ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
==========
NGUYỄN THỊ BÍCH ĐÀO
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM BỆNH LÝ, LÂM SÀNG BỆNH
SÁN DÂY VÀ KÝ CHỦ TRUNG GIAN CỦA SÁN DÂY Ở
GÀ THẢ VƯỜN TẠI THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
Thái Nguyên - 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, ngành chăn nuôi gia cầm ở nước ta đã phát
triển khá mạnh, tốc độ phát triển bình quân là 5%/ năm. Chăn nuôi gà chất
lượng cao đang là vấn đề được nhiều người quan tâm. Chăn nuôi gà đã có
những chuyển biến tích cực, đạt được những thành tựu khả quan: tổng đàn
tăng lên về số lượng và chất lượng cũng được cải thiện. Mặc dù công tác thú y
đã được quan tâm nhưng dịch bệnh vẫn xảy ra lẻ tẻ gây thiệt hại kinh tế cho
người chăn nuôi. Một trong những bệnh luôn tồn tại cùng đàn gà từ lâu nay là
bệnh ký sinh trùng. Mặc dù bệnh ký sinh trùng không bùng phát thành dịch,
nhưng lại xảy ra quanh năm và gây tác hại thường xuyên và lâu dài, ảnh
hưởng tới sức khỏe của vật nuôi, làm giảm hiệu quả chăn nuôi. Ký sinh trùng
lấy chất dinh dưỡng, tiết độc tố, gây ra những tổn thương bệnh lý, làm cho gà
gầy yếu, giảm sức sản xuất, mở đường cho mầm bệnh khác xâm nhập.
Bệnh sán dây là một trong những bệnh ký sinh trùng đã gây tác hại
đáng kể cho chăn nuôi gà thả vườn. Bệnh được phân bố rộng ở hầu hết các
vùng trên thế giới. Ở nước ta, bệnh sán dây xảy ra phổ biến ở các vùng địa lý
khác nhau, trong đó vùng núi và trung du tỷ lệ nhiễm thường cao hơn vùng
đồng bằng. Sán dây gà cần ký chủ trung gian là các loài kiến, ruồi, bọ cánh
cứng (Nguyễn Thị Kim Lan và cộng sự, 1999 [7]). Đặc biệt, thời tiết nóng ẩm
mưa nhiều là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các loài Ký chủ trung
gian của sán dây gà.
Thái Nguyên là một tỉnh thuộc khu vực miền núi phía Bắc, chăn nuôi
gà thả vườn vẫn chiếm phần lớn trong chăn nuôi gà. Việc phòng bệnh ký sinh
trùng, đặc biệt là sán dây còn ít được quan tâm. Đồng thời điều kiện thời tiết,
khí hậu ở Thái Nguyên thuận lợi cho kiến (một trong những loại ký chủ trung
gian của sán dây gà) phát triển. Vì vậy, người chăn nuôi gà vẫn chịu nhiều
thiệt hại do bệnh sán dây gây ra.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
2
Tuy nhiên, những nghiên cứu về bệnh sán dây gà hiện nay vẫn còn rất
ít, chưa có kết quả nghiên cứu về đặc điểm về bệnh lý, lâm sàng của bệnh sán
dây gà, về các loài kiến - ký chủ trung gian của sán dây gà, đặc điểm hoạt
động của chúng và thời gian trứng sán phát triển thành ấu trùng trong kiến.
Xuất phát từ nhu cầu khống chế dịch bệnh, thúc đẩy chăn nuôi gà thả
vườn ở tỉnh Thái Nguyên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu
đặc điểm bệnh lý, lâm sàng bệnh sán dây và ký chủ trung gian của sán dây
ở gà thả vườn tại Thái Nguyên".
2. Mục đích nghiên cứu
- Xác định các loài kiến - ký chủ trung gian của sán dây gà, đặc điểm
hoạt động theo mùa và khả năng nhiễm ấu trùng sán dây của chúng ở khu vực
chuồng nuôi gà tại các nông hộ thuộc tỉnh Thái Nguyên.
- Nghiên cứu đặc điểm bệnh, lý lâm sàng của gà bị bệnh sán dây.
Từ đó có cơ sở khoa học để đề xuất biện pháp chẩn, phòng trị bệnh sán
dây cho gà có hiệu quả cao.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả của đề tài là những thông tin khoa học về một số đặc điểm
của bệnh sán dây gà: xác định các loài kiến - ký chủ trung gian của sán
dây, đặc điểm bệnh lý lâm, sàng của bệnh sán dây, có một số đóng góp mới
cho khoa học.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả của đề tài là cơ sở khoa học khuyến cáo người chăn nuôi gà áp
dụng quy trình phòng trị bệnh sán dây, nhằm hạn chế tỷ lệ và cường độ nhiễm
sán dây cho gà, hạn chế thiệt hại do sán dây gây ra, góp phần nâng cao năng
suất chăn nuôi, thúc đẩy ngành chăn nuôi gia cầm phát triển và đứng vững
trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
3
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học
1.1.1. Sán dây ký sinh ở gà
1.1.1.1. Vị trí của sán dây ký sinh ở gà trong hệ thống phân loại động vật
Sán dây ký sinh chủ yếu ở ruột non của gà, gồm nhiều giống, loài.
Năm 1940, Skrjabin đã giới thiệu hệ thống phân loại bộ Cyclophyllidea,
tác giả đã chia bộ này thành một số phân bộ (Anoplocephalata, Davaineata,
Hymenolepidata, Taeniata…).
Sán dây ký sinh ở động vật Việt Nam được phân loại theo hệ thống
phân loại của Schulz và Gvozdev, 1970 (Đặng Ngọc Thanh và cs (2008)[17]).
Theo Phan Thế Việt và cs (1977)[28], Nguyễn Thị Kỳ (1994)[6],
Nguyễn Thị Lê và cs (1996)[11], sán dây gà có vị trí như sau:
Ngành giun dẹp (Plathelminthes)
Lớp Cestoda (Rudolphi, 1808)
Phân lớp Eucestoda Southwell, 1930
Bộ Cyclophyllidea Beneden in Braun, 1900
Phân bộ Davaineata Skrjabin, 1940
Họ Davaineidae Braun, 1900
Giống Cotugnia Diamare, 1893
Loài Cotugnia digonopora Pasquale, 1890
Giống Davainea Blanchard, 1891
Loài Davainea proglottina (Davaine, 1860)
Giống Raillietina Fuhrmann, 1920
Phân giống Raillietina Stiles et Orleman, 1926
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
4
Loài R. echinobothrida Megnin, 1881
Loài R. penetrans Baczyncka, 1914
Loài R. penetrans novo Johri, 1934
Loài R. peradenica Sawada, 1957
Loài R. tetragona Dolin, 1858
Loài R. volzi Fuhrmann, 1905
Phân giống Raillietina (Paroniella) Fuhrmann, 1920
Loài R. (P.) macassariensis Yamaguti, 1956
Loài R. (P.) tinguiana Tubangui etMasilungan, 1937
Phân giống Raillietina (Skrjabinia) Fuhrmann, 1920
Loài R. (S.) cesticillus (Molin, 1858)Fuhrmann, 1920
1.1.1.2. Thành phần loài sán dây ký sinh ở gà Việt Nam và đặc điểm sinh học
của các loài sán dây gây bệnh
Thành phần sán loài dây ở gà
Nguyễn Thị Kỳ (1994)[6] cho biết, giun sán ký sinh ở động vật Việt Nam
rất phong phú, riêng sán dây (Cestoda Rudolphi, 1808) là một trong 4 lớp giun
sán ký sinh đã phát hiện được 148 loài. Năm 1870, Cande.J lần đầu tiên mô tả
loài sán dây Diphyllobothrium latum tìm thấy trên đối tượng là người ở Nam Bộ.
Sau đó 10 năm xuất hiện lẻ tẻ ở các địa phương, đồng thời xuất hiện một số công
trình nghiên cứu về một vài loài sán dây gây bệnh cho người. Từ đó, việc nghiên
cứu về thành phần sán dây ở người được chú ý hơn, rồi mở rộng phạm vi nghiên
cứu sang một số động vật nuôi và động vật hoang dã khác.
Các tác giả Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999)[7], Phạm Sỹ Lăng và
Phan Địch Lân, 2002 [10] cho biết, sán dây thường gặp ở gà gồm những loài
chính là: Raillietina tetragona, R. echinobothrida, R. cesticillus, Cotugnia
digonobora, Davainea proglottina. Trong đó, có 3 loài nhiễm phổ biến ở gà
là: R. echinobothrida; R.tetragona và R.cesticillus.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
5
Theo Phan Thế Việt và cs, 1977 [28], thành phần sán dây ký sinh ở gà gồm:
Giống
Loài
Davainea Branchard, 1891
Davainea proglostina (Davaine, 1860)
Cotugnia Diamare, 1893
Cotugnia digonopora (Pasquale, 1890)
Raillietina tetragona (Molin, 1858)
Raillietina Fuhrmann, 1920
R. echinobothrida (Megnin, 1800)
R. penetrans (Barzynska, 1914)
R. cesticillus (Molin, 1858)
Dilepidoides Spassky et
Spaskaja, 1954
Echinolepis Spassky et
Spaskaja, 1954
Microsomacanthus LopezNeyra, 1942
Staphylepis Spassky et
Oschmarin, 1954
Orientolepis Spassky et
Jurpalova, 1964
Amoebotania Cohn, 1900
Dilepidoides bauchei (Joyeux, 1924)
Echinolepis carioca (Magalhaes, 1898)
Microsomacanthus (Joyeux et Baer, 1935)
Staphylepis cantaniana (Polonio, 1960)
Orieniolepis exigua (Yoshida, 1910)
Amoebotania cuneata (Linstow, 1872)
Đặc điểm sinh học của các loài sán dây gây bệnh
• Đặc điểm sinh học chung của các loài sán dây gây bệnh
Theo Phan Thế Việt và cs (1977)[28], Nguyễn Thị Kỳ (1994) [6],
Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [11], Đặng Ngọc Thanh và cs (2008) [17], sán
dây có cơ thể dạng băng, dẹp theo hướng lưng - bụng. Cơ thể gồm có đầu
(Scolex), cổ (Neck), chuỗi đốt (Strobila) bao gồm nhiều đốt riêng biệt. Chỉ
một số ít loại đại diện của lớp là có cơ thể không phân đốt. Giai đoạn trưởng
thành chủ yếu sống ký sinh trong ruột của tất cả các lớp động vật có xương
sống, trong ruột hoàn toàn không có dạng ấu trùng của sán dây.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
6
Đầu dùng để bám vào thành ruột vật chủ, nên có những hình dạng, kích
thước và các cơ quan bám đặc trưng. Chiều rộng của đầu thường chỉ nhỏ hơn
1 mm, nhưng cũng có một số loài sán có đầu dài vài mm.
Cơ quan bám nằm ở trên đầu bao gồm rãnh bám, mồm ngoạm, giác
bám và vòi có móc bám. Đôi khi móc bám có ở giác bám, mồm ngoạm và
trên đầu.
Rãnh bám (Bothria) là cơ quan bám có cấu tạo đơn giản gồm hai khe
bám ở phía lưng và phía bụng của đầu, ít khi có một hoặc bốn khe bám.
Mồm ngoạm có hình dạng đa dạng hơn. Đây là những cơ quan bám
riêng biệt có sự phát triển cơ riêng biệt, phân bố theo kiểu chéo chữ thập ở
phía bụng và phía lưng bề mặt đầu.
Giác bám (Acetabula) có cấu tạo như nửa hình cầu, có thành cơ cấu tạo
phức tạp, giác thường ở bề mặt của đầu và thường có bốn giác. Giác bám có gai
nhỏ và móc phân bố thành một số hàng trên thành cơ như ở các giống Railietina.
Giác bám đặc trưng cho các đại diện của bộ Cyclophylidea. Trên thành của giác
bám đôi khi còn có những núm cơ đặc biệt (Schistometra conoidea).
Vòi (Rostellum) thường ở đỉnh của đầu, có cấu tạo cơ, có thể nhô cao
trong bao vòi với sự hoạt động của những cơ đặc biệt. Vòi thường có móc, móc
có hình dạng, số lượng và kích thước khác nhau tuỳ loài, thường được xếp thành
một hoặc hai hàng. Ở một số đại diện có móc xếp thành nhiều hàng (Raillietina).
Cổ (Neck) là phần hẹp lại ngay dưới đầu, có vai trò quan trọng trong
việc hình thành các đốt mới. Kích thước của cổ khác nhau ở các loài khác
nhau. Ở một số loài cổ rất thay đổi do sự co lại của cơ. Các đốt non được hình
thành ở khoảng giữa cổ và những đốt ở phía dưới nó, những đốt già bị đẩy lùi
dần về phía dưới. Vì vậy, những đốt non nhất nằm ở gần đầu, còn những đốt
già nhất nằm ở tận cùng của chuỗi đốt.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
7
Chuỗi đốt (Strobila) bao gồm các đốt sán, có từ một vài đốt đến hàng
nghìn đốt. Chiều dài của chuỗi đốt thay đổi từ vài milimet đến vài trăm
milimet. Các đốt thường có hình dạng và kích thước khác nhau, phụ thuộc
vào sự sinh trưởng của sán và chúng còn thay đổi ngay ở các cá thể trong một
loài. Những đốt sán thường có dạng bốn góc. Ở một số loài chiều rộng của đốt
thường lớn hơn chiều dài, ở một số loài khác thì ngược lại. Sự tương quan
giữa chiều rộng và chiều dài của đốt thường phụ thuộc vào sự kéo dài về phía
này hay phía khác của đốt.
Chiều dài của sán dây dao động từ 0,5 mm - 25 cm. Cơ thể sán dây phủ
lớp biểu bì, đến lớp hạ bì rồi đến lớp cơ vòng - cơ dọc. Phần bên trong chứa
đầy nhu mô. Nội quan gồm có hệ thần kinh, hệ bài tiết và hệ sinh dục. Không
có hệ tiêu hoá.
Hệ thần kinh ở sán dây kém phát triển, gồm có hạch thần kinh trung
ương nằm ở trên đầu, từ đó các dây chạy dọc cơ thể. Có hai dây phát triển hơn
nằm bên ngoài ống bài tiết và mỗi đốt nối với nhau bởi các cầu nối ngang.
Hệ bài tiết của sán dây theo kiểu nguyên đơn thận. Gồm 4 ống
chính chạy dọc cơ thể: 2 ống mặt lưng và 2 ống mặt bụng và nối với nhau
ở phần đầu. Ngoài ra ở mỗi đốt các ống trái và phải nối với nhau bằng các
cầu nối ngang.
Trong các đốt chứa cơ quan sinh dục phát triển ở các giai đoạn khác
nhau. Hầu hết các loài sán dây là lưỡng tính. Trong mỗi đốt trưởng thành
thường có một hoặc hai hệ sinh dục (mỗi hệ sinh dục gồm một cơ quan sinh
dục đực và một cơ quan sinh dục cái). Sự phát triển của hệ sinh dục theo một
thứ tự nhất định: ở các đốt non cơ quan sinh dục chưa phát triển, sau đó hình
thành cơ quan sinh dục đực rồi đến cơ quan sinh dục cái. Sau khi thụ tinh, hệ
sinh dục đực teo dần, còn lại cơ quan sinh dục cái. Ở các đốt già, trứng chứa
đầy trong tử cung.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
8
Hệ sinh dục đực (Male reproductive system) gồm tinh hoàn (Testis),
các ống dẫn và các tuyến sinh dục. Số lượng tinh hoàn trong mỗi đốt có từ
một đến hàng trăm và là dấu hiệu để phân loại mỗi loài. Từ tinh hoàn có nhiều
ống thoát tinh nhỏ đi ra và hợp lại với nhau thành ống dẫn tinh (Vas
deferens), ống này đổ vào cơ quan giao phối là lông gai (Cirrus). Lông gai
nằm trong nang lông gai (Bursa cirri). Phần cuối ống dẫn tinh có thể phình ra
gọi là túi tinh. Nếu túi tinh ở ngoài nang lông gai gọi là túi tinh ngoài
(Vesicula seminalis externa), còn ở trong lông gai thì gọi là túi tinh trong
(Vesicula seminalis interna). Lông gai dùng để đưa vào lỗ sinh dục cái khi
giao phối. Nang lông gai và lông gai ở mỗi loài có hình dạng, kích thước và
cấu tạo khác nhau. Đôi khi trong xoang sinh dục ngay cạnh lỗ lông gai còn có
một hoặc hai thể Fuhrmann (Sacculus accesorius).
Hệ sinh dục cái (Female reproductive system) có cấu tạo phức tạp hơn,
gồm có buồng trứng (Ovari), noãn hoàng (Vitelline), tử cung (Uterus) và các
tuyến phụ. Hệ sinh dục cái có cấu tạo tương đối phức tạp hơn hệ sinh dục đực.
Trong mỗi hệ sinh dục hay mỗi đốt, buồng trứng thường có hai thuỳ, ít khi
một thuỳ, các thuỳ có cấu tạo hình khối, hình ống hoặc hình cành. Ở
Cyclophyllidea các tế bào trứng trong buồng trứng có giai đoạn phát triển
đồng nhất. Buồng trứng nằm trong nhu mô ở giữa đốt hoặc ở phía dưới đốt
sán bề mặt bụng, ở những đốt có hai hệ sinh dục thì cả hai buồng trứng nằm ở
hai bên bờ của chuỗi đốt. Ống dẫn trứng đi ra từ buồng trứng, ống này đưa
những tế bào trứng già vào cơ quan Ootyp sau khi chúng được bảo vệ trong
cơ quan giữ trứng gọi là Ovicapt. Từ Ootyp, trứng được tạo thành với sự tham
gia của các tuyến Melis, tuyến noãn hoàng và tinh dịch.
Tuyến noãn hoàng có cấu tạo khác nhau. Ở bộ Cyclophyllidea chỉ có
một noãn hoàng và nó nằm ngay dưới buồng trứng. Ở nhiều loài sán dây,
noãn hoàng gồm nhiều thể, các thể bao gồm nhiều các tế bào noãn hoàng,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
9
trong huyết tương của tế bào có nhiều khối màu tối và vàng khúc xạ ánh sáng
tạo thành những quả cầu “noãn hoàng”, những ống noãn hoàng nhỏ từ mỗi
phía của đốt đổ vào hai ống lớn hơn, sau hợp lại thành một ống, tận cùng của
ống phình rộng tạo thành tuyến noãn hoàng đổ vào Ootyp. Thể Melis đổ vào
Ootyp có chức năng tạo vỏ cho trứng.
Âm đạo có dạng một cái ống, phần đầu là lỗ sinh dục cái, phần cuối là
túi chứa tinh nằm gần Ootyp, cạnh buồng trứng. Phần đầu của âm đạo thường
nằm dưới lông gai, ít khi ở trên. Sau khi thụ tinh và chứa đầy tinh dịch trong
túi chứa tinh thì lỗ âm đạo teo lại.
Tử cung (Uterus) có cấu tạo rất khác nhau ở các loài khác nhau. Ở
nhiều sán dây tử cung kín, có nghĩa là thiếu lỗ tử cung đặc trưng (Cyclophyllidea),
tử cung là ống ngang với những nhánh bên. Tử cung của sán dây có thể có
dạng túi, dạng cành, và cả dạng nang riêng biệt, chứa từ một đến vài trứng
(Davaineidea). Trứng của sán dây có cấu tạo đa dạng, có một hoặc hai vỏ, ấu
trùng trong trứng của phân lớp Eucestoda có 6 móc. Ở những sán dây này
trứng được thải ra ngoài tuỳ theo mức độ hình thành của trứng, tử cung chứa
đầy trứng trong đốt già và mỗi đốt thực chất biến thành một cái túi chứa
trứng. Trứng được rơi ra ngoài bằng cách nứt thành cơ thể của đốt. Quá trình
này thường thực hiện ở môi trường ngoài, ở nơi mà các đốt sán dây già được
thải ra cùng với phân vật chủ.
Ấu trùng của Cyclophyllidea (Davaineata) là Cysticercoid. Đây là bào
nang có hai lớp vỏ, bao gồm cơ quan bám và tuyến đuôi (ceromera) với ba đôi
móc bào thai. Sự hình thành Cysticercoid do sự kéo dài của oncoxphera, xuất
hiện xoang cơ thể và bốn giác bám, vòi thô sơ. Sau đó phần sau hẹp lại, dài ra,
nối với đường tạo thành xoang và ở đây hình thành nang. Phần trước của cơ
thể có mầm mống của giác bám và vòi, kéo dài tới phần sau của nang, bằng
cách đó hình thành nang hai vỏ, vỏ ngoài là phần sau của cơ thể, còn vỏ trong
là phần trước. (Đặng Ngọc Thanh và cs (2008) [17]).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -