BỘ CÔNG THƯƠNG
VIỆN NGHIÊN CỨU DA - GIÀY
BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP BỘ
Tên đề tài:
"NGHIÊN CỨU CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT MỚI NHẰM RÚT
NGẮN THỜI GIAN, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
SẢN PHẨM DA THUỘC THẢO MỘC"
Mã số: 240.10 RD/HĐ-KHCN
Cơ quan chủ quản
: Bộ Công Thương
Cơ quan chủ trì
: Viện Nghiên cứu Da - Giầy
Chủ nhiệm đề tài
: KS. Hoàng Mạnh Hùng
8403
Hà Nội, tháng 12/ 2010
Đề tài được thực hiện trên cơ sở Hợp đồng số: 240.10 RD/HĐ-KHCN, ngày
14 tháng 4 năm 2010
Mã số 240.10 RD/HĐ - KHCN
Viện Nghiên cứu Da - Giầy
1
BỘ CÔNG THƯƠNG
VIỆN NGHIÊN CỨU DA - GIÀY
BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP BỘ
Tên đề tài:
"NGHIÊN CỨU CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT MỚI NHẰM RÚT
NGẮN THỜI GIAN, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
SẢN PHẨM DA THUỘC THẢO MỘC"
Mã số: 240.10 RD/HĐ-KHCN
Cơ quan chủ trì
Chủ nhiệm đề tài
Viện Nghiên cứu Da - Giầy
KS. Hoàng Mạnh Hùng
Hà Nội, tháng 12/ 2010
Đề tài được
hiện
trênhiện
cơ sở
Hợp
số: 240.10
RD/HĐ-KHCN,
ngày 14/4/2010
Đề tàithực
được
thực
trên
cơđồng
sở Hợp
đồng số:
240.10 RD/HĐ-KHCN,
ngày
"Nghiên cứu công nghệ sản xuất 14
mớitháng
nhằm4rútnăm
ngắn
thời
gian,
nâng
cao
chất
lượng
2010
sản phẩm da thuộc thảo mộc" - KS. Hoàng Mạnh Hùng
Mã số 240.10 RD/HĐ - KHCN
2
Viện Nghiên cứu Da - Giầy
DANH SÁCH THÀNH VIÊN CHÍNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
STT
1.
Họ và tên
Hoàng Mạnh Hùng
Học hàm,
Cơ quan
Học vị
công tác
Kỹ sư hóa,
Nghiên cứu viên
Nhiệm vụ
Viện NCDG
Chủ nhiệm
Viện NCDG
Cộng tác viên
Viện NCDG
Cộng tác viên
Kỹ sư thuộc da,
2.
Lê Văn Kha
Nghiên cứu viên
chính
3.
Nguyễn Hữu Cường
Kỹ sư thuộc da,
Nghiên cứu viên
Đề tài được thực hiện trên cơ sở Hợp đồng số: 240.10 RD/HĐ-KHCN, ngày 14/4/2010
"Nghiên cứu công nghệ sản xuất mới nhằm rút ngắn thời gian, nâng cao chất lượng
sản phẩm da thuộc thảo mộc" - KS. Hoàng Mạnh Hùng
Mã số 240.10 RD/HĐ - KHCN
3
Viện Nghiên cứu Da - Giầy
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Thứ tự bảng
Tên bảng
Trang
Bảng 1
Yêu cầu kỹ thuật, chỉ tiêu chất lượng đối với sản phẩm
22
Bảng 2
Công đoạn hồi tươi (quy trình 1)
24
Bảng 3
Công đoạn tẩy lông - ngâm vôi (quy trình 2)
25
Bảng 4
Công đoạn tẩy vôi, làm mềm (quy trình 3)
26
Bảng 5
Công đoạn thuộc (quy trình 4)
27
Bảng 6.
Công đoạn thuộc (quy trình 5)
28
Bảng 7
Bảng 8
Bảng 9
Bảng 10
Quy trình công nghệ thuộc lại áp dụng cho da mũ giầy
(quy trình 6)
Quy trình công nghệ thuộc lại áp dụng cho da mũ giầy
(quy trình 7)
Quy trình công nghệ xử lý trau chuốt da mũ giầy
có khuyết tật nhẹ (quy trình 8)
Quy trình công nghệ trau chuốt aniline da mũ giầy
Thuộc thảo mộc (quy trình 9)
29
30
32
33
Bảng 11
Công đoạn thuộc da đế (quy trình 10)
34
Bảng 12
Công đoạn thuộc da đế (Quy trình 11)
35
Bảng 13
Công đoạn hoàn thành ướt da đế (Quy trình 12)
36
Bảng 14
So sánh chỉ tiêu chất lượng sản phẩm nghiên cứu và mẫu
nước ngoài
37
Đề tài được thực hiện trên cơ sở Hợp đồng số: 240.10 RD/HĐ-KHCN, ngày 14/4/2010
"Nghiên cứu công nghệ sản xuất mới nhằm rút ngắn thời gian, nâng cao chất lượng
sản phẩm da thuộc thảo mộc" - KS. Hoàng Mạnh Hùng
Mã số 240.10 RD/HĐ - KHCN
4
Viện Nghiên cứu Da - Giầy
DANH MỤC HÌNH VẼ
Thứ tự hình
Tên hình
Trang
Hình 1
Mặt cắt thiết diện trâu bò
11
Hình 2
Sơ đồ phu lông ăn dầu da đế
19
Hình 3
Máy lăn da CHLB Nga
20
Đề tài được thực hiện trên cơ sở Hợp đồng số: 240.10 RD/HĐ-KHCN, ngày 14/4/2010
"Nghiên cứu công nghệ sản xuất mới nhằm rút ngắn thời gian, nâng cao chất lượng
sản phẩm da thuộc thảo mộc" - KS. Hoàng Mạnh Hùng
Mã số 240.10 RD/HĐ - KHCN
5
Viện Nghiên cứu Da - Giầy
MỤC LỤC
Trang
TÓM TẮT
6
TỔNG QUAN
8
1.1
Cơ sở pháp lý, xuất xứ và sự cần thiết của đề tài
8
1.2
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
8
1.3
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
8
1.4
Nội dung và phương pháp nghiên cứu
9
1.5
Tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
9
THỰC NGHIỆM VÀ BIỆN LUẬN
21
2.1
Địa điểm thực hiện, thiết bị, nguyên liệu, hoá chất sử dụng
21
2.2
Trình tự tiến hành và các giải pháp công nghệ
21
2.3
Nghiên cứu, thiết kế và chế tạo máy lăn da thuộc thảo mộc
23
2.4
Công nghệ sản xuất da mũ giầy thuộc thảo mộc
24
2.5
Công nghệ sản xuất da đế thảo mộc thuộc nhanh
33
PHẦN I
PHẦN II
PHẦN III KẾT LUẬN
39
3.1
Đánh giá kết quả nghiên cứu
39
3.2
Kết luận
39
TÀI LIỆU THAM KHẢO
40
PHỤ LỤC
41
Đề tài được thực hiện trên cơ sở Hợp đồng số: 240.10 RD/HĐ-KHCN, ngày 14/4/2010
"Nghiên cứu công nghệ sản xuất mới nhằm rút ngắn thời gian, nâng cao chất lượng
sản phẩm da thuộc thảo mộc" - KS. Hoàng Mạnh Hùng
Mã số 240.10 RD/HĐ - KHCN
6
Viện Nghiên cứu Da - Giầy
TÓM TẮT
Đề tài "Nghiên cứu công nghệ sản xuất mới nhằm rút ngắn thời
gian, nâng cao chất lượng sản phẩm da thuộc thảo mộc", được tiến hành theo
Hợp đồng số 240.10 RD/HĐ-KHCN giữa Bộ Công Thương và Viện Nghiên cứu
Da Giầy. Mục tiêu của đề tài là đưa ra quy trình công nghệ mới để sản xuất da
thuộc thảo mộc (rút ngắn thời gian và nâng cao chất lượng sản phẩm) làm đế
giầy và mũ giầy; nghiên cứu, thiết kế, chế tạo máy lăn da tanin để cho da được
đanh, chắc, trơn bóng.
Trên cơ sở phân tích mẫu da thuộc nhanh thảo mộc và máy lăn da của Liên
Xô (cũ) qua nghiên cứu tài liệu, ứng dụng các kết quả nghiên cứu của đồng
nghiệp, nhóm thực hiện đề tài đã đã tiến hành các thí nghiệm, hiệu chỉnh thông
số kỹ thuật. Từ đó đã:
- Nghiên cứu thiết kế và chế tạo máy lăn da;
- Xây dựng được công nghệ thuộc nhanh thảo mộc và hoàn thiện da mũ
giầy;
- Xây dựng được công nghệ thuộc nhanh thảo mộc và hoàn thiện da đế giầy.
Các sản phẩm này có công dụng và chất lượng tương đương sản phẩm nước
ngoài.
Tính mới của đề tài là công nghệ thuộc nhanh rút ngắn được thời gian thuộc.
Thời gian thuộc nhanh đối với da của các đề tài trước đây với da đế từ 48 đến 72
giờ và với da mũ giầy 30 đến 35 giờ; sản phẩm của da còn nhiều khiếm khuyết
như độ đanh chắc chưa đạt. Phương pháp thuộc nhanh của đề tài này đã nâng
cấp chất lượng da thành phẩm tương đương da thuộc truyền thống của nước
ngoài nhờ hoá chất mới và thiết bị máy lăn chuyên ngành cho da đế, đồng thời
nhóm đề tài đã rút ngắn được thời gian thuộc đối với da mũ giầy còn 10 – 12
giờ, đối với da đế 35 – 40 giờ.
Sau một năm làm việc nghiêm túc, khoa học, đề tài đã thực hiện đúng theo
hợp đồng về nội dung nghiên cứu và tài chính. Về mặt khoa học, công nghệ có
tính chất khả thi và có thể áp dụng cho tất cả các cơ sở sản xuất thuộc da trong
Đề tài được thực hiện trên cơ sở Hợp đồng số: 240.10 RD/HĐ-KHCN, ngày 14/4/2010
"Nghiên cứu công nghệ sản xuất mới nhằm rút ngắn thời gian, nâng cao chất lượng
sản phẩm da thuộc thảo mộc" - KS. Hoàng Mạnh Hùng
Mã số 240.10 RD/HĐ - KHCN
7
Viện Nghiên cứu Da - Giầy
nước. Hoá chất sử dụng hầu hết là hoá chất sẵn có của các hãng nổi tiếng như
Clariant, Stahl, Pielcolor, BASF, ATC… trên thị trường trong nước.
Đề tài được thực hiện trên cơ sở Hợp đồng số: 240.10 RD/HĐ-KHCN, ngày 14/4/2010
"Nghiên cứu công nghệ sản xuất mới nhằm rút ngắn thời gian, nâng cao chất lượng
sản phẩm da thuộc thảo mộc" - KS. Hoàng Mạnh Hùng
Mã số 240.10 RD/HĐ - KHCN
8
Viện Nghiên cứu Da - Giầy
PHẦN 1. TỔNG QUAN
1.1 Cơ sở pháp lý, xuất xứ và sự cần thiết của đề tài
1.1.1 Cơ sở pháp lý:
Đề tài "Nghiên cứu công nghệ sản xuất mới nhằm rút ngắn thời gian,
nâng cao chất lượng sản phẩm da thuộc thảo mộc", được tiến hành theo Hợp
đồng số 240.10 RD/HĐ-KHCN giữa Bộ Công Thương và Viện Nghiên cứu Da
Giầy .
1.1.2 Sự cần thiết của đề tài:
Ở Việt Nam cũng như nhiều nước khác, da thuộc thảo mộc hàng năm có
nhu cầu lớn để sản xuất các mặt hàng giầy dép cao cấp, vừa hợp vệ sinh, bảo
đảm sức khỏe người sử dụng, vừa phù hợp thời trang. Tuy nhiên, công nghệ
thuộc da thảo mộc kéo dài, đòi hỏi đầu tư mặt bằng lớn, công suất lại không cao.
Công nghệ thuộc nhanh thảo mộc ở Việt Nam chưa được nghiên cứu bài bản
nên chất lượng da thuộc còn kém so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Đề tài "Nghiên cứu công nghệ sản xuất mới nhằm rút ngắn thời gian,
nâng cao chất lượng sản phẩm da thuộc thảo mộc" được tiến hành sẽ giải
quyết được vấn đề trên, tạo ra sản phẩm nội địa chất lượng cao.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu của đề tài là:
Đưa ra quy trình công nghệ mới để sản xuất da thuộc thảo mộc (rút ngắn
thời gian và nâng cao chất lượng sản phẩm) làm đế giầy và mũ giầy; nghiên cứu,
thiết kế, chế tạo máy lăn da tanin để cho da được đanh, chắc, trơn bóng.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu trực tiếp của đề tài là quy trình công nghệ thuộc
nhanh thảo mộc cho da bò làm mũ giầy và da đế. Cùng đó là máy lăn da tanin để
cho da được đanh, chắc, trơn bóng.
Đề tài được thực hiện trên cơ sở Hợp đồng số: 240.10 RD/HĐ-KHCN, ngày 14/4/2010
"Nghiên cứu công nghệ sản xuất mới nhằm rút ngắn thời gian, nâng cao chất lượng
sản phẩm da thuộc thảo mộc" - KS. Hoàng Mạnh Hùng
Mã số 240.10 RD/HĐ - KHCN
9
Viện Nghiên cứu Da - Giầy
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu sử dụng da bò làm da đế giầy và da mũ giầy. quy mô nghiên
cứu trong xưởng thực nghiệm.
1.4 Nội dung và phương pháp nghiên cứu
1.4.1. Nội dung nghiên cứu
- Khảo sát sưu tầm tài liệu, mẫu hàng nước ngoài.
- Xây dựng tiêu chuẩn da thuộc thảo mộc.
- Nghiên cứu xây dựng quy trình công nghệ thuộc và hoàn thiện da thảo mộc:
+ Làm mũ giầy
+ Làm đế giầy
- Nghiên cứu, thiết kế, chế tạo máy lăn da thảo mộc để cho da chắc, đanh,
trơn, bóng.
- Đánh giá hiệu quả đề tài.
1.4.2. Phương pháp nghiên cứu
Phân tích mẫu nước ngoài; kết hợp nghiên cứu lý thuyết và thực hành,
đánh giá kết quả qua từng thí nghiệm, hiệu chỉnh các thông số kỹ thuật trong quá
trình thực hiện nhằm tìm ra quy trình công nghệ tối ưu.
1.5. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
1.5.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Khoảng 10 năm lại đây, trong nước cũng đã phát triển mạnh mẽ việc
nghiên cứu, sản xuất mặt hàng da thuộc tanin thảo mộc. Da thuộc tanin thảo mộc
rất được ưa chuộng trên thị trường thế giới và Việt nam nhờ các tính chất ưu việt
của nó về chất lượng và hình thức, dù giá bán rất cao. Hơn nữa, so với các công
nghệ thuộc khác, công nghệ thuộc da thảo mộc ít ảnh hưởng đến môi trường. Da
thuộc tanin thảo mộc được dùng làm mũ giầy, đế giầy, cặp, túi, ví và làm da
công nghiệp. Tuy nhiên, theo công nghệ cũ (thuộc bể) thì phải tốn diện tích xây
dựng bể (10 bể), mặt khác thời gian thuộc rất lâu (tới 2 tháng). Sản phẩm da
thuộc cứng nên chỉ dùng làm đế giầy, chứ không dùng được làm mũ giầy.
Đề tài được thực hiện trên cơ sở Hợp đồng số: 240.10 RD/HĐ-KHCN, ngày 14/4/2010
"Nghiên cứu công nghệ sản xuất mới nhằm rút ngắn thời gian, nâng cao chất lượng
sản phẩm da thuộc thảo mộc" - KS. Hoàng Mạnh Hùng
Mã số 240.10 RD/HĐ - KHCN
10
Viện Nghiên cứu Da - Giầy
Đã có một số cơ sở bước đầu sản xuất da thuộc tanin, tuy nhiên do chưa
có sự nghiên cứu bài bản, hoá chất mới và thiết bị chuyên dùng nên chất lượng
còn kém, chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường.
Viện Nghiên cứu Da- Giầy trong các năm gần đây đã tiến hành một số đề
tài nghiên cứu có liên quan như đề tài thuộc tanin thảo mộc làm da mũ giầy năm
1998 và đề tài thuộc nhanh da đế năm 2000 tạo sản phẩm với chất lượng tương
đối. Song, thành công này mới chỉ là bước đầu, thiết bị máy móc chưa đầy đủ,
da thuộc còn chưa đạt yêu cầu về hình thức, chất lượng...
Công nghệ sản xuất da thuộc thảo mộc mới sẽ sử dụng thùng quay da thay
cho phương pháp thuộc bể cũ. Nhờ có tác động cơ học và hóa chất trợ mới, chất
thuộc thảo mộc sẽ xuyên vào và kết hợp với da nhanh hơn và tốt hơn.
Đặc biệt khi áp dụng công nghệ mới này để sản xuất da thuộc thảo mộc,
không thể không có thiết bị nén lăn mặt da, làm cho da đanh, chắc và trơn bóng
bề mặt. Ở các nước có công nghệ thuộc da tiên tiến đều có sử dụng thiết bị này,
nhưng ở nước ta hiện tại chưa có. Với trình độ của Viện và mẫu tham khảo của
nước ngoài, chúng tôi có thể nghiên cứu chế tạo thành công thiết bị máy lăn da
thuộc thảo mộc này.
1.5.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Công nghệ thuộc da bằng thảo mộc đã có từ lâu đời, tuy nhiên thời gian
thuộc kéo dài, da cứng nên không được áp dụng rộng rãi. Trong những năm gần
đây, mặt hàng da thuộc tanin thảo mộc đã được quan tâm nghiên cứu sản xuất
do nhu cầu bảo vệ môi trường và của nền kinh tế dân sinh. Một số nước đã có
công nghệ thuộc nhanh và trau chuốt hoàn thiện mặt hàng này như: Ý, Hàn
Quốc, Thái Lan…Sản phẩm da thuộc của họ đạt tới trình độ tinh xảo, có giá bán
rất cao trên thị trường. Đi kèm công nghệ là các thiết bị chuyên ngành, phù hợp
với yêu cầu nghiên cứu và sản xuất. Chính vì vậy, phần lớn các sản phẩm từ da
thuộc loại này đều phải nhập từ nước ngoài. Hi vọng rằng từ các điển hình mẫu
mực trên, đề tài sẽ mô phỏng, áp dụng hợp lý vào điều kiện cụ thể ở các nhà
máy thuộc da trong nước với công nghệ thuộc da truyền thống, khả năng kĩ thuật
và tài chính hạn chế.
Đề tài được thực hiện trên cơ sở Hợp đồng số: 240.10 RD/HĐ-KHCN, ngày 14/4/2010
"Nghiên cứu công nghệ sản xuất mới nhằm rút ngắn thời gian, nâng cao chất lượng
sản phẩm da thuộc thảo mộc" - KS. Hoàng Mạnh Hùng
Mã số 240.10 RD/HĐ - KHCN
11
Viện Nghiên cứu Da - Giầy
1.5.3. Một số cơ sở khoa học áp dụng trong đề tài:
1.5.3.1. Thành phần hóa học của da động vật.
Da bò được tạo nên từ hai phần chính:
- Trên bề mặt là phần vẩy sừng (Epidermis)
- Phần cật là thành phần chính của da gồm có hai lớp: lớp trên (papillary
layer) có cấu tạo sợi mịn, liên kết chặt chẽ tạo mặt cật cho da và lớp dưới
(reticular layer) có cấu trúc mạng lưới, có độ dày lớn hơn lớp trên và là phần
chính tạo độ bền cơ học cho da.
Hình 1. Mặt cắt thiết diện da trâu bò
Thành phần hóa học của da gồm có nước, protein, chất béo và một vài
muối khoáng. Protein là thành phần chính tạo nên da thuộc. Protein gồm có hai
loại:
- Protein dạng sợi: là thành phần chính của da, quyết định tính chất cơ học
và lý học của da. Có 3 nhóm chính là: collagen, elastin và keratin.
- Protein không dạng sợi: globulin, albumin.
Đề tài được thực hiện trên cơ sở Hợp đồng số: 240.10 RD/HĐ-KHCN, ngày 14/4/2010
"Nghiên cứu công nghệ sản xuất mới nhằm rút ngắn thời gian, nâng cao chất lượng
sản phẩm da thuộc thảo mộc" - KS. Hoàng Mạnh Hùng
Mã số 240.10 RD/HĐ - KHCN
12
Viện Nghiên cứu Da - Giầy
1.5.3.2. Công nghệ thuộc tanin thảo mộc
Thuộc da thảo mộc là phương pháp thuộc lâu đời nhất. Do cấu tạo phức
tạp của tannin thảo mộc và collagen nên cơ chế hóa học xảy ra trong quá trình
thuộc thảo mộc chưa được phân tích một cách hoàn hảo. Sự kết hợp giữa tannin
và collagen không đủ bền khi thủy phân, được minh chứng qua nhiệt độ co của
da thuộc tannin tương đối thấp (75- 80oC)
Thuyết đầu tiên của A. Seguin (1858) cho rằng quá trình thuộc thảo mộc
là quá trình tạo muối dạng tanat-collagen giữa nhóm kiềm của da và nhóm
hydroxyl của dtanin.
Thuyết của K. Freudenberg cho rằng pha đầu tiên tannin tác dụng với
collagen tạo hợp chất cộng, pha thứ 2 tạo nên hợp chất polymer thông qua quá
trình polymehoas và ngưng tụ với ô xy trong không khí, pha thứ 3 là hợp chất
polymetacs dụng với collagen.
Còn theo thuyết E. Stiasny, cơ chế thuộc thảo mộc là sự kết hợp giữa
nhóm hydroxyl của tannin và nhóm peptid bằng cầu hydro.
G.A.Arbuzov, S.I.Sôclov và A.N.Mikhailov cho rằng quá trình thuộc thảo
mộc xảy ra theo 2 giai đoạn kế tiếp nhau. Giai đoạn đầu tannin xuyên vào da,
giai đoạn sau xảy ra phản ứng giữa các tannin đã xuyên vào da và ở bề mặt
collagen. Đồng thời trong giai đoạn này cũng xảy ra sự liên kết giữa collagen và
nhóm hoạt tính của tannin, tạo liên kết điện hóa trị (electrovalent) theo sơ đồ
sau:
R - NH2 + HO - T
R - NH3 - O-T
Trong đó:
R: Mạch polypeptide
T: Mạch tannin
Tanin không bị loại khỏi da bằng dung dịch kiềm là tannin kết hợp với
collagen bằng liên kết hóa trị (covalent). Liên kết hóa trị là liên kết bến nhất
trong các liên kết. Liên kết hóa trị tạo ra bằng phản ứng ngưng tụ sau khi loại
nước:
Đề tài được thực hiện trên cơ sở Hợp đồng số: 240.10 RD/HĐ-KHCN, ngày 14/4/2010
"Nghiên cứu công nghệ sản xuất mới nhằm rút ngắn thời gian, nâng cao chất lượng
sản phẩm da thuộc thảo mộc" - KS. Hoàng Mạnh Hùng
Mã số 240.10 RD/HĐ - KHCN
13
Viện Nghiên cứu Da - Giầy
- H 2O
R – NH3 – O – T
R – NH - -
K. Freundenberg đã phân tanin thảo mộc ra thành 2 nhóm theo bản chất liên
kết của các phần trong phân tử, đó là:
- Tanin có khả năng thủy phân được: là các tanin có khả năng thủy phân
thành các thành phần. Các thành phần sau khi phân giải có cấu tạo hóa học đơn
giản hơn.
- Tanin ngưng tụ: Được đặc trưng bởi các nhân benzen trong phân tử, được
nối với nhau bằng cầu hóa trị = C – C = Tanin ngưng tụ không bị phân giải
trong nước hay a xít loãng. Trong a xít mạnh hoặc bằng phương pháp oxy hóa sẽ
xảy ra quá trình ngưng tụ các chất tanin, tạo chất không tan trong nước được gọi
là flobafen.
Các chất khác có trong tanin: Chất phi tanin, chất không hòa tan.
Thuộc tanin tự nhiên ngày nay còn được dùng trong sản xuất da đế, da mũ
giầy.
Chỉ một số trường hợp sử dụng một loại tanin, còn phần lớn là sử dụng kết
hợp các loại tanin tự nhiên. Sự lựa chọn phụ thuộc vào tính chất của da thành
phẩm.
Các chất thuộc thảo mộc quan trọng nhất là Quebracho, Mimosa, Chestnut,
Valonia, Myrobalan. Các chất này được sử dụng chủ yếu ở dạng bột, rất ít khi ở
dạng dung dịch.
- Quebracho: được sản xuất từ cây Quebracho ở Nam Mỹ và được dùng
trong công nghệ thuộc da đế là chủ yếu. Khi thuộc lại, lượng dùng không lớn do
Quebracho tạo cho da nặng và có màu sẫm.
- Mimosa: được sản xuất từ vỏ cây có keo nhựa. Nguồn cung cấp chủ yếu ở
các nước Nam và Đông Phi, Braxin và Ấn Độ. Mimosa có phân tử nhỏ hơn nên
không những được dùng để thuộc da đế mà còn được dùng nhiều trong thuộc lại
da mũ giày, đặc biệt là loại da mũ giày có cải tạo mặt cật.
Đề tài được thực hiện trên cơ sở Hợp đồng số: 240.10 RD/HĐ-KHCN, ngày 14/4/2010
"Nghiên cứu công nghệ sản xuất mới nhằm rút ngắn thời gian, nâng cao chất lượng
sản phẩm da thuộc thảo mộc" - KS. Hoàng Mạnh Hùng
Mã số 240.10 RD/HĐ - KHCN
14
Viện Nghiên cứu Da - Giầy
- Chestnut: được sản xuất từ vỏ của cây dẻ, nguồn cung cấp chính là Pháp,
Ý, Nam Tư. Chestnut cũng được dùng để thuộc lại da mũ giày, song lượng dùng
không nhiều do phân tử lớn và da thuộc có màu sẫm.
- Valonia và Myrobalan là chất thuộc thảo mộc chủ yếu dùng để thuộc da
đế, rất ít dùng trong công đoạn thuộc lại, do nó làm cho da nặng và sẫm màu.
Tính chất hóa học của tannin thảo mộc: Các chất thuộc thảo mộc là các hợp
chất fenolic có trong thực vật. Thành phần hóa học của chúng khác biệt so với
các chất thuộc khác, nhưng tất cả các chất thuộc thảo mộc có một số đặc tính
chung sau:
- Làm kết tủa dung dịch protein. Mức độ kết tủa protein phụ thuộc vào độ
chát (astringent) của thảo mộc. Độ chát càng lớn, lượng protein kết tủa càng
nhiều.
- Có khả năng thuộc da, nghĩa là tannin thảo mộc có khả năng chuyển một
số nhóm ưa nước thành kỵ nước.
- Với muối của kim loại năng khác nhau, tannin thảo mộc tạo các màu khác
nhau. Với muối sắt tạo màu xanh sẫm và xanh lá cây.
- Tạo các vết màu không tan được với phẩm kiềm.
- Hòa tan được trong nước, dung dịch có tính a xít yếu.
- Hòa tan được trong acetone, acetate ethyl, hỗn hợp alcol và ete công
nghiệp, nhưng không tan trong eter tinh khiết.
Tính chất công nghệ của tannin thảo mộc: Làm cơ sở trong việc xác lập công
nghệ thuộc và các yếu tố ảnh hưởng để tạo ra sự liên kết tốt nhất giữa tain và da.
Tính chất công nghệ của tanin được biết thông qua các tính chất của tanin là:
- Tốc độ xuyên: có liên quan đến yếu tố thời gian của công nghệ thuộc. Tốc
độ xuyên nhanh, thời gian công nghệ sẽ giảm.
- Mức độ hãm và kết hợp: Còn gọi là chỉ số hãm thể hiện lượng tanin hấp
thụ hoặc hãm trên 100g bột da trong dung dịch 6% tanin và thời gian là 3 hoặc
24 giờ. Chỉ số kết hợp thể hiện lượng tanin hãm mà không bị giải hãm (phản
ứng ngược).
Đề tài được thực hiện trên cơ sở Hợp đồng số: 240.10 RD/HĐ-KHCN, ngày 14/4/2010
"Nghiên cứu công nghệ sản xuất mới nhằm rút ngắn thời gian, nâng cao chất lượng
sản phẩm da thuộc thảo mộc" - KS. Hoàng Mạnh Hùng
Mã số 240.10 RD/HĐ - KHCN
15
Viện Nghiên cứu Da - Giầy
- Kết tủa với NaCl: Muối NaCl hòa tan trong dung dịch tanin sẽ làm kết tủa
tanin bởi tanin là các hạt ưa nước. Muối trong dung dịch khử nước của các hạt,
làm giảm nồng độ tanin trong dung dịch. Nếu tiếp tục tăng nồng độ muối, các
hạt tanin bị khử nước càng mạnh và cuối cùng tanin sẽ kết tủa.
- Kết bông (flocculation) với a xít vô cơ trong khoảng pH=7-10: Thêm lượng
nhỏ a xít vào dung dịch sẽ làm giảm độ hòa tan của tanin và tạo kết bông. Với
các a xít hữu cơ ở khoảng pH tương tự, không gây kết bông như với a xít vô cơ.
Hiện tượng kết bông là do sự giảm và cân bằng điện tích của hạt tanin tích điện
âm và ion hydro tích điện dương.
- Sa lắng khi có hoặc không có da trần: Mức độ sa lắng của dung dịch tanin
phụ thuộc vào bản chất tanin, độ chát, thành phầnphi tanin, pH dung dịch. Để
hạn chế mức độ sa lắng chất tanin, trong công nghệ cần sử dụng kết hợp tanin
thảo mộc với syntan có khả năng làm tăng độ hòa tan của tanin thảo mộc.
Tanin tổng hợp: chất thuộc tổng hợp còn gọi là syntan, là hợp chất hữu cơ có
khả năng kết hợp được với các nhóm chức của collagen tạo cho da không bị thối
khi ngập nước. Trong thành phần hoá học của syntan có chứa nhóm synfo (SO32) để tăng khả năng hoà tan trong nước.
Theo tính chất thuộc, syntan được chia làm 2 loại:
- syntan phụ trợ: là sản phẩm trùng ngưng của naphtalen. Loại syntan này
không có khả năng thuộc được da, chúng chỉ có khả năng tăng cường một số
tính chất như ổn định pH của dung dịch trung hoà, tăng khả năng khuếch tán các
chất thuộc.
- syntan thay thế là sản phẩm trùng ngưng của phenol, có khả năng thuộc
được da và thay thế các chất thuộc khác; có khả năng làm đầy các khoảng trống
giữa các bó sợi nên được dùng làm đầy trong quá trình thuộc lại.
K. Freundenberg đã phân tain thảo mộc ra thành 2 nhóm theo bản chất liên
kết của các phần trong phân tử, đó là:
- Tanin có khả năng thủy phân được: là các tanin có khả năng thủy phân
thành các thành phần. Các thành phần sau khi phân giải có cấu tạo hóa học đơn
giản hơn.
Đề tài được thực hiện trên cơ sở Hợp đồng số: 240.10 RD/HĐ-KHCN, ngày 14/4/2010
"Nghiên cứu công nghệ sản xuất mới nhằm rút ngắn thời gian, nâng cao chất lượng
sản phẩm da thuộc thảo mộc" - KS. Hoàng Mạnh Hùng
Mã số 240.10 RD/HĐ - KHCN
16
Viện Nghiên cứu Da - Giầy
- Tanin ngưng tụ: Được đặc trưng bởi các nhân benzen trong phân tử, được
nối với nhau bằng cầu hóa trị = C – C = Tanin ngưng tụ không bị phân giải
trong nước hay a xít loãng. Trong a xít mạnh hoặc bằng phương pháp oxy hóa sẽ
xảy ra quá trình ngưng tụ các chất tanin, tạo chất không tan trong nước được gọi
là flobafen.
Các chất khác có trong tanin: Chất phi tanin, chất không hòa tan.
Thuộc tanin tự nhiên ngày nay còn được dùng trong sản xuất da đế, da mũ
giầy.
Chỉ một số trường hợp sử dụng một loại tanin, còn phần lớn là sử dụng kết
hợp các loại tanin tự nhiên. Sự lựa chọn phụ thuộc vào tính chất của da thành
phẩm.
Các loại da nặng như da dế thường được sản xuất theo phương pháp thuộc
bể truyền thống. Có 2 cách: chu trình kín và ngược chiều. Trong sản xuất công
nghiệp, phần lớn áp dụng cách thuộc ngược chiều. Da trần được đưa vào bể có
nồng độ tanin thấp. Sau đó da được chuyển qua bể có nồng độ tanin cao hơn.
Dãy các bể, trong đó tiến hành quá trình ngược chiều thường gồm 6 đến 14 bể.
Bể đầu có nồng độ khoảng 7oE, tăng dần đến bể cuối khoảng 30oE. Độ đậm đặc
là thước đo nồng độ tanin, tất nhiên cũng còn phụ thuộc vào loại tanin hòa tan.
Thuộc nhanh: Nhược điểm lớn nhất của công nghệ thuộc da tanin nặng là
thời gian thuộc rất lâu. Kể cả phương pháp thuộc kết hợp cũng không ngắn hơn
2- 3 tháng. Thời gian kéo dài sẽ kèm theo đòi hỏi đầu tư lớn cho không gian nhà
xưởng. Bởi vậy người ta tìm cách để rút ngắn thời gian thuộc. Phương pháp có ý
nghĩa lớn nhất là thuộc nhanh. Trong đó người ta sử dụng tính chất thích hợp
của tanin tổng hợp (syntan). Syntan khuyếch tán vào da nhanh hơn, không bịt
mặt da làm ngăn cản sự xuyên thấu của tanin tự nhiên. Thuộc nhanh thường tiến
hành trong phu lông, ở đó tanin tự nhiên nhờ sự trợ giúp của syntan phân tán và
tác động cơ học sẽ xuyên vào da nhanh hơn. Ma sát xuất hiện làm da nóng lên
và giảm độ nhớt. Bởi vậy trong phu lông có thể dùng nồng độ tanin cao. Phu
lông thuộc có tốc độ nhỏ (4 – 6 vòng/ phút). Dung dịch thuộc có nồng độ 80 –
100oE . Thời gian thuộc kéo dài 48 – 72 giờ.
Đề tài được thực hiện trên cơ sở Hợp đồng số: 240.10 RD/HĐ-KHCN, ngày 14/4/2010
"Nghiên cứu công nghệ sản xuất mới nhằm rút ngắn thời gian, nâng cao chất lượng
sản phẩm da thuộc thảo mộc" - KS. Hoàng Mạnh Hùng
Mã số 240.10 RD/HĐ - KHCN
17
Viện Nghiên cứu Da - Giầy
Tuy nhiên, da tanin thuộc nhanh có chất lượng kém hơn so với thuộc bể.
Do tác động chuyển động cơ học của phu lông, cấu trúc da mở nhiều làm da
mềm, kém đanh hơn da thuộc bể.
Để khắc phục nhược điểm trên, da sau thuộc tanin tự nhiên cần phải thuộc
lại và sử dụng thiết bị máy lăn da thảo mộc để cho da chắc, đanh, trơn, bóng.
Thuộc thảo mộc là quá trình gồm 2 bước cần thiết, mặc dù 2 bước đó
không hoàm toàn tách biệt, mà trên thực tế có thể xảy ra đồng thời. Bước đầu
tiên là sự khuyếch tán của thảo mộc giữa các bó sợi và tế bào sợi da qua các mao
dẫn, dần xuyên vào các sợi riêng biệt. Bước 2 là sự kết hợp của tanin thảo mộc
với collagen, nhờ đó da được thuộc. Do đó cần lưu ý những yếu tố ảnh hưởng
đến sự khuyếch tán của tanin, bởi vì da sẽ không được thuộc tốt nếu tanin không
khuyếch tán vào cấu trúc collagen và kết hợp hoàn toàn.
Các yếu tố ảnh hưởng tới sự khuyếch tán là:
- Nồng độ tanin
- Thời gian
- Nhiệt độ
- Độ a xít
- Lượng muối trung tính
- Kích thước phân tử
- Tác động cơ học
Khi nồng độ dung dịch thuộc tăng lên, khả năng xuyên vào da của nó cũng
tăng lên. Tuy nhiên nếu tính thuộc không tăng sẽ làm cho da cứng và ngăn cản
sự xuyên thấu của dung dịch. Vì vậy không thể tăng khả năng xuyên bằng cách
cho da trần vào dung dịch tanin đặc. Nếu tăng dần nồng độ tanin thì khả năng
xuyên cũng sẽ tăng.
Thời gian ngâm da trong dung dịch tanin quyết định lượng tanin vào da. Do
đó thời gian càng lâu thì tanin vào da càng nhiều.
Nếu tăng nhiệt độ cũng sẽ tăng khả năng xuyên của tanin. Khi nhiệt độ tăng,
độ nhớt của dung dịch giảm, sự chuyển động nhiệt của các phân tử tanin tăng.
Đề tài được thực hiện trên cơ sở Hợp đồng số: 240.10 RD/HĐ-KHCN, ngày 14/4/2010
"Nghiên cứu công nghệ sản xuất mới nhằm rút ngắn thời gian, nâng cao chất lượng
sản phẩm da thuộc thảo mộc" - KS. Hoàng Mạnh Hùng
Mã số 240.10 RD/HĐ - KHCN
18
Viện Nghiên cứu Da - Giầy
Độ a xít là một yếu tố ảnh hưởng tới sự khuyếch tán của tanin vào da.pH
dung dịch tác động tới sự khuyếch tán bằng nhiều cách. Trước hết là độ a xít
làm tăng sự trương nở của sợi da, khoảng cách giữa các sợi giảm làm khuyếch
tán giảm. Thứ 2 khi pH giảm, đặc biệt khi pH dưới 3,5 thì khả năng kết hợp của
tanin tăng nhiều, làm giảm sự khuyếch tán của tanin.
Loại a xít có trong dung dịch cũng quan trọng. Lượng nhỏ a xít vô cơ cũng
tương đương lượng lớn a xít yếu (fooocmic, lắc tíc) để đạt cùng độ pH.
Lượng a xít càng lớn, khả năng xuyên thấu của tanin càng giảm.
Sự có mặt của muối trung tính sẽ thúc đẩy sự khuyếch tán của tanin bởi nó
làm giảm sự trương nở của da.
Khả năng xuyên của tanin bị ảnh hưởng nhiều bởi độ lớn phân tử tanin.
Tanin thảo mộc là hỗn hợp của các thành phần hữu cơ cao phân tử với nhiều độ
lớn khác nhau, do đó các phân tử có độ lớn khác nhau.Tanin có kích thước phân
tử nhỏ sẽ khuyếch tán nhanh hơn. Một số chất như bisulphit giúp tăng sự hòa tan
một số kim loại làm tăng khả năng khuyếch tán của tanin. Nếu tanin có độ chát
cao thì sẽ cản trở khả năng xuyên của nó.
Tác động cơ học cũng làm tăng khả năng khuyếch tán của tanin.
Các yếu tố ảnh hưởng tới sự hấp thụ và kết hợp của tanin với da:
- Nồng độ dung dịch tanin
- Thời gian
- Nhiệt độ
- Độ a xít hoặc pH
- Thành phần muối trung tính
- Kích thước phân tử tanin
Dễ dàng nhận thấy các yếu tố ảnh hưởng tới sự khuyếch tán cũng ảnh hưởng
tới sự kết hợp của tanin.
Nồng độ dung dịch càng tăng thì khả năng kết hợp cũng càng tăng.
Sự kết hợp cũng là quá trình hóa- lý với thời gian, nên thời gian càng lâu thì
sự kết hợp càng tăng..
Phản ứng cũng tăng lên cùng nhiệt độ.
Đề tài được thực hiện trên cơ sở Hợp đồng số: 240.10 RD/HĐ-KHCN, ngày 14/4/2010
"Nghiên cứu công nghệ sản xuất mới nhằm rút ngắn thời gian, nâng cao chất lượng
sản phẩm da thuộc thảo mộc" - KS. Hoàng Mạnh Hùng
Mã số 240.10 RD/HĐ - KHCN
19
Viện Nghiên cứu Da - Giầy
Độ a xít giữ vai trò quan trọng trong thuộc bởi tanin được kết hợp với da
trong khoảng pH=1-8, khả năng kết hợp cao nhất khi pH=2-3. Đó là khi các
nhóm chức hoạt động mạnh nhất..
Loại a xít cũng quan trọng với khả năng hấp thụ hoặc kết hợp. Dung dịch
tanin được a xít hóa tới độ pH nhất định bằng lượng lớn a xít yếu sẽ làm tăng
khả năng kết hợp hơn khi dùng lượng nhỏ a xít mạnh.
Sự có mặt của muối trung tính làm giảm sự kết hợp của tanin với da. Dó có
thể do sự trương nở của collagen bị giảm, các nhóm chức khó tiếp cận với
collagen. Do đó sự có mặt của muối trung tính sẽ làm da bị rỗng, xốp, đặc biệt
khi lượng lớn.
Kích thước phân tử tanin nhỏ thì khó kết hợp với da.
Tóm lại, nguyên tắc thuộc tanin thảo mộc: Điều kiện của da và dung dịch
tanin phải sao cho tanin có thể xuyên vào khoảng trống giữa các sợi tới mức độ
thích hợp theo độ dầy của da. Sau khi xuyên vào da, quá trình khuyếch tán và
kết hợp sẽ xảy ra đồng thời. Sự lựa chọn thích hợp điều kiện ở các bước thuộc sẽ
tạo ra ảnh hưởng thúc đẩy quá trình khuyếch tán và kết hợp của tanin.
Đối với da đế thuộc thảo mộc, để da đanh, chắc, người ta cho da ăn dầu khan
trong phu lông nhiệt.
Hình 2. Sơ đồ phu lông ăn dầu da đế
Đề tài được thực hiện trên cơ sở Hợp đồng số: 240.10 RD/HĐ-KHCN, ngày 14/4/2010
"Nghiên cứu công nghệ sản xuất mới nhằm rút ngắn thời gian, nâng cao chất lượng
sản phẩm da thuộc thảo mộc" - KS. Hoàng Mạnh Hùng
- Xem thêm -