Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu, điều tra nguồn tài nguyên cây thuốc tại huyện xín mần, tỉnh hà giang...

Tài liệu Nghiên cứu, điều tra nguồn tài nguyên cây thuốc tại huyện xín mần, tỉnh hà giang

.PDF
87
367
109

Mô tả:

Chƣơng 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 3.1. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA NGUỒN CÂY THUỐC VÀ PHÂN TÍCH TÍNH ĐA DẠNG NGUỒN TÀI NGUYÊN NÀY Ở HUYỆN XÍN MẦN TỈNH HÀ GIANG 3.1.1. Kêt quả điều tra nguồn cây thuốc Như đã trình bày ở phần Phương pháp và Địa điểm điều tra, việc điều tra nghiên cứu về nguồn cây thuốc ở huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang được tiến hành trên tổng số 12 xã và thị trấn trong vòng 2 năm (2014 và 2015). Do công tác điều tra thu thập thực hiện vào các xã là cuối mùa xuân và đầu mùa hè, nên hầu hết các loài cây thuốc đang vào mùa sinh trưởng phát triển mạnh, nhiều loài đang có hoa quả nên thuận lợi trong việc nhận dạng các loài. Sau khi tiến hành kiểm tra, xác định tên khoa học các loài cây thuốc đã thu thập, kết quả cho thấy, đã ghi nhận được ở huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang có 209 loài cây thuốc, thuộc 183 chi, 114 họ của 5 ngành thực vật cụ thể ở bảng sau: Bảng 3.1. Kết quả điều tra về thành phần loài cây thuốc ở huyện Xín Mần STT Ngành và Lớp Số họ Số chi Số loài 1 Ngành Mộc tặc/Tháp bút (Equisetophyta) 1 1 2 1 2 2 5 6 6 2 3 4 105 171 195 90 137 147 2 3 4 5 5.1 Ngành Thông đất /Thạch tùng (Lycopodiophyta) Ngành Dương xỉ (Polypodiophyta) Ngành Thông / Hạt trần (Pinophyta/Gymnospermae) Ngành Ngọc lan /Hạt kín (Magnoliophyta/ Angiospermae) Lớp Ngọc lan /lớp Hai lá mầm 23 (Magnoliopsida / Dicotyledon) 5.2 Lớp Hành/lớp Một lá mầm (Liliopsida / Monocotyledon) Tổng số 15 34 48 114 183 209 Trong tổng số 209 loài thực vật làm thuốc đã biết thuộc 183 chi, 114 họ, 5 ngành thực vật bậc cao có mạch đều là các cây thuốc mọc tự nhiên. Trong đó ngành Ngọc lan phần lớn các loài thuộc lớp Ngọc lan - Hai lá mầm và một số ít thuộc lớp Hành - Một lá mầm. *Xây dựng danh lục cây thuốc huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang. Một trong những mục tiêu quan trọng nhất của công tác điều tra cây thuốc ở địa phương hay trên vùng lãnh thổ của một Quốc gia là phải phát hiện, thống kê được các loài thực vật có công dụng làm thuốc ở phạm vi nghiên cứu đó. Kết quả cuối cùng của nhiệm vụ này là xây dựng được tập Danh lục cây thuốc ở vùng nghiên cứu - ở đây chính là tập Danh lục cây thuốc huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang. Như chúng ta đã biết, để xây dựng được tập Danh lục cây thuốc cần phải đáp ứng được đầy đủ các thông tin về: - Tất cả các cây thuốc cần phải xác định được chính xác tên Khoa học đến loài, thứ (nếu có). Để bảo đảm tính khoa học cho tập Danh lục, nhìn chung các loài đều có tiêu bản thực vật kèm theo (ngoại trừ một số loài cây thuốc phổ thông như: Cỏ gấu, Cỏ màn trầu, Cỏ cứt lợn, Cỏ tranh, Rau má, Đơn kim, … do có sự phân bố gần như ở nhiều nơi tại miền Bắc Việt Nam, nên không nhất thiết phải thu thập tiêu bản kèm theo). - Từng loài cây thuốc cần có đủ một số thông tin khác, như tên gọi thông dụng, tên theo tiếng địa phương (nếu có), bộ phận dùng, cách sử dụng và công dụng chữa bệnh, phòng bệnh hay để bồi bổ sức khỏe. Sau khi kết thúc các đợt điều tra ngoại nghiệp, việc xác định tên khoa học và hệ thống lại các thông tin của các loài cây thuốc cũng đã hoàn tất. Tất cả những thông tin này là nguồn dẫn liệu ban đầu để xây dựng Danh lục cây thuốc. 24 Như ở kết quả nghiên cứu (3.1) đã đề cập, qua điều tra ở huyện Xín Mân, tỉnh Hà Giang đã phát hiện và ghi nhận được 209 loài cây thuốc thuộc 183 chi của 5 ngành thực vật bậc cao có mạch. Tập Danh lục cây thuốc huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang cũng sẽ gồm tổng số 209 loài. Các loài cây thuốc trong danh lục được biên soạn lần lượt theo vần ABC tên phổ thông. Thông tin đối với mỗi loài cây thuốc ở Phụ lục 1 gồm: Tên cây thuốc: + Tên thông dụng, tên theo tiếng địa phương (nếu có), +Tên khoa học (đã điều chỉnh hợp Danh pháp) + Họ thực vật. Công dụng và bộ phận dùng: Về công dụng và bộ phận dùng ghi nhận theo các tài liệu về cây thuốc Việt Nam và kinh nghiệm của nhân dân địa phương đã thu thập được trong quá trình điều tra nghiên cứu ở huyện Xín Mần. Dạng cây: Ở đây không nghiên cứu Dạng sống mà đơn giản chỉ ghi nhận về Dạng cây: Là cây gỗ, cây bụi, cây thảo cỏ/thân thảo (gồm cả dạng cây 1 năm và nhiều năm), dây leo (dây leo thảo và dây leo gỗ). Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của tập danh lục - Tập Danh lục là kết quả khoa học quan trọng nhất của đề tài điều tra, nghiên cứu, thu thập về cây thuốc ở huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang. Thông qua tập Danh lục, trước hết cho biết về tính đa dạng và phong phú của nguồn tài nguyên cây thuốc của huyện Xín Mần. Đó là sự đa dạng và phong phú về số lượng loài, về thành phần chủng loại (các nhóm cây, sự phong phú về các bậc taxon...), về dạng sống, về các bộ phận dùng và nhất là về giá trị làm thuốc của chúng. Hầu hết các cây thuốc được sử dụng theo kinh nghiệm, để chữa trị nhiều loại chứng bệnh thông thường mắc phải. Một số loài là nguyên liệu chiết xuất hoạt chất, trong công nghiệp dược (Bình vôi, Cỏ cứt lợn, Hy thiêm ...). Vài loài khác có giá trị xuất khẩu cao (Bình vôi, Đậu khấu, Thiên niên kiện, Cẩu tích ...). Tập Danh lục là tài liệu có thể sử dụng để giảng dạy, nghiên cứu và tham khảo về tài nguyên cây thuốc huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang, cũng như ở Việt Nam. 25 Ý nghĩa thực tiễn: Tập Danh lục này khác với loại Danh sách cây thuốc (List of medicinal plants) chỉ liệt kê tên các loài cây thuốc. Mặc dù tập Danh lục được xây dựng dưới dạng bảng, song mỗi loài lại đề cập được các thông tin cơ bản về cây thuốc (Catalogue). Bởi vậy, đây là tài liệu giúp cho các thầy thuốc y học cổ truyền (bao gồm cả các Ông lang Bà mế), nhận biết thêm các cây thuốc sẵn có tại địa phương để sử dụng. Nhiều loài có cách dùng đơn giản, an toàn nên có thể biên soạn lại, để hướng dẫn rộng rãi trong nhân dân. 3.1.2. Tính đa dạng của nguồn tài nguyên cây thuốc ở huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang * Đa dạng về các bậc taxona - Ở bậc Ngành (Phyta) Trong số 209 loài cây thuốc đã ghi nhận được thuộc hầu như tất cả các ngành thực vật bậc cao có mạch đã biết ở Việt Nam. Trong đó có nhiều loài nhất là ở ngành Ngọc lan (Magnoliophyta): 195 loài (≈ 93,30 % so với tổng số loài cây thuốc đã biết), thuộc 171 chi, 105 họ; các ngành còn lại chiếm tỷ lệ rất thấp: ngành Dương xỉ (Polypodiophyta): 6 loài (≈ 2,87 % so với tổng số loài cây thuốc đã biết), thuộc 6 chi, 5 họ; ngành Thông (Pinophyta) 4 loài (1,91%), thuộc 3 chi và 2 họ; ngành Thông đất (Lycopodiophyta): 2 loài (0,96%), thuộc 2 chi, 1 họ. Các ngành Mộc tặc (Equisetophyta) ghi nhận được 2 loài (0,96%) thuộc 1 chi và 1 họ. Trong số 195 loài cây thuốc trong ngành Ngọc lan (Magnoliophyta) cho thấy, lớp Ngọc lan / lớp Hai lá mầm (Magnoliopsida /Dicotyledon) chiếm ưu thế với 147 loài (≈ 75,39 % so với tổng số loài cây thuốc đã biết), thuộc 137 chi, 90 họ; lớp Hành/lớp Một lá mầm (Liliopsida/Monocotyledon) có 48 loài (24,61% so với tổng số loài cây thuốc đã biết), thuộc 34 chi và 15 họ. Cây thuốc là thực vật Hai lá mầm ở huyện Xín Mần có số lượng loài nhiều hơn ở lớp Một lá mầm, cũng như đối với tất cả các Ngành có các loài làm thuốc kể trên. 26 Loài Odontosoria chinensis (L.) J. Sm. thuộc ngành Dương xỉ Polypodiophyta Loài Lycopodiella cernua (L.) Pic. Serm thuộc ngành Thông đất – Lycopodiophyta Loài Equisetum diffusum D. Don thuộc ngành Cỏ tháp bút - Equisetophyta Loài Fallopia multiflora Haraldson thuộc lớp Hai lá mầm - Magnoliopsida Loài Calocedrus macrolepis Kurz thuộc ngành Thông - Pinophyta Loài Curcuma longa L. thuộc lớp Một lá mầm Liliopsida Hình 3. 1. Một số loài cây thuốc đại diện các ngành thực vật 27 - Ở bậc Họ (Family): Trong số 209 loài thực vật làm thuốc đã ghi nhận được thuộc 183 chi và 114 họ, đã thống kê được 12 họ giàu loài có từ 4 đến 10 loài (Bảng 3.2): Bảng 3.2. Các họ thực vật có nhiều cây thuốc STT Họ thực vật Số loài 1 Orchidaceae 10 2 Zingiberaceae 9 3 Asteraceae 8 4 Araceae 7 5 Rubiaceae 6 6 Euphorbiaceae 5 7 Araliaceae 5 8 Myrsinaceae 5 9 Lauraceae 4 10 Piperaceae 4 11 Verbenaceae 4 12 Aristolochiaceae 4 Tổng số 72 Trong số 12 họ giàu loài chiếm 34,45% tổng số loài ghi nhận được, Họ Lan (Orchidaceae) có số loài nhiều nhất (10 loài). Các cây thuốc thuộc họ Lan có giá trị kinh tế cao và đa phần nằm trong danh sách cây cần được bảo tồn như: Lan kim tuyến tím (Anoectochilus roxburghii (Wall.) Lindl.), Lan kim tuyến xanh (Anoectochilus setaceus Blume)…. Họ Gừng (Zingiberaceae) đứng thứ hai (9 loài) với đa phần là các loài cây thảo và cây bụi làm thuốc phổ biến như: các loài Thảo đậu khấu nam (Alpinia spp.), Sa nhân (Amomum spp.), Nghệ (Curcuma spp.). 28 Một số họ giàu loài có các cây thuốc vừa có giá trị khai thác, sử dụng lại vừa có giá trị về mặt bảo tồn như họ Nhân sâm với 5 loài thì có 2 loài quý hiếm là Sâm vũ diệp (Panax bipinnatifidum Seem.) và Tam thất hoang (Panax stipuleanatus Tsai & Feng). Họ Ráy với 7 loài trong đó có 1 loài có khả năng khai thác là: Thiên niên kiện (Homalomena occulta (Lour.) Schott) Số còn lại 102 họ, mỗi họ mới chỉ ghi nhận được từ 1 đến 3 loài cây thuốc. Trong số này, một số họ mặc dù chỉ có vài loài, nhưng lại là những cây thuốc được sử dụng phổ biến trong Y học cổ truyền. Ví dụ: họ Cẩu tích (Dicksoniaceae): 1 loài là Cẩu tích (Dicksonia barometz); họ Bách bộ (Stemonaceae): 1 loài là cây Bách bộ (Stemona tuberosa); họ Mã đề (Plantaginaceae): 2 loài Mã đề (Plantago major) và Mã đề á (Plantago asiatica); họ Bầu bí (Cucurbitaceae): có loài Dền toòng / Giảo cổ lam (Gynostemma pentaphyllum) … Đây là những cây thuốc có giá trị sử dụng và kinh tế cao ở tỉnh Hà Giang. - Ở bậc Chi (Genus): Bảng 3.3. Các chi thực vật có nhiều loài cây thuốc STT Chi thực vật Số loài 1 Alpinia 4 2 Asarum 3 3 Anoectochilus 3 4 Dendrobium 3 5 Piper 3 Tổng số 16 Các chi đã biết có nhiều cây thuốc bao gồm: Chi Alpinia 4 loài; chi Asarum, Anoectochilus, Dendrobium và Piper 3 loài. Ngoài ra còn rất nhiều chi 2 loài: Amomum, Clerodenrum, Zanthoxylum, Uncaria….. Một vài họ chỉ có 1 chi ở Việt Nam, nhưng các loài đã biết ở Hà Giang đều có ý nghĩa về mặt đa dạng sinh học và giá trị sử dụng, như: họ Taccaceae chỉ có 1 chi Tacca với 2 loài Hồi đầu thảo (T. 29 plantaginea) và Phá lủa (Tacca subflabellata); họ Costaceae chỉ có 1 chi Costus với một loài Mía dò hoa gốc (C.tonkinensis). Một số chi chỉ có 2-3 loài nhưng đều là những cây thuốc có khả năng khai thác hoặc thuộc diện bảo tồn: Chi Gynostemma (Cucurbitaceae) có loài Giảo cổ lam (Gynostemma pentaphyllum) thuộc diện bảo tồn; Chi Hedera chỉ có một loài Dây thường (Hedera sinensis) nhưng có tiềm năng khai thác để làm thuốc trị ho. Chi Panax với 2 loài cây thuốc quý: Tam thất hoang (Panax stipuleanatus) và Sâm vũ diệp (Panax bipinnatifidum) đều là những cây thuốc cần bảo vệ. Hình 3. 2. Sâm vũ diệp Panax bipinnatifidum Seem. Hình 3. 3. Kim tuyến Anoectochilus roxburghii (Wall.) Lindl. *Sự phân bố về độ cao Hà Giang là điểm cực bắc của Việt Nam. Với vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên đặc biệt đã tạo nên ở đây một khu hệ thực vật mà trong đó không chỉ có những loài cây thuốc nhiệt đới mà còn có nhiều loài của vùng ôn đới ấm và á nhiệt đới núi cao. Nhiều loài có phân bố ở Hà Giang cũng được tìm thấy ở nhiều vùng khác ở Việt Nam nhưng ở độ cao lớn hơn như Bách xanh (Calocedrus macrolepis), Hồi núi (Illicium henryi), Lan kim tuyến (Anoectochilus roxburghii)... Theo cách phân chia các huyện của tỉnh Hà Giang, thì huyện Xín Mần là huyện vùng cao núi đất (là chủ yếu) của tỉnh Hà Giang. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra nghiên cứu chúng tôi thấy ở phần lớn các khối núi, từ độ cao 1000m trở lên nhất là ở các đỉnh núi thường đỉnh là núi đất pha cát xen đá với tầng đất khá mỏng ở 30 dưới thường là tầng đá trắng. Vì thế sự phân chia các loại thảm thực vật rừng chủ yếu ở đây cũng có những nét đặc trưng nhất định theo đai cao này. Về sự phân bố của cây thuốc ở đây, tạm thời cũng chỉ nêu lên một số đại diện điển hình ở khoảng đai cao này cụ thể như sau. - Ở độ cao từ 1.000m trở lên đến 2400m: Với nhiều kiểu rừng khác nhau: Rừng kín hỗn giao cây lá rộng và lá kim, Rừng kín thường xanh cây lá rộng, Rừng thứ sinh hỗn giao tre nứa, trảng cây bụi và trảng cỏ, rừng trồng…bắt gặp nhiều loài cây thuốc của một số họ đặc trưng như: Họ Ngũ gia bì (Araliaceae): Thông thảo (Tetrapanax papyriferus), Đu đủ rừng (Trevesia palmata), Dây thường xuân (Hedera sinensis), Sâm vũ diệp (Panax bipinnatifidum), Tam thất hoang (Panax stipuleanatus)…; Họ Hoàng liên gai (Berberidaceae): Hoàng liên ô rô (Mabonia nepalensis); Họ Bách hợp (Liliaceae): Bách hợp (Lilium brownii)...; Họ Đỗ quyên (Ericaceae): Đèn lồng (Lyonia ovalifolia var. rubrovenia); Họ Lan (Orchidaceae): Lan kim tuyến (Anoectochilus roxburghii), Kim tuyến đá vôi (Anoectochilus calcareus); Họ hồi (Illiciaceae): Hồi núi (Illicium henryi); Họ trách bách diệp (Cupressaceae): Bách xanh (Calocedrus macrolepis), … Đặc biệt trong quần hệ rừng trên núi cao Nấm Chanh, Nấm Dân, Thu Tà có 2 loài Sâm vũ diệp (Panax bipinnatifidum) và Tam thất hoang (Panax stipuleanatus)có phân bố rất hẹp, giá trị kinh tế cao và nằm trong diện cây thuốc có nguy cơ tuyệt chủng mới phát hiện tại địa phương. Thậm chí có thể coi là những loài cây thuốc quí hiếm, cần bảo vệ và phát triển thêm ở Việt Nam. Đây là điểm phân bố mới ghi nhận của 2 loài này ở Việt Nam. Các loài cây thuốc được đề cập trên đây, ở vành đai độ cao từ 1000m trở lên, nhìn chung đều là những cây thuốc diện quý hiếm, nằm trong Danh sách các loài bảo tồn ở nước ta hiện nay. - Ở độ cao từ 700m đến 1000m: Ở vành đai thấp hơn tập trung nhiều cây thuốc á nhiệt đới và nhiệt đới với các kiểu rừng: Rừng thứ sinh cây lá rộng, rừng kín thường xanh cây lá rộng, Trảng cây bụi thứ sinh, Rừng thứ sinh cây lá rộng hỗn giao tre nứa, rừng trồng và nương rẫy, trảng cỏ thứ sinh . Trong số này, những loài có thể tiếp tục khai thác như: Chè dây (Ampelopsis cantoniensis); Hạ khô thảo (Prunella vulgaris); Bách bộ (Stemona tuberosa), Ngũ gia bì chân chim (Schefflera 31 spp.); Nga truật (Curcuma spp.); Ngải cứu dại (Artemisia indica), Thảo đậu khấu nam(Alpinia spp.), Giảo cổ lam (Gynostemma spp.). - Ở độ cao dưới 700m : có nhiều loại rừng như: Rừng thứ sinh cây lá rộng, rừng kín thường xanh cây lá rộng, Trảng cây bụi thứ sinh, Rừng thứ sinh cây lá rộng hỗn giao tre nứa, rừng trồng và nương rẫy, trảng cỏ thứ sinh …bắt gặp nhiều loài cây thuốc phổ biến có khả năng khai thác như Hy thiêm (Sigesbeckia orientalis), Thảo quyết minh (Senna tora), Cỏ cứt lợn (Ageratum conyzoides), Câu đằng (Uncaria spp.), Nhân trần (Adenosma caeruleum)… Với tổng số 209 loài thực vật làm thuốc mọc tự nhiên đã ghi nhận được, chắc chắn chưa hoàn toàn đầy đủ nhưng đây là những ghi nhận đầu tiên về nguồn tài nguyên cây thuốc tại huyện Xín Mần. * Đa dạng về dạng cây thuốc Về dạng cây: Trong tổng số 209 loài cây thuốc thu thập và ghi nhận tại huyện Xín Mần, tỉnh Giang thuộc 4 dạng cây: Thân cỏ / thảo (T), Cây bụi và cây bụi trườn (B), Thân leo (thảo và gỗ) (L), Thân gỗ (G). Số lượng thuộc mỗi dạng thể hiện ở Bảng 3.4 và Biểu đồ dưới đây: Bảng 3.4. Sự đa dạng về dạng cây thuốc STT Dạng cây Số loài Tỷ lệ (%) 1 Thân cỏ / thảo (T): 96 45,93 % 2 Cây bụi và cây bụi trườn (B): 48 22,97 % 3 Thân gỗ (G): 36 17,23 % 4 Thân leo (thảo và gỗ) (L): 29 13,87 % 32 ĐA DẠNG DẠNG CÂY THUỐC Ở HUYỆN XÍN MẦN 17% 46% T B L G 13% 24% Hình 3. 4. Biểu đồ sự đa dạng về số dạng cây thuốc ở huyện Xín Mần Như vậy, các cây thuốc ghi nhận được ở huyện Xín Mần chủ yếu là cây thân cỏ (45,93 %); tiếp theo là nhóm cây bụi (22,97 %) và nhóm cây thân gỗ (17,23%). Cây thuốc là dây leo chiếm tỷ lệ thấp nhất (13,87%). Qua bảng trên ta thấy, nguồn cây thuốc huyện Xín Mần phong phú về các dạng cây tự nhiên. 33 1 2 3 4 5 6 Hình 3. 5. Một số dạng cây ghi nhận đƣợc ở huyện Xín Mần (1-Cây gỗ; 2,6- Cây bụi; 3,4-Cây thảo; 5-Cây leo) * Đa dạng về bộ phận sử dụng Như chúng ta đã biết, các giữa các bộ phận sử dụng khác nhau của cây thường có sự khác nhau về thành phần hóa học. Bởi vậy, mỗi bộ phận lại được sử dụng vào các mục đích chữa bệnh khác nhau. Giữa các cây thuốc lại có sự khác nhau về số bộ phận được sử dụng làm thuốc. Có loài cây chỉ có một bộ phận được sử dụng (lá, thân, rễ, …) nhưng có loài lại có 2 hay nhiều hơn, thậm chí cả cây. Từ những thông tin đã thu nhận được về bộ phận sử dụng của 209 loài và thứ cây thuốc (được thể hiện ở bảng dưới đây), có thể nhận thấy sự đa dạng các bộ 34 phận của cây được người dân sử dụng làm thuốc từ thân, lá, hoa, quả, rễ cho đến củ, hạt. Trên một loài lại có nhiều bộ phận được sử dụng, ví dụ như Tế tân (Rễ, Hoa, Lá), Màng tang (Lá, Rễ, Quả) có 3 bộ phận được sử dụng làm thuốc. Chúng tôi đã thống kê như sau: Có 60 loài sử dụng cả cây chiếm 28,71% tổng số loài. Có 13 loài sử dụng 3 bộ phận chiếm 6,22% tổng số loài. Có 38 loài sử dụng 2 bộ phận chiếm 18,18% tổng số loài. Có 98 loài sử dụng 1 bộ phận chiếm 46,89 % tổng số loài. Như trên cho thấy, mặc dù số loài cây sử dụng 1 bộ phận là lớn nhất chiếm 46,89%. Tuy nhiên, số loài được sử dụng từ 2 bộ phận trở lên cũng chiếm tỷ lệ không nhỏ (số loài được sử dụng 2 bộ phận chiếm 18,18 %, số loài được sử dụng 3 bộ phận chiếm 6,22%). Điều này thể hiện kinh nghiệm phong phú của công đồng các dân tộc tại huyện Xín Mần trong việc sử dụng các bộ phận của cây làm thuốc. Ngoài ra, số loài sử dụng cả cây chiếm tỷ lệ khá lớn, tới 28,71 % tổng số loài. Bảng 3.5. Sự đa dạng các bộ phận sử dụng làm thuốc STT Bộ phận sử dụng Tổng số Tỷ lệ (%) 1 Cả cây (toàn cây) 60 28,71 2 Nhóm 2 bộ phận dùng (Vỏ thân, vỏ rễ ; Cành, lá,…) 38 18,18 3 Lá 21 10,05 4 Nhóm 3 bộ phận dùng (Rễ, Lá, Hoa; Rễ, Lá, Quả… 13 6,22 5 Thân 12 5,74 6 Quả 5 2,39 7 Vỏ thân 3 1,44 8 Hạt 2 0,96 9 Hoa 2 0,96 35 ĐA DẠNG CÁC BỘ PHẬN LÀM THUỐC 1% 2% 1% 3% 8% 39% 8% 14% 24% 1 2 3 4 5 6 7 8 9 Hình 3. 6. Biểu đồ đa dạng các bộ phận làm thuốc Qua bảng trên cho thấy, cây được sử dụng toàn cây làm thuốc (chiếm 28,71% tổng số loài) chúng đa phần là nhóm cây thảo, dây leo hoặc cây bụi nhỏ như: Nhân trần (Adenosma caeruleum), Cỏ roi ngựa (Verbena officinalis), Viễn chí hoa vàng (Polygala arillata), ... phân bố rải rác ven rừng, hoặc dưới tán cây. Đây là đa phần là những cây nhỏ dễ thu hái, có vòng đời ngắn, một số cây trong đây có giá trị kinh tế cao và có ý nghĩa trong thảm thực vật hoặc là những cây thuốc thuộc diện quý hiếm như: Lan kim tuyến (Anoectochilus roxburghii), Thạch hộc (Dendrobium nobile), Hạ khô thảo (Prunella vulgaris) …..Tiếp đó là cây 2 bộ phận làm thuốc (18,18%). Trong nhóm loài có một bộ phận được sử dụng làm thuốc, nhóm loài dùng lá để chữa bệnh có tỷ lệ cao nhất (10,05%), tiếp theo là nhóm loài có 3 bộ phận được sử dụng làm thuốc (6,22%). 36 * Đa dạng về nhóm công dụng làm thuốc Căn cứ theo cách phân chia các nhóm bệnh thường sắp theo tại thông tư số: 40/2013/TT-BYT về việc ban hành danh mục thuốc thiết yếu thuốc đông y và thuốc từ dược liệu lần VI của Bộ Y tế. Tổng số 209 loài cây thuốc đã thu thập được phân chia theo 16 nhóm bệnh thường gặp như sau: Bảng 3. 6. Sự đa dạng các nhóm công dụng làm thuốc STT Nhóm bệnh Số loài Tỷ lệ (%) 1 Bệnh cảm sốt, cảm cúm, nhức đầu 40 15,33 2 Bệnh về đường tiêu hóa (tiêu chảy, lỵ, trực tràng, đau đạ dày,…) 36 13,79 3 Bệnh về đường hô hấp (viêm phổi, phế quản, hen, ung thư phổi,...) 36 13,79 4 Bệnh về xương khớp (thấp khớp, viêm khớp, đau lưng, gai cột sống, bó gẫy xương,…) 30 11,49 5 Bệnh ngoài da (nhiễm trùng, vết thương, ghẻ lở, mọn nhọt, dị ứng, eczema...) 20 7,66 6 Bệnh về thận và đường tiết niệu (sỏi thận, viêm thận, phù do thận, yếu thận, viêm đường tiết niệu,…) 16 6,13 7 Bệnh về phụ nữ (hậu sản, kinh nguyệt, viêm nhiễm…) 16 6,13 8 Bệnh về tim mạch, máu, huyết áp (huyết áp cao, suy tim, nhiễm trùng máu …) 16 6,13 9 Bồi dưỡng sức khỏe, suy nhược cơ thể 16 6,13 10 Bệnh về thần kinh, não (an thần, mất ngủ, động kinh, xuất huyết não…) 10 3,83 11 Bệnh của trẻ con (cam, đan, ý, khóc đêm…) 9 3,45 12 Bệnh về gan (viêm gan (A, B,…), xơ gan, ung thư gan) 6 2,30 37 13 Bệnh về sinh dục nam (viêm nhiễm…) 4 1,53 14 Bệnh về mắt 2 0,77 15 Bệnh về răng miệng 2 0,77 16 Động vật cắn (Rắn cắn) 2 0,77 Bảng trên cho thấy, sự đa dạng về các nhóm công dụng chữa bệnh của cây thuốc tại huyện Xín Mần. Trong đó, số cây chữa nhóm bệnh cảm sốt, cảm cúm, nhức đầu là cao nhất (15,33%) tiếp đến là các nhóm bệnh đường tiêu hóa và hô hấp 13,79% %; nhóm bệnh về xương khớp chiếm 11,49%. Đây là những nhóm bệnh thông thường dễ mắc phải tại địa phương nên số loài cây chữa các nhóm bệnh này chiếm tỷ lệ cao so với các nhóm bệnh khác như tim mạch hay sinh dục nam... Đồng thời, đối chiếu phụ lục 1 cho thấy, đa số các loài cây thuốc đều thuộc nhóm đa công dụng, nghĩa là mỗi cây có thể sử dụng để chữa từ 2 nhóm bệnh trở lên, đặc biệt có những cây chữa được khá nhiều nhóm bệnh như: Ngải cứu dại, Cốt khí củ, Cúc chỉ thiên, Sói rừng, Me rừng, Ba chạc, Cỏ roi ngựa, Nghệ... SỰ ĐA DẠNG NHÓM CÔNG DỤNG 1% 2% 1% 3% 4% 12% 4% 11% 5% 6% 10% 7% 7% 10% 8% 9% 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 Hình 3. 7. Biểu đồ sự đa dạng về nhóm công dụng (Nhóm bệnh) 38 16 1 2 3 4 5 6 Hình 3. 8. Một số cây thuốc thu thập tại Xín Mần (1. Viễn chí (Polygala wattersii Hance), 2. Ngấy hương (Rubus pentagonus Wall. ex Focke), 3. Đài hái (Hodgsonia macrocarpa (Blume) Cogn.), 4. Dâu đất (Duchesnea indica (Andrews) Focke); 5. Hoàng liên gai (Berberis sp.); 6. Phá lủa (Tacca subflabellata P.P. Ling & C.T. Ting )) 39 3.2. KẾT QUẢ XÁC ĐỊNH DANH LỤC CÁC LOÀI CÂY THUỐC CÓ TIỀM NĂNG KHAI THÁC, CÂY THUỐC CẦN BẢO TỒN Ở HUYỆN XÍN MẦN, TỈNH HÀ GIANG VÀ XÂY DỰNG BẢN ĐỒ PHÂN BỐ ĐIỂM 3.2.1. Danh sách loài cần bảo vệ ở Việt Nam đã phát hiện tại huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang Qua điều tra thực địa và thu thập thông tin từ các hộ dân khai thác, thu mua và buôn bán và sử dụng dược liệu, đại diện Chi cục Kiểm lâm, Chi cục PT Lâm nghiệp đã ghi nhận 21 loài cây thuốc cần bảo vệ ở huyện Xín Mần: Đài mác, Sâm vũ diệp, Tam thất hoang, Chùa dù, Đảng sâm, Giải thùy tím, Hoàng tinh cách, Hoa tiên, Lan kim tuyến, Hà thủ ô đỏ, Tế tân vũ linh,... chủ yếu phân bố rải rác tại các khu rừng thuộc xã Nấm Dẩn (Đèo gió, Nấm Chanh), xã Thu Tà (Đỉnh Chiêu Lầu Thi), Quảng Nguyên, Chí Cà,... Một số loài thuộc nhóm rất nguy cấp và có phân bố hẹp cũng phát hiện tại địa phương như: Sâm vũ diệp, Tam thất hoang, Đài mác. Mỗi loài gồm các thông tin: tên gọi (phổ thông, tên khác, latinh, họ thực vật); các mức độ được ghi nhận trong (Sách đỏ Việt Nam, Danh lục đỏ cây thuốc Việt Nam, Nghị định 32/2006/NĐ-CP.....). 40 Bảng 3.7. Danh sách các loài cây thuốc cần bảo ở ở Việt Nam đã phát hiện tại huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang STT Tên Việt Nam Tên khác Tên khoa học Họ Thực vật Chroesthes lanceolata Acanthaceae (T. Anders.) B. Hansen NĐ 32/2 006 NĐ 160/2 013 CR Nấm Dẩn, A1a,c,d, CR.A1c,d Thu Tà B1+2b,c, e II A x II A x Phân bố (xã) Danh lục Đỏ CTVN CR B1+2 e 1 Đài mác Sắc đài hoa, đài móc 2 Vũ diệp tam thất, Trúc tiết nhân sâm, Tam thất Sâm vũ Panax lá xẻ, Tam thất hoang, diệp Seem. Sâm hai lần chẻ, Hoàng liên thất 3 Tam thất rừng, Sâm tam Tam thất Panax stipuleanatus thất, Bình biên tam thất, Araliaceae hoang Tsai & Feng Phan xiết CR A1 Nấm Dẩn, c,d, B1 Thu Tà +2b,c,e 4 Thông thảo Nấm Dẩn, EN.B2a,b EN A1c,d Xín Mần, (ii,iii,v) bipinnatifidus Araliaceae Thông thoát, thông thoát Tetrapanax papyriferus Araliaceae mộc (Hook.) C. Koch 41 Nấm Dẩn Sách đỏ 2007 CR.A1c,d 5 Hoa tiên Tế hoa petelot Asarum O.C.Schmidt 6 Tế tân vũ linh Asarum Liang 7 Hoàng liên gai 8 Hoàng liên ô rô, Hoàng Hoàng Mahonia bá gai, Thích hoàng bá, liên ô rô DC. Thập đại công lao Tế tân núi petelotii wulingense Berberis sp. Aristolochiaceae Nấm Dẩn, Quảng Nguyên EN.A2c,d.B 2(ii,iii,iv,v) Aristolochiaceae Nấm Dẩn VU.B2a,b(ii, II A iii) Berberidaceae Thu Tà, Xín Mần Berberidaceae Chí Cà, Xín Mần II A x EN.A2c,d nepalensis 9 Đảng sâm Sâm leo, Đùi gà, Rầy cáy, Mần cáy, Lầy cáy, Codonopsis javanica Campanulaceae Ngân đằng Java; Co nhả (Blume) Hook.f. đòi, Cang hô 10 Hoàng tinh cách Hoàng tinh lá mọc so le, Co hán han, Khinh lài, Disporopsis longifolia Convallariaceae Voòng trinh, Néng lài, Craib Viằng trang 42 Nấm Dẩn VU A1a,c,d+ EN.A3c,d 2c,d II A Quảng Nguyên, Thu Tà VU A1c,d II A VU A1c,d
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan