Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu khoa học...

Tài liệu Nghiên cứu khoa học

.DOCX
23
275
84

Mô tả:

Nghiên cứu khoa học “NÂNG CAO HIỆU QUẢ HỌC TẬP PHÂN MÔN TẬP ĐỌC LỚP 3, TRƯỜNG TIỂU HỌC HẢI THÀNH, ĐỒNG HỚI, QUẢNG BÌNH THÔNG QUA PHƯƠNG PHÁP RÈN LUYỆN THEO MẪU” A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Văn học là nghệ thuật của ngôn ngữ, là sự nhận thức về thế giới cuộc sống của con người và xã hội. Tác phẩm văn học dùng phương tiện ngôn từ để sáng tạo nên những hình tượng về cuộc sống con người, quê hương, xứ sở và đem lại cho người đọc những rung cảm thực sự trong sáng. Tiểu học là cấp học đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành và phát triển nhân cách con người, đặt nền tảng cho giáo dục phổ thông và các cấp học trên. Là những chủ nhân tương lai của đất nước, đòi hỏi học sinh phải có vốn kiến thức cần thiết. Trong nhà trường Tiểu học ở Việt Nam, môn Tiếng Việt là một môn học trung tâm, làm nền móng cho các môn học khác. Môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học có nhiệm vụ vô cùng quan trọng nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức về hệ thống tiếng Việt, chuẩn tiếng Việt, rèn cho học sinh kỹ năng sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp, đó là hình thành bốn kỹ năng: nghe - nói - đọc - viết cho học sinh. Tiếng Việt ở trường Tiểu học gồm nhiều phân môn: Tập đọc, luyện từ và câu, tập làm văn, chính tả, tập viết,… Trong đó, phân môn “Tập đọc” là một trong những phân môn có ý nghĩa to lớn trong chương trình Tiểu học. Đây là phân môn có vị trí đặc biệt trong chương trình vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển kỹ năng đọc, một kỹ năng quan trọng hàng đầu của học sinh ở bậc Tiểu học. Kỹ năng đọc có nhiều mức độ: đọc đúng, đọc nhanh (lưu loát, trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Đọc là một đòi hỏi cơ bản đầu tiên đối với mỗi học sinh, đọc giúp các em chiếm lĩnh tri thức, ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp, học tập, tạo ra hứng thú và động cơ học tập. Tập đọc là phân môn mang tính chất tổng hợp vì ngoài nhiệm vụ dạy học nó còn có nhiệm vụ trau dồi kiến thức về tiếng Việt cho học sinh (về phát triển âm, từ ngữ, câu văn,…), kiến thức ban đầu về văn học, đời sống và giáo dục tình cảm thẩm mỹ. Khi học sinh đọc tốt, viết tốt thì mới có thể tiếp thu các môn học khác một cách chắc chắn. Từ đó học sinh mới hoàn thiện được năng lực của mình. Những kỹ năng này không phải tự nhiên mà có. Do đó, việc dạy học ở trường Tiểu học là rất quan trọng, phải có định hướng, có kế hoạch. Chính vì vậy, người giáo viên Tiểu học có vai trò rất quan trọng, có nhiệm vụ dạy cho học sinh một cách có hệ thống các phương pháp để hình thành và phát triển năng lực đọc cho học sinh. Qua các bài tập đọc, học sinh tiếp thu được nội dung mà bài đọc đem lại, được làm quen với ngôn ngữ văn học, các nhân vật trong bài…, tập đọc giúp các em cảm nhận được vẻ đẹp ngôn ngữ qua bài đọc, làm giàu vốn từ, vốn tri thức về tâm hồn. Từ đó, các em tích lũy cho mình những kiến thức cần thiết, tạo điều kiện để các em học tốt các phân môn khác trong môn Tiếng Việt như: Chính tả, Tập làm văn, … Đồng thời học tốt các môn học khác như: Toán, Tự nhiên và Xã hội, Âm nhạc, Đạo đức… Đặc biệt là khơi dậy trong tiềm thức tâm hồn học sinh lòng yêu quý sự phong phú của tiếng Việt, có ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vì vậy việc tìm hiểu, nghiên cứu về tập đọc ở góc độ nào cũng có ý nghĩa quan trọng và cấp bách. Đối với phân môn Tập đọc, như chúng ta đã biết ở Tiểu học trọng tâm của phân môn Tập đọc là vấn đề rèn đọc và đặc biệt là đối với lớp 3 thì việc rèn đọc cho học sinh là một yêu cầu cơ bản, nó có giá trị vô cùng quan trọng, nó là vấn đề cấp thiết đòi hỏi người giáo viên Tiểu học phải xác định rõ yêu cầu, nhiệm vụ để chú trọng hướng dẫn học sinh nhằm mang lại kết quả tốt. Hiện nay việc dạy tập đọc ở trường Tiểu học đạt kết quả chưa cao, chưa thỏa mãn với yêu cầu đặt ra. Có thể có nhiều nguyên nhân, chẳng hạn như: Chương trình sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy… Nhưng nguyên nhân cơ bản có lẽ vẫn là do sự phân bố thời gian không hợp lý. Nhiều giáo viên còn sa vào giảng văn, dành nhiều thời gian không hợp lý cho việc tìm hiểu bài. Do vậy, thời gian dành cho luyện đọc (trọng tâm của phân môn) còn ít. Ở phần luyện đọc nhiều giáo viên cho là dễ nhưng thực chất đây là phần khó khăn nhất, là phần trọng tâm của giờ tập đọc, ở phần này giáo viên ít mắc lỗi về thao tác kỹ thuật song chưa chú ý đúng mức đến mặt âm thanh của ngôn ngữ, đặc biệt là ngữ điệu, chưa biết dạy như thế nào để phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh. Đó là một trong những lý lo khiến cho học sinh của chúng ta đọc và nói chưa tốt. Ở lớp 3, theo chương trình Giáo dục phổ thông – cấp Tiểu học mục tiêu của dạy tập đọc là:  Hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi.  Biết thêm những từ ngữ (gồm cả những thành ngữ, tục ngữ dễ hiểu) về lao động sản xuất, văn hóa, xã hội, bảo vệ Tổ quốc,…  Biết cấu tạo ba phần của bài văn; bước đầu nhận biết đoạn văn, ý chính.  Đọc đúng và rành mạch bài văn (khoảng 70 – 80 tiếng/phút), nắm được ý chính của bài.  Bồi dưỡng cho học sinh tình yêu tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, ở lớp 3 nội dung hướng dẫn đọc ở một số bài mới chỉ dừng lại những lưu ý phát âm đúng các từ ngữ hoặc âm thanh của tiếng Việt, chưa chú ý đầy đủ tới các phương diện (thao tác) khác nhằm tái hiện các tác phẩm hoặc khắc sâu kiến thức. Trong khi đó, đọc đối với học sinh lớp 3 ngoài việc phát âm đúng học sinh phải đọc lưu loát từng đoạn và từng bài, biết ngắt nghỉ cho phù hợp theo thể thơ hay nội dung bài học. Bước đầu đọc diễn cảm được bài có cảm xúc, biết nhấn giọng ở những từ biểu cảm, gợi tả, biết đọc rõ lời tác giả, lời nhân vật. Thực tế hiện nay cho thấy kỹ năng đọc của học sinh lớp 3 còn hạn chế, ngay cả giáo viên cũng chưa tìm ra phương pháp để nâng cao kết quả giờ đọc. Một số giáo viên nhận thức chưa sâu về tầm quan trọng của việc hình thành năng lực đọc cho học sinh trong phân môn tập đọc. Quan niệm của một bộ phận giáo viên còn coi nhẹ việc rèn luyện các kỹ năng đọc cho học sinh, ít quan tâm đến chất lượng đọc. Chưa có nhiều biện pháp hay để rèn các kỹ năng đọc cho học sinh trong phân môn tập đọc. Một số giáo viên còn thỏa mãn với những phương pháp rập khuôn máy móc khi dạy tập đọc mà chưa có những đổi mới năng động để tìm ra các biện pháp hay đáp ứng được những yêu cầu của phân môn tập đọc. Mặc dù học sinh học có theo phương pháp mới nhưng cũng là đọc cá nhân, đọc theo nhóm,… giáo viên hầu hết không kiểm soát được tốc độ đọc, cách đọc của học sinh, không sửa sai cho học sinh. Đây là nguyên nhân làm cho học sinh hoạt động không tích cực, sinh ra nhàm chán khi học tập đọc. Để nâng cao chất lượng đọc cho học sinh và tránh nhàm chán cho các em trong giờ tập đọc ở lớp 3 nói chung và ở trường Tiểu học Hải Thành nói riêng, tôi chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả học tập phân môn tập đọc lớp 3, trường Tiểu học Hải Thành, Đồng Hới, Quảng Bình thông qua phương pháp rèn luyện theo mẫu”. 2. Mục đích nghiên cứu: Tập đọc là phân môn thực hành vì vậy nhiệm vụ của nó là hình thành kỹ năng đọc cho học sinh. Kỹ năng đọc có nhiều mức độ: đọc đúng, đọc nhanh. Dạy đọc, giáo dục lòng ham đọc sách cho học sinh giúp các em thấy được đây chính là con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ phát triển. Tập đọc góp phần làm giàu vốn kiến thức ngôn ngữ, bồi dưỡng cho học sinh lòng yêu cái thiện và cái đẹp, dạy cho học sinh các cách tư duy có hình ảnh. Việc nghiên cứu để tìm ra một số biện pháp hướng dẫn học sinh rèn đọc nằm nâng cao chất lượng dạy và học đã trở thành một yêu cầu cấp thiết đối với người giáo viên và trở thành một đòi hỏi đầu tiên đối với người học. Rèn đọc tốt làm cho học sinh đọc đúng, đọc diễn cảm các bài tập đọc, bài thơ, bài văn, các em hiểu đúng nội dung từng bài. Từ đó học sinh chiếm lĩnh được ngôn ngữ dùng trong giao tiếp và học tập. Đặc biệt khi đọc các tác phẩm văn chương, các em không chỉ được thức tỉnh về nhận thức, mà còn rung động về tình cảm, nảy nở những ước mơ tốt đẹp, được khơi dậy năng lực hành động, sức mạnh sáng tạo cũng như bồi dưỡng thêm tâm hồn. Học sinh đọc tốt sẽ giúp các em có những hiểu biết rộng hơn, các em dễ dàng tiếp thu được những cái văn minh của nhân loại, hướng cho các em tới lòng yêu cái thiện, yêu cái đẹp, dạy cho các em biết suy nghĩ một cách lôgic. Như vậy, vấn đề “dạy” và “học” có một ý nghĩa to lớn vì nó bao gồm các nhiệm vụ: Giáo dưỡng, giáo dục và phát triển đọc chính là học, học nữa, học mãi, đọc để tự học, học cả đời. Qua nghiên cứu giúp cho các giáo viên có sự nhìn nhận đúng hơn, sâu hơn về tầm quan trọng của việc rèn đọc. Từ đó giáo viên biết lựa chọn tìm ra những biện pháp tốt nhất, những phương pháp phù hợp với đặc trưng của phân môn, hướng dẫn học sinh đọc tốt hơn để nâng cao hiệu quả giờ tập đọc. Để làm tốt được những nhiệm vụ nêu trên, đề tài của tôi mục đích đưa ra biện pháp để giúp giáo viên có phương pháp dạy học tốt hơn nhằm giúp học sinh đọc thông được văn bản, đọc đúng ngữ điệu,… nhằm nâng cao chất lượng của một giờ dạy tập đọc ở lớp 3. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu:  Học sinh lớp 3, trường Tiểu học Hải Thành và phương pháp rèn luyện theo mẫu trong giờ tập đọc. 4. Giả thuyết khoa học: Chất lượng “đọc” của học sinh được nâng cao khi giáo viên sử dụng phương pháp rèn luyện theo mẫu trong giờ tập đọc và học sinh hoạt động tích cực, không nhàm chán trong giờ học tập đọc. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài: Những điều vừa nêu trên nhằm để khẳng định sự cần thiết của việc hình thành và phát triển một cách có hệ thống và có kế hoạch năng lực đọc cho học sinh. Tập đọc với tư cách là một phân môn của Tiếng Việt ở Tiểu học có nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu này - yêu cầu hình thành và phát triển năng lực đọc cho học sinh. 5.1. Tập đọc là một phân môn thực hành: Vì thế nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo nên từ bốn kỹ năng cũng là bốn yêu cầu về chất lượng của “đọc” đọc đúng, đọc nhanh, đọc hiểu, đọc diễn cảm, bốn kỹ năng này được hình thành trong hai hình thức đọc: Đọc thành tiếng, đọc thầm. Chúng được rèn luyện đồng thời và hỗ trợ lẫn nhau, vì vậy trong dạy học không thể xem nhẹ yếu tố nào. 5.2. Nhiệm vụ thứ hai của đọc là: Giáo dục lòng ham đọc sách, hình thành phương pháp và thói quen làm việc với văn bản, làm việc với sách báo cho học sinh. Nói cách khác, thông qua việc dạy học phải giúp học sinh thích đọc và thấy được ý nghĩa của việc đọc, phải làm cho các em thấy đó là một trong những con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát triển. 5.3. Ngoài ra, dạy học còn có các nhiệm vụ khác: Đó là làm giàu kiến thức về đời sống và kiến thức văn học cho học sinh: + Phát triển ngôn ngữ và tư duy cho học sinh. + Giáo dục tư tưởng, đạo đức, tình cảm, thị hiếu thẩm mỹ cho học sinh. + Giúp học sinh biết đọc để giao tiếp và giải trí. 6. Giới hạn nghiên cứu của đề tài:  Học sinh lớp 3, trường Tiểu học Hải Thành.  Phân môn tập đọc, tập trung vào việc rèn đọc cho học sinh thông qua phương pháp rèn luyện theo mẫu. 7. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu: Hoạt động trong giờ tập đọc đó là một hoạt động trí tuệ phức tạp mà cơ sở là việc tiếp nhận thông tin, dựa vào hoạt động của cơ quan thị giác. Đọc được xem là hoạt động có hai mặt quan hệ mật thiết với nhau, là cơ chế sử dụng mật mã gồm hai phương diện: Một là quá trình vận động của mắt, sử dụng bộ mã chữ - âm để phát ra một cách trung thành những dòng văn tự ghi lại lời nói âm thanh. Thứ hai là sự vận dụng tư tưởng, tình cảm sử dụng bộ mã chữ - nghĩa (tức là mối quan hệ giữa các con chữ và lý tưởng). Khái niệm chứa đựng bên trong để nhớ và hiểu được nội dung những gì đã đọc được. Mục tiêu cuối cùng của phát triển kỹ năng đọc là đạt đến sự tổng hợp giữa những mặt riêng lẻ của quá trình đọc. Dạy tập đọc là dạy đọc đúng, từ đọc đúng sẽ đi đến đọc hiểu, chính đọc hiểu là mục tiêu cuối cùng của dạy tập đọc. Phương pháp dạy tập đọc phải dựa trên những cơ sở của ngôn ngữ học. Nó liên quan mật thiết đến vấn đề ngôn ngữ học như vấn đề chính âm, chính tả, chữ viết, ngữ điệu (thuộc ngữ âm học), vấn đề dấu câu, các kiểu câu (thuộc ngữ pháp học), vấn đề nghĩa của câu, đoạn, bài. Việc hình thành kỹ năng đọc đúng, đọc diễn cảm và đọc hiểu phải dựa trên những tiêu chuẩn đánh giá một văn bản, tính chính xác, tính đúng đắn, tính thẩm mỹ, dựa trên những đặc điểm kiểu ngôn ngữ, của phong cách chức năng, các thể loại văn bản được dùng làm ngữ liệu ở Tiểu học. Hướng dẫn học sinh cách đọc phải dựa trên những hiểu biết về văn học, tính hình tượng, tính tổ chức cao và tính hàm súc đa nghĩa của nó. Với học sinh lớp 3, đặc điểm tâm lý ở lứa tuổi này đã bắt đầu chuyển giai đoạn từ nhận thức cảm tính sang màu sắc lý tính nhiều hơn. Vì vậy trong mục tiêu, yêu cầu của dạy tập đọc cũng được nâng cao lên, đó là học sinh ngoài đọc đúng, đọc hay, các em còn phải rèn kỹ năng đọc thầm, đọc hiểu để cảm thụ tốt nội dung văn bản. Ở giai đoạn này, ngôn ngữ của các em rất phát triển, cùng vốn ngôn ngữ thì tư duy của các em cũng rất phong phú, đa dạng, có tính sáng tạo, tưởng tượng cao. Chính vì vậy, phương pháp dạy học của giáo viên phải đáp ứng được mục tiêu dạy học, giúp học sinh đọc tốt, cảm thụ được văn bản. Đặc biệt khi giáo viên làm mẫu hướng dẫn cho học sinh cách đọc, ngắt, nghỉ, cao giọng, hạ giọng,… sẽ giúp các em đọc tốt hơn, hứng thú học tập hơn. Vì thế sẽ phát huy hiệu quả của giờ dạy tập đọc và đó chính là mục tiêu của mỗi chúng ta, đó là công cụ của mỗi học sinh để tiếp cận thế giới, tiếp cận với tri thức nhân loại. Để thực hiện đề tài này, tôi sử dụng phương pháp rèn luyện theo mẫu kết hợp với một số phương pháp sau:  Phương pháp nghiên cứu lý luận: + Đọc các tài liệu, sách có liên quan đến đề tài. + Các tài liệu dạy (sách giáo khoa) cũng như thực tế dạy học trên lớp.  Phương pháp nghiên cứu thực tế: + Phương pháp điều tra khảo sát thực tế. + Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục. + Phương pháp thực nghiệm. + Phương pháp nghiên cứu trẻ em. 8. Đóng góp mới của đề tài: Đề tài giúp giáo viên có cái nhìn sâu hơn về vai trò của việc rèn đọc cho học sinh, đặc biệt là học sinh lớp 3. Đồng thời nâng cao hiệu quả học tập môn tập đọc cho học sinh lớp 3 ở trường Tiểu học Hải Thành nói riêng và tất cả học sinh lớp 3 nói chung. 9. Thời gian thực hiện: 10. Kết cấu của đề tài: A. Phần mở đầu. B. Nội dung chính. - Chương I. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu - Chương II. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu - Chương III. Biện pháp và thực nghiệm khoa học C. Kết luận. D. Tài liệu tham khảo. E. Phụ lục. B. NỘI DUNG CHÍNH CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu: Hoạt động dạy học đã góp phần thúc đẩy xã hội loài người không ngừng phát triển. Thông qua hoạt động đọc, chúng ta tiếp thu những kiến thức, khả năng tích lũy của người đi trước, tiếp nhận các sản phẩm của người xưa để lại, cập nhật được những kiến thức, những thành tựu khoa học và tiến bộ của xã hội loài người. Vì vậy, đối với con người trong thời đại văn minh thì đọc là điều không thể thiếu được. Ở lớp 3, học sinh đã biết đọc, biết tư duy nên để tạo được sự sinh động, hứng thú, sôi nổi, để lôi cuốn sự chú ý của các em thì người giáo viên phải luôn luôn tìm tòi cách luyện đọc cho học sinh sao cho có hiệu quả hơn. Khi dạy tập đọc cho học sinh lớp 3, vấn đề không phải chỉ là dạy cho học sinh đọc to, rõ ràng mà còn phải dạy cho học sinh đọc đúng, lưu loát, ngắt, nghỉ, hạ giọng, cao giọng, đọc nhớ, đọc nhanh, ngoài ra còn giúp các em hiểu và cảm thụ tốt bài học đó thì học sinh mới đọc hay, đọc diễn cảm được bài đọc đó, phải hiểu được bài đọc đó nói lên cái gì? và các em đọc được cái gì? qua mỗi bài học. Phát âm chuẩn chính âm sẽ giúp người nghe cảm nhận được đầy đủ và chính xác giá trị nội dung của văn bản. Vì vậy, việc rèn luyện, đề xuất các biện pháp khắc phục lỗi phát âm cho học sinh là vấn đề mà nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu. Với những cuốn sách cơ bản như: Giáo trình “Phương pháp dạy học Tiếng Việt” của Lê A – Thành Thị Yên Mĩ – Lê Phương Nga – Nguyễn Trí – Cao Đức Tiến cũng đưa ra cơ sở lý luận các nguyên tắc và phương pháp dạy Tập đọc, nhấn mạnh đến các phương pháp như phương pháp trực quan, phương pháp đàm thoại, phương pháp luyện tập theo mẫu. “Phát triển lời nói cho học sinh Tiểu học trên bình diện ngữ âm” (tài liệu đào tạo giáo viên Tiểu học), dự án phát triển giáo viên Tiểu học của Nguyễn Thị Xuân Yến – Lê Thị Thanh Nhàn (NXB Giáo dục 2007) đã mô tả hệ thống âm chuẩn trong tiếng Việt hiện đại, xác định lỗi phát âm, xác định biến thể phát âm theo các vùng phương ngữ cho học sinh Tiểu học. Trong cuốn sách này tác giả đã đưa ra được cơ sở lý luận, một số phương pháp dạy phát âm ở Tiểu học. Công trình “Ngữ âm học Tiếng Việt hiện đại” của tác giả Cù Đình Tú – Hoàng Văn Thung – Nguyễn Nguyên Trứ (NXB Giáo dục, 1978) đã đề cập đến một số vấn đề liên quan đến ngữ âm học trong nhà trường. “Dạy học tập đọc ở Tiểu học” – Lê Phương Nga, đã nghiên cứu đến việc xác định chuẩn chính âm trong Tiếng Việt và hướng đến một trong ba mẫu hình lý tưởng để luyện phát âm cho học sinh. Do đó, đòi hỏi người giáo viên phải có phương pháp dạy học thiết thực, phù hợp với nội dung của môn học và trình độ của học sinh, cần phải có sự đổi mới phương pháp dạy học tích cực. Đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học là vấn đề đã được Đảng, Nhà nước và Bộ Giáo dục và Đào tạo đặt ra từ những năm 90. Đã có không ít những đề tài nghiên cứu khoa học lớn nhỏ của các nhà khoa học, nhà giáo,… và rất nhiều các cuốn sách, tài liệu trình bày về đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học như: “Đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục ở Tiểu học” – Nguyễn Kế Hào, Nguyễn Hữu Dũng – NXBGD 1998, “Dạy văn cho học sinh Tiểu học” – Hoàng Hòa Bình – NXBGD 1999,… Đặc biệt đáng quan tâm là nội dung đổi mới phương pháp dạy học được cụ thể hóa trong các tài liệu tập huấn thay sách cho giáo viên Tiểu học từ năm 2001 đến nay và sách giáo viên của tất cả các lớp, các môn học ở Tiểu học. Song đó chỉ là những vấn đề lý luận về đổi mới phương pháp trong dạy học nói chung còn việc vận dụng trong thực tế một cách cụ thể như thế nào lại phụ thuộc vào năng lực của giáo viên, trình độ của học sinh, điều kiện học tập,…. Trên cơ sở những lý luận đã có, tôi tiến hành nghiên cứu một cách cụ thể và thử nghiệm đối với học sinh lớp 3 với phương pháp rèn luyện theo mẫu của giáo viên để có hiệu quả cao nhất trong việc dạy học phân môn tập đọc ở lớp 3, góp phần giúp đỡ học sinh yếu kém, nâng cao chất lượng học tập cho học sinh. 2. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu: 2.1. Cơ sở tâm sinh lý, đặc điểm tâm lý học sinh Tiểu học: Học sinh Tiểu học – con người với cấu tạo đầy đủ các bộ phận của cơ thể đang phát triển. Trong đó cơ quan phát âm phát triển và dần hoàn thiện, ngôn ngữ phát triển mạnh, phù hợp với sự tiếp nhận và thực hiện dễ dàng hoạt động mới theo chức năng của chúng. Chức năng phát âm – tập đọc. Khả năng nhận thức, tư duy, tưởng tượng, tình cảm, trí nhớ và nhân cách học sinh đang được hình thành, tiềm tàng khả năng phát triển và đang được phát triển. Học sinh Tiểu học hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng, hiếu động, tò mò, thích hoạt động, khám phá, thường độc lập, tự làm việc theo hứng thú của mình. Thầy cô là hình tượng mẫu mực nhất, được trẻ tôn sùng nhất, mọi điều trẻ đều nhất nhất nghe theo; sự phát triển nhân cách học sinh Tiểu học phụ thuộc phần lớn vào quá trình dạy học và giáo dục của thầy cô trong nhà trường Tiểu học. Dạy Tập đọc cho học sinh Tiểu học, đặc biệt ở các lớp đầu cấp là bước đầu đem đến sự vận động khoa học cho bộ não và các cơ quan phát âm, ngôn ngữ, đem đến những tinh hoa văn hóa, cảm thụ văn hóa, rèn luyện tình cảm đạo đức, ý chí, ý thức, hành động đúng cho trẻ, định hướng con đường phát triển, hình thành nhân cách trẻ; phát triển khả năng học tập các môn học khác, là điều kiện phát triển toàn diện học sinh Tiểu học. Nhân cách học sinh Tiểu học phát triển đúng đắn hay lệch lạc phụ thuộc vào quá trình giáo dục của người thầy Tiểu học mà trong đó phương tiện là nghe, nói, đọc, viết có được nhờ học tập đọc. Dạy học tập đọc đòi hỏi người thầy phải có phương pháp dạy học phù hợp với đặc điểm sinh lý học sinh Tiểu học, phù hợp sự phát triển tiến bộ của khoa học, xã hội, đáp ứng nhu cầu ham hiểu biết của học sinh Tiểu học và tăng cường giá trị giáo dục đạo đức, nhân cách trẻ. Để tổ chức dạy đọc cho học sinh, chúng ta cần hiểu rõ về quá trình đọc, nắm bắt bản chất của kỹ năng đọc. Đặc điểm tâm lý, sinh lý của học sinh khi đọc hay cơ chế của đọc là cơ sở của việc dạy học. Như trên đã nói, đọc là một hoạt động trí tuệ phức tạp mà cơ sở của việc tiếp nhận thông tin bằng chữ viết dựa vào hoạt động của cơ quan thị giác. Chúng ta đi vào phân tích đặc điểm của quá trình này:  Đọc được xem là một hoạt động có hai mặt quan hệ mật thiết với nhau, là việc sử dụng bộ phận mà gồm hai phương diện: Một mặt đó là quá trình vận động của mắt, sử dụng bộ mã chữ - âm để phát ra một cách trung thành những dòng văn tự ghi âm lời nói âm thanh. Mặt thứ hai đó là sự vận động của tư tưởng, tình cảm, sử dụng bộ mã chữ - nghĩa, tức là mối liên hệ giữa các con chữ và ý tưởng, các khái niệm chứa đựng bên trong để nhớ và hiểu cho được nội dung những gì được đọc.  Đọc bao gồm những yếu tố như tiếp nhận bằng mắt, hoạt động của các cơ quan phát âm, cơ quan thính giác và thông hiểu những gì được đọc. Càng ngày những yếu tố này càng gần nhau hơn, tác động đến nhau nhiều hơn. Nhiệm vụ cuối cùng của sự phát triển kỹ năng đọc là đạt đến sự tổng hợp giữa những mặt riêng lẻ này của quá trình đọc, đó là điểm phân tích để biết người mới biết đọc và người đọc thành thạo. Càng có khả năng tổng hợp các mặt trên bao nhiêu thì việc đọc càng hoàn thiện, càng chính xác, càng biểu cảm bấy nhiêu.  Dễ dàng nhận thấy rằng thuật ngữ “đọc” được sử dụng trong nhiều nghĩa: theo nghĩa hẹp, việc hình thành kỹ năng đọc trùng với việc nắm kỹ thuật đọc (tức là việc chuyển dạng thức chữ viết của từ thành âm thanh); theo nghĩa rộng, đọc được hiểu là kỹ thuật đọc (của những từ riêng lẻ của cả câu, cả bài), ý nghĩa hai mặt của thuật ngữ đọc được ghi nhận trong các tài liệu tâm lý học và phương pháp dạy học. Từ đây chúng ta sẽ hiểu đọc với ý nghĩa thứ hai – đọc được xem như là một hoạt động lời nói trong đó có các thành tố: + Tiếp nhận dạng thức chữ viết của từ. + Chuyển dạng thức chữ viết thành âm thanh, nghĩa là phát âm các từ theo từng chữ cái (đánh vần) hay là đọc thành từng tiếng tùy thuộc vào trình độ nắm kỹ thuật đọc. + Thông hiểu những gì được đọc (từ, cụm từ, câu, bài), kỹ năng đọc là một kỹ năng phức tạp, đòi hỏi một quá trình luyện tập lâu dài. Các nhà nghiên cứu đã chia việc hình thành kỹ năng ra làm ba giai đoạn: Phân tích, tổng hợp và tự động hóa. Giai đoạn dạy học vần và sự phân tích các chữ cái và đọc từng tiếng theo các âm. Giai đoạn tổng hợp thì đọc thành cả từ trọn vẹn, trong đó sự tiếp nhận bằng thị giác và phát âm hầu như trùng với sự nhận thức ý nghĩa. Tiếp theo sự thông hiểu ý nghĩa của “từ” trong cụm từ hoặc câu đi trước sự phát âm, tức là đọc được thực hiện trong sự phán đoán các nghĩa. Bước sang lớp 2, 3 học sinh bắt đầu đọc tổng hợp, quá trình rèn đọc bao gồm các bước sau:  Luyện đọc đúng: Gồm luyện phát âm và ngắt nghỉ hơi đúng chỗ.  Đọc diễn cảm: Đối với học sinh Tiểu học không phải bao giờ cũng dễ dàng đọc tốt được tất cả các bài tập đọc, vì thế để học sinh đọc đúng, phát âm đúng các phụ âm đầu, âm chính, âm cuối, đọc đúng các thanh, đọc đúng các tiết tấu, ngắt hơi, ngữ điệu, đọc diễn cảm giáo viên cần đề ra các biện pháp cụ thể trong phần hướng dẫn học sinh rèn đọc trong giờ Tập đọc. Trong những năm học cuối cấp, đọc càng ngày càng tự động hóa, nghĩa là người đọc càng ít quan tâm đến quá trình đọc mà chú ý nhiều đến việc chiếm lĩnh văn hóa (bài khóa), nội dung của sự kiện, cấu trúc chủ đề, các phương tiện biểu đạt của nó. Thời gian gần đây, người ta đã chú trọng hơn đến những mối quan hệ quy định lẫn nhau của việc hình thành kỹ năng đọc và hình thành kỹ năng làm việc với văn bản. Để có giờ tập đọc đạt kết quả tốt, người giáo viên phải nắm được đặc điểm tâm sinh lý của học sinh, nắm được đặc điểm yêu cầu, bản chất kỹ năng, cơ chế đích cần đạt được của tiết dạy tập đọc. Trên cơ sở đó sử dụng phương pháp cho phù hợp. 2.2. Cơ sở ngôn ngữ và văn học: Phương pháp dạy tập đọc phải dựa trên những cơ sở của ngôn ngữ học. Nó liên quan chặt chẽ, mật thiết với một số vấn đề của ngôn ngữ học như vấn đề chính âm, chính tả, chữ viết, ngữ điệu (ngữ âm), vấn đề nghĩa của các từ, các đoạn bài (từ vựng học, ngữ nghĩa học), vấn đề dấu câu, các kiểu câu (ngữ pháp học).... Phương pháp dạy học dựa trên những kết quả nghiên cứu của ngôn ngữ học, việt ngữ học về những vấn đề nói trên để xây dựng, xác định nội dung và phương pháp dạy học. Bốn phẩm chất của đọc không thể tách rời những cơ sở ngôn ngữ học. Không coi trọng đúng mức những cơ sở này, việc dạy học sẽ mang tính tùy tiện và không đảm bảo hiệu quả dạy học. 2.2.1. Vấn đề chính âm trong tiếng Việt: Chính âm là các chuẩn mực phát âm của ngôn ngữ có giá trị và hiệu quả về mặt xã hội. Vấn đề chuẩn mực phát âm tiếng Việt đang là vấn đề thời sự, có nhiều ý kiến khác nhau. Nó liên quan đến nhiều vấn đề khác nhau như chuẩn hóa ngôn ngữ, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, mục đích của việc xây dựng chính âm. 2.2.2. Vấn đề ngữ điệu của tiếng Việt: Theo nghĩa hẹp, ngữ điệu là sự thay đổi giọng nói, giọng đọc, là sự lên cao hay hạ thấp giọng đọc, giọng nói. Ngữ điệu là một trong những thành phần của ngôn điệu. Ngữ điệu là yếu tố gắn chặt với lời nói, là yếu tố tham gia tạo thành lời nói. Mỗi ngôn ngữ có một ngữ điệu riêng. Ngữ điệu tiếng Việt như các ngôn ngữ có thanh điệu khác, chủ yếu được biểu hiện ở sự lên giọng và xuống giọng (cao độ), sự nhấn giọng (cường độ), sự ngừng giọng (trường độ) và sự chuyển giọng (phối hợp cả trường độ và cường độ). Ngữ điệu là một hiện tượng phức tạp có thể tách ra thành các yếu tố cơ bản có quan hệ với nhau: chỗ nghỉ (ngưng giọng hay ngắt giọng), trọng âm, âm điệu, âm nhịp và âm sắc. Dạy đọc đúng ngữ điệu là dạy học sinh biết làm chủ những yếu tố này. 2.2.3. Cơ sở lý thuyết cơ bản, phong cách học và văn học của dạy học: Việc dạy học không thể dựa trên lý thuyết về văn bản, những tiêu chuẩn để phân tích, đánh giá một văn bản (ở đây muốn nói đến những bài đọc ở Tiểu học) nói chung cũng như lý thuyết để phân tích, đánh giá các tác phẩm văn chương nói riêng. Việc hình thành kỹ năng đọc đúng, đọc diễn cảm và đọc hiểu cho học sinh phải dựa trên những tiêu chuẩn đánh giá một văn bản tốt: tính chính xác, tính đúng đắn và tính thẩm mỹ, dựa trên những đặc điểm về các kiểu ngôn ngữ, các phong cách chức năng, các thể loại văn bản, các đặc điểm về thể loại của các tác phẩm văn chương dùng làm ngữ liệu đọc ở Tiểu học. Tất cả những vấn đề trên đều thuộc phạm vi nghiên cứu của lý thuyết văn học. Vì vậy ta dễ dàng nhận thấy phương pháp dạy tập đọc không thể không dựa trên những thành tựu nghiên cứu của lý thuyết văn bản nói chung và nghiên cứu văn học nói riêng. 2.3. Cơ sở thực tiễn: Chương trình sách giáo khoa lớp 3:  Chương trình sách giáo khoa phân môn Tập đọc lớp 3. Phân môn Tập đọc lớp 3 gồm 102 tiết/33 tuần, mỗi tuần có 3 tiết. Bài tập đọc lớp 3 gồm các phần: Văn bản đọc, chú giải những từ ngữ khó, hướng dẫn đọc (chỉ dẫn cách đọc một số câu khó, đoạn khó về cách ngắt nhịp, nhấn giọng hoặc gợi ra những đặc điểm nội dung, những sắc thái tình cảm được biểu hiện qua giọng đọc). Phần tìm hiểu bài gồm những câu hỏi, bài tập giúp học sinh hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật của bài văn, bài thơ, ở nhiều bài còn có thêm yêu cầu học thuộc lòng.  Nguyên tắc và phương pháp dạy học sinh rèn đọc: Qua quá trình tìm hiểu thực tế, nhìn chung mỗi giờ tập đọc đều có hai phần lớn: Tìm hiểu nội dung bài và luyện đọc. Hai phần này có thể tiến hành cùng một lúc đan xen vào nhau hoặc cũng có thể dạy tách rời hai phần tùy vào từng bài và tùy vào mỗi giáo viên. Song dù dạy theo cách nào thì hai phần này vẫn luôn có mối liên hệ tương hỗ khăng khít. Phần tìm hiểu bài giúp cho học sinh hiểu kỹ nội dung nghệ thuật của bài, từ đó học sinh sẽ đọc bài đúng, diễn cảm để thể hiện nội dung của bài, thể hiện những hiểu biết của mình xung quanh bài học. Như vậy, phần rèn đọc cho học sinh có vai trò rất quan trọng, học sinh đọc tốt giúp các em hoàn thiện được năng lực giao tiếp bằng ngôn ngữ của chính bản thân mình. Đọc tốt giúp các em hiểu biết, tiếp thu được nền văn minh của loài người, bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm. Đọc giúp học sinh phát triển tư duy, giáo dục các em những tình cảm tốt đẹp. Trong quá trình rèn đọc, giáo viên cần sử dụng một cách linh hoạt các phương pháp khác nhau để phù hợp với đặc trưng của phân môn và phù hợp với nội dung của bài học. Trong quá trình hướng dẫn học sinh rèn đọc, trước hết giáo viên sử dụng phương pháp làm mẫu, nghĩa là giáo viên đọc mẫu cho học sinh bắt chước đọc theo . Sau đó giáo viên phối hợp phương pháp luyện tập theo mẫu và luyện tập củng cố để tập trung tiến hành rèn đọc cho học sinh. Cụ thể, giáo viên hướng dẫn học sinh đọc đúng tiết tấu, ngắt hơi đúng chỗ, đúng ngữ điệu câu. Từ đó hướng dẫn học sinh cách đọc diễn cảm để biểu đạt đúng ý nghĩa và tình cảm mà tác giả đã gửi gắm trong bài đọc. Trong mỗi giờ dạy và đặc biệt trong quá trình hướng dẫn học sinh rèn đọc, giáo viên còn phải đổi mới phương pháp dạy học luôn “Lấy học sinh làm trung tâm” giáo viên chỉ là người hướng dẫn, tổ chức học sinh tự tìm, tự phát hiện và luyện đọc đạt kết quả tốt. Không những thế mà trong giảng dạy phân môn Tập đọc chúng ta còn phải chú ý đến một số nguyên tắc sau: Nguyên tắc phát triển lời nói (Nguyên tắc thực hành): Chúng ta ai cũng biết trẻ em không thể lĩnh hội được chữ viết nếu không nắm được lời nói miệng. Do vậy, khi giảng dạy cần phải đảm bảo nguyên tắc này. Điều này được thể hiện rõ hơn ở phần luyện đọc, ở phần này học sinh được rèn luyện về cách phát âm, cách ngắt nghỉ hơi đúng chỗ, cách đọc đúng ngữ điệu và học cách đọc như cô giáo. Để giờ Tập đọc đạt hiệu quả cao thì phải đảm bảo nguyên tắc phát triển tư duy, phát triển tính tích cực, chủ động của học sinh. Do vậy, ở phần luyện đọc giáo viên cần gợi mở, hướng dẫn học sinh tự xác định được những chỗ cần ngắt giọng, những từ cần ngắt giọng ở những câu văn dài giàu hình ảnh, biết lên giọng hạ giọng ở những câu thơ, câu văn trong bài. Từ đó tìm ra cách đọc hay hơn. Như vậy để học sinh học tốt phân môn Tập đọc, đặc biệt là vấn đề rèn đọc đối với học sinh lớp 3 chúng ta cần đảm bảo các nguyên tắc và phương pháp trên.  Hoạt động dạy – học của giáo viên và học sinh: Trường Tiểu học Hải Thành nằm ở gần trung tâm địa bàn thành phố Đồng Hới, do vậy đa số học sinh là con của cán bộ công chức. Hội thường trực phụ huynh học sinh thường xuyên quan tâm đến học sinh, đến công tác dạy và học của nhà trường. Giáo viên chủ nhiệm quan tâm, nhiệt tình với lớp, biết vận dụng phương pháp dạy học mới “lấy học sinh làm trung tâm”. Ban giám hiệu và các tổ chức đoàn thể trong nhà trường tạo mọi điều kiện thuận lợi cho mọi hoạt động của khối lớp. Tất cả những thuận lợi trên góp phần thúc đẩy mọi hoạt động của khối lớp 3 cùng phấn đấu vươn lên. Bên cạnh những thuận lợi trường còn không ít khó khăn, cơ sở vật chất còn hạn chế, đa số các em học sinh đọc rất tốt nhưng phần đọc diễn cảm chưa hay và chưa đúng, phương pháp dạy của giáo viên chưa phát huy tối đa tính tích cực, chủ động của học sinh. Để đảm bảo cho học sinh đọc tốt, tôi đã khảo sát chất lượng học sinh đầu năm. Kết quả như sau: Tổng số học sinh Giỏi Khá Trung bình Yếu ………………. ………… ………… ………….. ………… Với thực tế khảo sát chất lượng học sinh, tôi thấy: Để khách quan đánh giá, nhận xét tôi tìm hiểu thêm một số trường ban, tham khảo tài liệu, giáo viên phải thực sự yêu nghề, mến trẻ, hăng say, nhiệt tình trong công tác giảng dạy.  Tìm hiểu điều tra thực tế (về hiện trạng, giảng dạy giờ tập đọc nói chung và lớp 3 nói riêng) bằng cách thức và phương pháp khác nhau như: Dự giờ, kiểm tra miệng, phỏng vấn, quan sát,… chúng tôi thu thập được một số vấn đề đáng lưu ý như sau: Quan điểm của giáo viên về Tập đọc: Nhìn chung giáo viên Tiểu học đều rất coi trọng giờ Tập đọc. Tuy nhiên, khi dạy phần luyện đọc vẫn còn một số giáo viên chưa coi trọng việc rèn những lỗi phát âm sai ở địa phương, đặc biệt là còn đọc ngọng l, n, b, v và dấu (~), dấu (`) ở một số học sinh, phần đọc diễn cảm còn quá yếu. Giáo viên hầu như không kiểm soát được học sinh của mình khi đọc, các em chỉ cần học thuộc lòng là được. CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ CẦN NGHIÊN CỨU 1. Các bước tiến hành và kết quả quan sát, điều tra, thí nghiệm liên quan đến đề tài: 1.1. Quá trình khảo sát: - Địa điểm: Trường Tiểu học Hải Thành là ngôi trường thuộc phường Hải Thành, thành phố Đồng Hới. Từ khi thành lập đến nay trường đã không ngừng cố gắng, phát triển cả về cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học cũng như đội ngũ cán bộ của nhà trường. - Thời gian: 1.2. Phương pháp khảo sát: Có thể sử dụng các phương pháp sau: + Phương pháp điều tra khảo sát thực tế. + Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục. + Phương pháp thực nghiệm. + Phương pháp nghiên cứu trẻ em. 1.3. Quá trình triển khai thực hiện: - Chuẩn bị cho việc đọc. - Luyện đọc đúng. - Luyện đọc lưu loát. - Luyện đọc có ý thức (đọc hiểu). - Luyện đọc diễn cảm. - Chú ý đọc mẫu của giáo viên. 2.Kết quả điều tra và khảo sát thực tiễn: - Về sách giáo khoa: Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 3 (có hai tập) gồm 15 đơn vị học, mỗi đơn vị gắn với một chủ điểm. - Về giáo viên và học sinh: Hiện nay còn một số giáo viên kỹ năng đọc chưa tốt, chưa chú ý sửa sai cho học sinh, chưa chú ý theo dõi tốc độ đọc cho học sinh, do chưa nắm vững về kiến thức chuẩn của học sinh từng khối lớp. - Kết quả điều tra thực trạng: Qua khảo sát thực trạng dạy và học tập đọc ở lớp 3, trường Tiểu học Hải Thành cho thấy kỹ năng đọc của học sinh chưa tốt, giáo viên chưa chú ý sửa sai cho học sinh, chưa chú ý theo dõi tốc độ đọc cho học sinh cho dù học sinh có đọc đúng. Giáo viên hầu hết không kiểm soát được học sinh của mình, khi đọc các em chỉ cần học thuộc là được. CHƯƠNG III. BIỆN PHÁP VÀ THỰC NGHIỆM KHOA HỌC 1. Biện pháp, giải pháp khắc phục: Để giờ học nhẹ nhàng, đem lại hiệu quả thiết thực (nhất là đối với học sinh có điều kiện còn khó khăn trong học tập) khi dạy cần tập trung vào yêu cầu cơ bản, cần linh hoạt phương pháp dạy tập đọc nhằm đạt hiệu quả thiết thực. Với lớp 3 học sinh cần đọc đúng và rành mạch bài văn (đạt yêu cầu khoảng 70 tiếng/phút), những em đọc tốt có thể đọc diễn cảm, để đạt được yêu cầu này giáo viên cần sử dụng linh hoạt các biện pháp, hình thức tổ chức cho học sinh luyện đọc. - Hướng dẫn đọc từng câu: Học sinh nối tiếp nhau đọc từng câu, cần theo dõi học sinh đọc để sửa lỗi phát âm, kết hợp luyện đọc đúng từ ngữ. Giáo viên nên chia nhỏ văn bản cho nhiều học sinh được tham gia vào quá trình luyện tập, qua đó bộc lộ năng lực đọc của từng cá nhân, lắng nghe học sinh đọc để cảm nhận được ưu điểm và hạn chế về kỹ năng đọc của học sinh để từ đó có biện pháp động viên hay giúp đỡ kịp thời. Những thông tin ngược là cơ sở để giáo viên lựa chọn nội dung dạy học thiết thực tránh áp đặt mang tính chủ quan. Được đọc và nghe bạn đọc từng câu học sinh nhận thức được đơn vị nhỏ nhất của lời nói là câu. Từ đó học sinh sẽ học tốt các môn học còn lại. - Hướng dẫn học sinh đọc từng đoạn trước lớp: Học sinh nối tiếp nhau đọc từng đoạn trong bài. Giáo viên theo dõi học sinh đọc để gợi ý hướng dẫn học sinh cách ngắt nghỉ, cách ngắt nhịp cho đúng, đọc đúng ngữ điệu câu và tập phân biệt lời người dẫn truyện với lời nhân vật (nếu có); hướng dẫn học sinh tìm hiểu nghĩa của từ ngữ được chú giải trong sách giáo khoa thông qua đọc; từ ngữ chưa quen thuộc với học sinh địa phương (nếu có). - Hướng dẫn đọc từng đoạn trong nhóm: Có thể linh hoạt đọc theo nhóm đôi, nhóm bốn, dựa vào cách đọc được hướng dẫn trên lớp. Học sinh cần đọc và theo dõi nhận xét bạn đọc. Giáo viên cần tạo cho học sinh thói quen đọc vừa phải để không ảnh hưởng đến nhóm khác, có kỹ năng nghe và theo dõi sách giáo khoa để xác nhận kết quả đọc của bạn. - Hướng dẫn đọc đồng thanh: Hoạt động này chỉ vận dụng linh hoạt. + Để phát huy tác dụng của hình thức luyện đọc đồng thanh, giáo viên cần luyện cho học sinh có cách đọc nhẹ nhàng, vừa phải.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan