao động và một số yếu tố tự thân mỗi sinh viên. 7 7.2. Khung lý thuyết : Điều kiện kinh tế – Xã hội Đặc điểm Phương thức Quy chế Thị trường lao của sinh viên đào tạo của nhà động trường Khoa Lực Chươ PP Quy Các kỹ Dư và học ng dạy định lợi năng luân Khoá trỡnh học về ích nghề xh học học và nck nck nghiệ học h h p Thực trạng nghiên cứu khoa học của sinh viên Số Cơ Thỏi Chất Mức Giỏ trị lượng cấu độ lượn độ đa lý luận tỷ lệ sinh tham g dạng và thực sinhviê viên gia sáng cỏc tiễn n tham tham tạo hỡnh 8 gia gia thức NCKH 9 Nội dung chính Chương i : Cơ sở lý luận 1. Cơ sở lý thuyết : 1.1. Quan điểm Mác-Xít về nhận thức khoa học: - Nhận thức là một quá trình, từ trực quan sinh động mang tính cảm tính (cảm giác, tri giác, biểu tượng) đến tư duy trừu tượng mang tính lý tính (khái niệm, phán đoán, suy luận) và đến thực tiễn kiểm nghiệm là vòng khâu của nhận thức bản chất của các sự vật và hiện tượng. Nghiên cứu khoa học là loại hoạt động nhận thức đặc biệt của chủ thể là con người nhằm khám phá ngày càng đầy đủ hơn về bản chất các sự vật, hiện tượng và sáng tạo các giải pháp tác động trở lại sự vật, mãn nhu cầu nhận thức và cải tạo thế giới. Như vậy trước hết đây phải là hoạt động tư duy trừu tượng ở cấp độ lý tính, nó không thể thực hiện được khi không có các hoạt động ở giai đoạn nhận thức cảm tính trước đó. Bởi vì giai đoạn nhận thức cảm tính là giai đoạn thu nhận tài liệu của thế giới khách quan thông qua các giác quan như nghe, nhìn, ghi chép, ghi nhớ, tái hiện bằng hệ thống biểu tượng như hình ảnh , ngôn ngữ. Giai đoạn này cho phép nhận thức được từ các thuộc tính riêng lẻ của sự vật qua cảm nhận trực tiếp, đến mối liên hệ nhiều mặt hơn của sự vật qua tri giác trực tiếp, và cao hơn là có thể lưu giữ tái tạo hình ảnh một cách giám tiếp bằng hệ thống biểu tượng. Nếu dừng lại ở đây thì hoạt động nhận thức không thể có tính chất nghiên cứu. Để hiểu sâu bản chất sự vật, hiện tượng, thì hoạt động nhận thức phải ở mức cao hơn đó là tư duy trừu tượng, bắt đầu từ khái niệm, là sự phản ánh bao quát cả một lớp sự vật ở những thuộc tính cơ bản, những mối liên hệ bản chất có tính chung tất yếu và tính quy luật bên trong. Khái niệm là kết quả của sự tổng hợp khái quát biện chứng tài liệu thực nghiệm khoa học và kinh nghiệm nhận thức cảm tính. Phán đoán là sự liên kết những khái niệm để phản ánh mối liên hệ giữa các sự vật và hiện tượng, có tính chất 10 xác nhận hay phủ nhận, phán đoán được phản ánh trong ngôn ngữ các mệnh đề. Suy lý (suy luận) là sự kết hợp nhiều phán đoán đã có. Nhờ suy luận (quy nạp hay diễn dịch) kết hợp các mối liên hệ có tính quy luật trong nhiều phán đoán, người nghiên cứu rút ra được những kết luận mới về mối liên hệ có tính quy luật bên trong sự vật nhờ đó nhận thức những cái chưa biết. - Đối với sinh viên, hoạt động nghiên cứu khoa học là hoạt động nhận thức có tính chất lý tính cao hơn ở phổ thông trung học một bậc. Sinh viên được tiếp nhận, tái tạo các tri thức khoa học được tổng kết thành hệ thống và qua NCKH sinh viờn học cách tư duy, phương pháp khoa học lĩnh hội tri thức, kỹ năng nghề nghiệp để trở thành các chuyên gia trong các lĩnh vực xã hội trong tương lai. Yêu cầu của hoạt động nhận thức khoa học đòi hỏi sự cố gắng vượt bậc của sinh viên trong thời gian học trong trường đại học. 1.2. Lý thuyết trao đổi và sự lựa chọn hợp lý: Theo G.Homans, nhà xã hội học người Mỹ thì các cá nhân hành động tuân theo nguyên tắc trao đổi giá trị vật chất và tinh thần như sự ủng hộ, tán thưởng hay danh dự… Homans đưa ra 4 nguyên tắc tương tác giữa các cá nhân như sau: - Nếu một dạng hành vi được thưởng hay có lợi thì hành vi đó có xu hướng lặp lại. - Hành vi được thưởng, được lợi trong hoàn cảnh nào thì cá nhân sẽ có xu hướng lặp lại hành vi đó trong hoàn cảnh tương tự. - Nếu như phần thưởng, mối lợi đủ lớn thì cá nhân sẽ sẵn sàng bỏ ra nhiều “chi phí” vật chất và tinh thần để đạt được nó. - Mức độ hài lòng, thoả mãn với những phần thưởng, mối lợi cá nhân giành được cao nhất ở lần đầu và có xu hướng giảm dần. Tiêu điểm của thuyết lựa chọn hợp lý là chủ thể – người hành động. Các chủ thể được xem là có mục đích hay mục tiêu về cái hành động của họ hướng 11 tới. Các chủ thể cũng được xem là có sở thích như các giá trị, các tiện ích. Thuyết lựa chọn hợp lý không quan tâm đến tính chất các sở thích này cũng như các nguồn của chúng. Cái quan trọng là hành động được thực hiện để đạt được các đối tượng phù hợp với hệ thống sở thích của chủ thể. Về nguyên tắc, lý thuyết này cho rằng mỗi cá nhân đều xuất phát từ động cơ duy lý - tức là được tính toán kỹ lưỡng, và lựa chọn hành động nào đem lại lợi ích lớn nhất với nguy cơ chi phí và thiệt hại nhỏ nhất. Theo Friedman và Hechter thì các chủ thể hành động được xem là những nhân vật hành động có mục đích, có mục tiêu và có sở thích riêng. Hành động của chủ thể được thực hiện để đạt được mục đích, mục tiêu phù hợp với hệ thống sở thích của chủ thể hành động. Tuy nhiên, trong quá trình hành động, chủ thể chịu tác động của hai nhóm yếu tố: + Sự hiếm hoi của tiềm năng : Mỗi chủ thể hành động có các tiềm năng khác nhau. Tiềm năng được hiểu là điều kiện như mức sống, điều kiện kinh tế, thời gian… Đối với những người có tiềm năng, mục đích có thể đạt được dễ dàng hơn so với những người ít tiềm năng. Liên quan tới tiềm năng những chi phí, giá phải trả. Trong việc theo đuổi mục đích, các chủ thể phải quan tâm tới cái giá của hành động lôi cuốn nhất của họ. Các chủ thể có thể chọn cách không theo đuổi mục đích có giá trị cao nhất nếu tiềm năng của bản thân là không đáng kể, nếu cơ may là quá ít và nếu trong việc cố gắng để đạt được mục đích chủ thể hành động huỷ hoại các cơ may có giá trị cao hơn kế tiếp của mình. Các chủ thể hành động được xem là luôn tối đa hoá điều lợi cho mình. + Các thể chế xã hội : Theo Friedman và Hechter thì các thể chế xã hội đã áp đặt khuôn mẫu hành động cho các cá nhân (được phép hay không, thế nào là đúng, thế nào là 12 sai…) thông qua các tiêu chí, các quy luật, các lịch trình, các nguyên tắc tạo ra sự ảnh hưởng có hệ thống với các kết quả xã hội. Hai nhà xã hội học hành vi Mỹ A.jzen và Fisbein (1975) cũng cho rằng một hành vi được thực hiện trên cơ sở ngoài mục đích được xác định còn phụ thuộc vào các thiết chế xã hội liên quan, nghĩa là hệ thống chuẩn mực luật pháp có bắt buộc, cho phép thực hiện hay không. Trong thực tế cuộc sống xã hội, quá trình tương tác theo mô hình trao đổi xã hội cũng như việc hành động dựa trên sự lựa chọn hợp lý là phổ biến. Theo Homans, toàn bộ các tương tác xã hội là một tập hợp phức tạp những trao đổi dựa trên các nguyên lý trên đây. - Trên cơ sở những luận điểm và mô hình phương pháp luận của lý thuyết này, chúng tôi nhìn nhận hành động tham gia NCKH của sinh viên là hành động duy lý, được cân nhắc kỹ lưỡng trên cơ sở tiềm năng mỗi cá nhân, nhóm sinh viên, những chi phí về vật chất, tinh thần và mối lợi của NCKH mang lại. Và hành động NCKH của sinh viên cũng phụ thuộc nhiều vào tính bắt buộc của quy chế đào tạo, mức độ phần thưởng của nhà trường. 1.3. Lý thuyết xã hội hoá cá nhân: Theo Andreeva – Nhà xã hội học người Nga thì xã hội hoá là một quá trình 2 mặt, một mặt cá nhân tiếp nhận kinh nghiệm xã hội bằng cách thâm nhập vào môi trường xã hội, hệ thống các quan hệ xã hội (học các giá trị xã hội để đảm nhận các vai trò xã hội). Mặt khác tái sản xuất một cách chủ động hệ thống các mối quan hệ thông qua chính việc họ tham gia vào các hoạt động thâm nhập vào các mối quan hệ xã hội đó (đóng góp các giá trị sáng tạo về vật chất & tinh thần của mính cho xã hội). - Đối với sinh viên, họ đang trong lứa tuổi trưởng thành, các hoạt động xã hội hoá chủ yếu trong giai đoạn này là học tập lĩnh hội tri thức, kỹ năng kỹ xảo của các chuyên ngành, phạm vi hẹp, sâu sắc để sau này trở thành các 13 chuyên gia trong các lĩnh vực đó. Để trở thành các chuyên gia trong tương lai, rõ ràng sinh viờn chỉ nạp kiến thức thì chưa đủ, mà phải thực hiện nghiên cứu khoa học nghĩa là phải nắm vững lý thuyết và thực hành có thể tìm hiểu sâu bản chất của sự vật, để vận dụng giải quyết các vấn đề thực tiễn, đồng thời sáng tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần mới đóng góp cho xã hội. Như vậy nghiên cứu khoa học sinh viên phải là một trong các hình thức hoạt động chủ đạo, bắt buộc trong quá trình đào tạo đại học mới có thể giúp cho sinh viên hình thành khả năng tìm tòi, nghiên cứu tri thức và như vậy mới đóng góp cho xã hội những sáng tạo của mình ngay từ khi còn ở trong trường đại học. 1.4. Lý thuyết hành động xã hội của M.Weber: Theo quan điểm của Max Weber thì một hành động được gọi là hành động xã hội khi nó tương quan và định hướng hành động của người khác theo ý muốn chủ quan của chủ thể hành động. Max Weber chia hành động xã hội thành bốn loại cơ bản: - Hành động duy lý- công cụ: là hành động được thực hiện với sự cân nhắc, tính toán, lựa chọn công cụ, phương tiện, mục đích sao có hiệu quả cao nhất. - Hành động duy lý- giá trị: là hành động được thực hiện vì bản thân hành động (mục đích tự thân). - Hành động duy lý cảm xúc: là hành động do các trạng thái xúc cảm, tình cảm bột phát gây ra mà không có sự cân nhắc, xem xét, phân tích mối quan hệ giữa công cụ, phương tiện và mục đích hành động. - Hành động duy lý truyền thống: là hành động làm theo thói quen, nghi lễ, phong tục tập quán đã được truyền lại từ đời này sang đời khác. Theo tác giả, hành động xã hội là một hành vi mà chủ thể gắn cho nó ý nghĩa chủ quan nhất định. Tác giả nhấn mạnh đến “động cơ” bên trong của chủ thể như là nguyên nhân của hành động [12, 130]. 14 Đối với sinh viên, NCKH là hành động xã hội có tính duy lý - công cụ, do nhiều động cơ bên trong hình thành nên nhu cầu tham gia NCKH của họ. Hành động duy lý - công cụ xã hội thường gắn với tính tích cực của cá nhân. Tính tích cực của cá nhân này bị quy định bởi hàng loạt các yếu tố như nhu cầu, lợi ích và định hướng giá trị của chủ thể hành động. Khi chúng ta nghiên cứu thực trạng NCKH của sinh viên, có thể thấy được tâm tư, nguyện vọng liên quan đến hành động của họ. Mô hình về cấu trúc của hành động xã hội như sau: Hoàn cảnh Nhu Động Chủ Công cụ, cầu cơ thể Phương tiÖn Mục đích Phân tích mô hình, chúng ta thấy nhu cầu đóng vai trò hết sức quan trọng để hình thành nên hành động xã hội. Nhu cầu của chủ thể tạo ra động cơ thúc đẩy hành động để thỏa mãn nhu cầu đó. Các động cơ này không chỉ liên quan đến nhu cầu vật chất, mà xét rộng ra tất cả các giá trị, kỹ năng nghề nghiệp, lợi ích, lý tưởng trong xã hội đã được các chủ thể tiếp nhận. - Mục đích của NCKH của sinh viên : NCKH là hành động xã hội của sinh viên, có mục đích nhận thức khoa học phục vụ cho nghiệm vụ học tập do đó không tạo ra nhiều giá trị mới. 15 - Công cụ của NCKHSV là hệ thống các khái niệm, các nguyên lý, mô hình, quy luật. - Chủ thể của NCKH là cá nhân hoặc nhóm sinh viên. - Động cơ của NCKH là nâng cao nhận thức và hướng tới những giá trị, lợi ích mà chủ thể nhận thấy rằng mình có thể đạt được khi đi tham gia. - Hoàn cảnh NCKH SV trong môi trường học đại học, có mức độ và yêu cầu chuyên môn cao hơn hẳn môi trường PTTH. Hành động xã hội nói chung chịu ảnh hưởng bởi sự quy định của nhiều yếu tố như: - Các yếu tố tự nhiên: gen di truyền... - Quá trình xã hội hóa và cơ cấu xã hội: quá trình xã hội hóa cũng có ảnh hưởng nhất định đến hành động NCKH của sinh viên. Ví dụ: những sinh viên ở thành phố thường tham gia nhiều hơn, do được xã hội hóa ở môi trường xã hội năng động hơn. - Hành động xã hội là sự trao đổi xã hội: nhu cầu NCKH được hình thành khi chủ thể thấy được những lợi ích mà mình sẽ có được khi thực hiện được hành động đó. Bởi theo cách giải thích này chính những mối lợi và phần thưởng, những hình phạt quy định hành động xã hội. - Ngoài ra hành động xã hội cũng là sự tuân theo và là sự phản ứng đối với xung quanh. Có những hành động được hình thành do chịu tác động của các chủ thể khác hay sự học đòi theo trào lưu. Như vậy, để hình thành nên hành động NCKH của sinh viên, ngoài những lý do chủ quan của chủ thể còn có những yếu tố khách quan khác, các điều kiện vật chất kỹ thuật, phương tiện 16 như, thư viện, internet và môi trường NCKH. Trong nghiên cứu này, chúng tôi xem xét cả hai yếu tố tác động đến hành động NCKH của họ. 2. Các khái niệm công cụ 2.1.Khái niệm nghiên cứu khoa học: Trong tác phẩm Phương pháp nghiên cứu khoa học - Tác giả Vũ Cao Đàm nêu ra khái niệm nghiên cứu khoa học và các đặc điểm sau : Nghiên cứu khoa học: là sự tím tòi, khám phá bản chất các sự vật và sáng tạo các giải pháp tác động trở lại sự vật, biến đổi sự vật theo mục đìch sử dụng. Nói cho cùng, nghiên cúu khoa học là một hoạt động xã hội nhằm thoả mãn nhu cầu nhận thức và cải tạo thế giới. 2.2.các đăc điểm của nghiên cứu khoa học: Đặc điểm chung nhất của nghiên cứu khoa học là sự tìm tòi những sự vật mà khoa học chưa hề biết đến. Đặc điểm này dẫn đến hàng loạt các đặc điểm khác nhau của nghiên cứu khoa học, mà người nghiên cứu cũng như người quản lý nghiên cứu cần phải quan tâm khi xử lý những vấn đề cụ thể về mặt phương pháp luận nghiên cứu và tổ chức nghiên cứu. 2.2.1. Tình mới. Vì nghiên cứu khoa học là quá trình thâm nhập thế giới của những sự vật mà khoa học chưa biết, cho nên quá trình nghiên cứu khoa học luôn là quá trình hướng tới những phát hiện mới hoặc sáng tạo mới. Trong nghiên cứu khoa học không có sự lặp lại như cũ những phát hiện hoặc sáng tạo. Vì vậy, tính mới là thuộc tính quan trọng số một của lao động khoa học. 2.2.2. Tình tin cậy. Một kết quả nghiên cứu đạt được nhờ một phương pháp nào đó phải có khả năng kiểm chứng lại nhiều lần trong những điều kiện quan sát hoặc thí nghiệm hoàn toàn giống nhau với những kết quả thu được hoàn toàn giống nhau. Một 17 kết quả thu được ngẫu nhiên dù phù hợp với giả thuyết đặt ra trước đó cũng chưa thể xem là đủ tin cậy để kết luận về bản chất của sự vật hoặc hiện tượng. Điều này dẫn đến một nguyên tắc mang tính phương pháp luận nghiên cứu khoa học, là khi trình bày một kết quả nghiên cứu cần chỉ rõ những điều kiện, các nhân tố và phương tiện thực hiện (nếu có) 2.2.3. Tính thông tin Sản phẩm của nghiên cứu khoa học được thể hiện dưới nhiều dạng, có thể đó là một báo cáo khoa học, tác phẩm khoa học, song cũng có thể là một mẫu vật liệu mới, mẫu sản phẩm mới, mô hình thí điểm về một phương thức tổ chức sản xuất mới… Tuy nhiên, trong tất cả các trường hợp này, sản phẩm khoa học luôn mang những đặc trưng thông tin. Đó là những thông tin về những quy luật vận động của sự vật, thông tin về quy trình công nghệ và các tham số đi kèm quy trình đó. 2.2.4. Tính khách quan Tính khách quan vừa là một đặc điểm của nghiên cứu khoa học, vừa là một tiêu chuẩn về phẩm chất của người nghiên cứu khoa học. Trong xã hội khoa học người ta xem đó là một chuẩn mực giá trị. Một nhận định vội vã theo cảm tính, một kết luận vội vã thiếu chính xác nhận bằng kiểm chứng chưa thể được xem là một phản ánh khách quan về bản chất của sự vật. Để đảm bảo tính khách quan, người nghiên cứu cần phải luôn đặt các loại câu hỏi ngược lại với những kết luận được xác nhận: * Kết quả có thể khác không ? * Nếu kết quả đúng, thì đúng trong những điều kiện nào? * Còn phương pháp nào cho kết quả tốt hơn? 2.2.5. Tình rủi ro Quá trình khám phá bản chất sự vật và sáng tạo sự vật mới hoàn toàn có thể gặp phải thất bại. Đó là tính rủi ro (risque) của nghiên cứu. Sự thất bại trong 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan