Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu chi tiêu công của quốc gia lafrasia g...

Tài liệu Nghiên cứu chi tiêu công của quốc gia lafrasia g

.PDF
24
81
129

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌ C KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH KHOA SAU ĐẠI HỌC MOÂN TAØI CHÍNH COÂNG Case study: NGHIÊN CỨU CHI TIÊU CÔNG CỦA QUỐC GIA LAFRASIA GVHD: TS. NGUYỄN HỒNG THẮNG HVTH: NHÓM 1 Lớp: K16 – Ngaân haøng Ñeâm 2 TPHCM, tháng 1 năm 2008 PHẦN I: GIỚI THIỆU LỊCH SỬ VÀ ĐỊA LÝ Quốc gia Lafrasia là một nước thuộc địa trước đây, đã dành được độc lập sau Chiến tranh thế giới II. Suốt thời kỳ thuộc địa, nước này có một bộ máy chính quyền tốt, cơ sở hạ tầng tương xứng, và hệ thống giáo dục công phát triển tốt. Tuy nhiên, suốt 30 năm chế độ độc tài quân sự, những thành tưu này đã bị phá huỹ. Hệ thống đã bị sụp đỗ: Bộ máy nhà nước thì cồng kềnh và không có hiệu quả, cơ sở hạ tầng thì xuống cấp do thiếu bảo trì, hệ thống giáo dục công ngày càng tệ hại tồn tại nhiều vấn đề. Một chính quyền dân chủ đã bị thay thế suốt thập kỷ qua và đang nỗ lực tái thiết cơ sở hạ tầng và tập trung lại những ưu thế của nhà nước Lafrasia. Lafrasia là một nước nhiệt đới. Khoảng 25 phần trăm đất nước là đồi núi, phần còn lại là rừng rậm và đồng bằng. Cây dừa được trồng ở cũng đồi núi. Lafrasia có khoảng 300 dặm bờ biển và một cảng nước sâu tốt. Các hòn đảo ngoài khơi gần thành phố ven biển của Bahia Linda thu hút một lượng đáng kể khách du lịch. Thủy điện là nguồn năng lượng chính trong nước, cùng với nhiên liệu gỗ; toàn bộ dầu và khí gas đều nhập khẩu. DÂN SỐ Dân số Lafrasia là 40 triệu. 7 triệu người sống ở Thủ đô của Lafrasia, là thành phố lớn nhất trong năm tỉnh, với gần 40% dân số. 8 triệu người khác sống trong 10 thành phố nhỏ hơn. Phần còn lại sống ở nông thôn với mật độ dân số từ vài trăm đến vài ngàn người. Tỉnh miền núi có mật độ dân số thưa nhất, chỉ với 250.000 người phân bố trên 7000 dặm vuông. Khoảng 23 phần trăm dân số Lafrasia sống dưới mức nghèo khổ. Nhiều người vẫn sống ở vùng nông thôn, nhưng số người di cư lên các khu vực thành thị ngày càng tăng lên, họ sống trong nhưng căn nhà lụp xụp và thiếu ăn, lao động chân tay không có kỹ năng, thường tập trung trong những khu dân lao động tự do. CHỈ SỐ XÃ HỘI Lafrasia nằm trong những nước có thu nhập bình quân đầu người thấp dưới mức trung bình, nhưng một số chỉ số xã hội cho thấy không đáp ứng các nhu cầu cơ bản về y tế, giáo dục và các dịch vu khác. Bảng 1- 1 liệt kê các chỉ số xã hội của Lafrasia và một nhóm các quốc gia tương tự, những nước ở cùng khu vực và có cũng mức thu nhập. Bảng 1- 1. Các chỉ số x ã hội của La frasia và các nước tương đồng. 1988 – 89 Chỉ số GDP bình quân đầu người Tỷ lệ tử vong ở trẻ em Tỷ lệ tử vong ở người mẹ Tỷ lệ trẻ từ 1- 3 tuổi đươc 5 tiêm chủng ngừa Tỷ lệ nhiểm HIV Tuổi tho trung bình Tỷ lệ trẻ đến t rường tiểu học Tỷ lệ tốt nghiệp tiểu học Tỷ lệ biết chữ ở người lớ n Tỷ lệ hộ có điện Tỷ lệ hộ có điện thoại Lafrasia US$ 750 8.00% 3/1000 58.00% 10.00% 55.00% 92.00% 40.00% 27.00% 35.00% 6.40% Mức trung bình, các nước tương đồng US$ 825 4.50% 1.2/1000 87.00% 11.00% 59.00% 93.00% 72.00% 22.00% 25.00% 9.20% AN NINH TRẬT TỰ Chính quyền trước sử dung quân đội để kiểm soát tình hình trong nước và kẻ thù ngoài nước. Ít nhất là một trong những nước láng giềng của Lafrasia, Andaria, có bản phác hoạ lãnh thỗ về phía tỉnh miền nam của Lafrasia bởi có một lượng lớn người dân tộc thiểu số người Andaria sống ớ đó. Tôn giáo và tình hình dân tộc là nguồn quan tâm gần đây. Dù nhà nước dân chủ, với hệ thống nhiều đảng phái, một số đảng phái nhỏ sẽ không thích chống đối. Chính phủ vẫn thích duy trì một lực lượng quân đội mạnh như là một hàng rào phòng thủ chống lại cả Andaria và các thế lực đe doạ trong nước. ĐIỀU KIỆN VĨ MÔ Đồng tiền của Lafrasia là đồng peso, đã được tái hình thành năm 1985; giá trị của đồng peso mới (bằng 100 peso cũ) đã được ấn định 3 peso 1 đô la. Tỷ giá hối đoái rớt xuống nhanh chóng là kết quả của lạm phát kéo dài, năm 1989 tỷ giá hối đoái là 7.5 peso 1 USD. Thu nhập bình quân đầu người 1989 là khoảng 750 USD, tương đương 5,625 peso. GD P thực tăng trung bình từ 3 đến 4 % 1 năm trong gần suốt thập niên 80, nhưng tỷ lệ sinh cao, đặc biệt là các vùng nông thôn. Do đó, thu nhập bình quân đầu người thực tăng ở tỷ lệ chỉ 1 phần trăm gần suốt thập niên 80. Lạm phát ước tính chính thức khoảng 22% vào năm 1988, xuống từ mức 41% năm 1985. Số liệu các khoản thu nhập quốc gia từ năm 1985 đến 1989 được cho ở bảng 1-2. Hầu hết các công chức nhận lương tăng chỉ khoảng 4%/1 năm từ 1985 đến 1989, vì vậy sức mua giảm do lương thấp. Thất nghiệp ước tính khoảng 20 phần trăm ở thành thị, mặc dù ước tính không đáng tin cậy. Thất nghiệp trá hình và nữa thất nghiêp ở nông thôn, được ghi nhận bởi tình trạng di cư lên thành thị. Trong khi nỗ lực để giải quyết vấn đề này, chính phủ đã thuê nhiều công nhân không có kỹ năng làm những việc không đòi hỏi kỹ năng, dù có ít việc cho họ làm. Bảng 1-2 Tài khoản thu nhập quốc gia, 1985 – 89 (million peso) Danh m ục GDP Consumption Chi tiêu chính phủ Chi tiêu vãng lai Chi tiêu xây dựng cơ bản Chi khu vực tư Xuất khẩu Nhập khẩu GDP bình quân đầu người Dân số (tri ệu) Tỷ lệ lạm phát (%) Tốc độ tăng GDP bq đầu người thực 1985 1986 1987 71,204 99,762 133,982 3,012 83,095 106,473 14,695 21,307 30,257 10,906 15,814 22,457 3,788 5,493 7,800 2,422 3,817 5,649 9,991 15,186 21,868 -18,916 -23,645 -30,266 1,959 2,691 3,509 36.3 37.1 38.2 41 36 30 0.5 1 0.3 1988 1989 177,373 225,132 136,758 164,997 41,755 57,621 30,990 42,767 10,764 14,854 6,597 9,903 30,396 39,516 -38,135 -46,906 4,545 5,625 39 40 28 22 1.2 1.5 1989 (US$) 30,018 22,000 7,683 5,702 1,980 1,320 5,269 -6,254 750 n.a n.a n.a PHẦN II: KHU VỰC CÔNG CHÍNH QUYỀN TRUNG ƯƠ NG Chính quyền trung ương bao gồm quốc hội, với 1 thủ tướng và 1 nội các, và 1 tổng thống đã được bầu để kết hợp vừa quản lý chung vừa làm những nhiệm vụ quan trọng khác. Chính quyền TW chịu trách nhiệm về mặt giáo dục ở tất cả các cấp (ngoại trừ xây dựng hệ thống trường tiểu học); Quốc phòng; Các bệnh viện và những trung tâm y tế; Các trường y; cơ sở hạ tầng; công an và hệ thống luật pháp; quan hệ quốc tế; những công viên công cộng và nhà bảo tàng; Ngân hàng TW; Hệ thống bảo hiểm xã hội; Sự giám sát của hệ thống ngân hàng và hệ thống kinh doanh; Nghiên cứu và mở rộng ngành nông nghiệp; và những quy định về nông nghiệp, công nghiệp và hệ thống tài chính. 5 trường ĐH công cộng, mỗi cái ở 1 tỉnh, được tài trợ bởi chính phủ. Ngoài ra cũng có những học viện kỹ thuật ở 1 số trung tâm của các tỉnh. Tất cả các trường trung học thì được tài trợ riêng. Chính quyền TW quản lý 1 số doanh nghiệp nhà nước (SOEs), kể cả sân bay và phương tiện vận chuyển hàng không, thành phố cảng, hệ thống năng lượng điện, hệ thống phân phối và xử lý nước, bưu điện, hệ thống xe bus, và vài nhà máy xi-măng. Trong vai trò đánh thuế chính, chính quyền TW giám sát việc thi hành thuế ở các chính quyền địa phương. CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠN G Các tỉnh không được quyền độc lập riêng; họ hoạt động như phân khu hành chính của chính quyền TW, chính quyền địa phương trong thành phố và làng xã chịu trách nhiệm trong việc phân phối nguồn nước, xử lý hệ thống nước thải và cống, rãnh, rác thải, dọn dẹp đường phố, thực thi luật pháp, chợ trời, xây dựng và duy trì hệ thống giáo dục.Khi mà nguồn quỹ được cung cấp cho các trung tâm sức khỏe địa phương không đồng đều, chính quyền địa phương thường phải bù đắp vào các lỗ hổng hay là hỗ trợ cho các dịch vụ cơ bản khác. Hội đồng địa phương nhận được phần lớn quỹ hỗ trợ từ chính phủ (khoảng 80%), con số này được bổ sung bởi các khoản thuế ít ỏi của địa phương cùng với 1 vài khoản phí và lệ phí (khoảng 15%). Những thành phố lớn hơn cung cấp hệ thống giao thông công cộng chủ yếu là xe bus và sửa sang các công viên thành phố. CHI PHÍ ĐIỀU HÀNH Các chi phí quản lý hỗn hợp của chính quyền TW và địa phương chiếm khoảng 19% GD P, chính quyền TW sử dụng 42,8 tỷ pesos một năm. Bao gồm cả những khoản chuyển giao cho chính quyền địa phương. Mặc dù những số liệu về tổng thu nhập và chi tiêu còn sơ xài, nhưng có những ước tính cho rằng tỉ lệ chi tiêu tại địa phương hàng năm khoảng 77 triệu pesos. Mức độ chi tiêu tổng hợp này còn khá thấp so với tiêu chuẩn trong khu vực là gần 20% GD P. Ước lượng sự phân bổ ngân qũy của chính phủ được liệt kê chi tiết trong từng khoản mục tại bảng 2-1. Bảng 2-1: Phân bổ ngân sách của Chính phủ năm 1988-1989 Chỉ tiêu Pesos (triệu) Tỷ trọng % Dịch vụ công tổng quát 9,759 22.4 Quốc phòng 8,725 20.4 Xã hội + Giáo dục + Y tế + Văn hóa Các dịch vụ XH khác Kinh tế + Nông nghiệp và các ngành liên quan + Cấp nước + Điện Vận tải và truyền thông + Vận tải hàng không + Chủ quyền cảng + Đường sắt và xe buýt + Truyền thông + Bảo trì đường xá Tổng cộng 12,702 6,843 3,207 513 2,138 11,761 769 29.7 16.0 7.5 1.2 5.0 27.5 1.8 609 6,116 2,267 642 427 385 470 342 42,767 6.1 14.3 5.3 1.5 1.0 0.9 1.1 0.8 100.0 CHI ĐẦU TƯ Những khoản đầu tư công cộng tại Lafrasia, bao gồm các dự án viện trợ tài chính là khoảng 7% GD P và chiếm 60% tổng vốn đầu tư của cả khu vực công lẫn khu vực tư nhân. M ặc dù con số này nghe có vẻ hợp lý, nhưng đã có những cuộc tranh luận đáng kể về nguồn quỹ hỗ trợ hiện tại giữa các khu vực và sự cân bằng thích hợp giữa đầu tư công cộng và đầu tư cá nhân. Việc khôi phục thành phố bị xao lãng, đặc biệt là trong các công trình công cộng như đường xá, trường học, tưới tiêu, thủy điện nhận được phần lớn sự đầu tư gần 43%, bởi vì thủ tướng đã cam kết sẽ mang điện tới từng hộ gia đình ở Lafrasian. Ở những lĩnh vực khác có sự ùn tắc về nhu cầu đầu tư. Không có báo cáo nào về sự đầu tư của chính quyền địa phương, nhưng có thể tin tưởng rằng hầu hết các quỹ hỗ trợ địa phương đều được đầu tư trực tiếp vào việc phục hồi hơn là đầu tư xây dựng mới. Việc ưu tiên cấp bách cho đầu tư lúc này là hỗ trợ cho chính quyền địa phương để xây dựng trường học, trung tâm sức khỏe,phục hồi đường xá, trồng cây cà phê, xây dựng đường xe lửa, phát triển hệ thống điện nước để phục vụ cho nhiều người hơn. Phục hồi các công trình công cộng và phát triển sân bay, cầu cảng. Nhiều dự án hiện nay được tài trợ bởi các nguồn quỹ bên ngoài. Vì thế cơ cấu của quỹ đầu tư công cộng được sắp xếp tài trợ. Bảng 2-2 cho thấy đánh giá việc sử dụng vốn trong khu vực công cộng trong năm 1988-1989, bao gồm những dự án tài trợ. Bảng 2-2: Chi đầu tư khu vực công, 1988-1989 Chỉ tiêu Pesos (triệu) Tỷ trọng % Dịch vụ công tổng quát 609 4.1 Quốc phòng 1,807 12.5 Xã hội 2,629 17.7 + Giáo dục 1,129 7.6 + Y tế + Văn hóa Các dịch vụ XH khác Kinh tế + Nông nghiệp + Cấp nước + Điện Vận tải và truyền thông + Vận tải hàng không + Cảng biển + Đường sắt và xe buýt + Bảo trì đường xá + Truyền thông Tổng cộng 921 82 297 9,760 59 1,322 6,299 2,080 520 327 297 787 149 14,854 6.2 1.9 2.0 65.7 0.4 8.9 42.4 14.0 3.5 2.2 2.0 5.3 1.1 100.0 CHI PHÍ VẬN HÀNH CÁC DỰ ÁN Khi những dự án mới như đường xá, các dự án năng lượng điện, trung tâm chăm sóc sức khỏe ở nông thôn, hệ thống cung cấp nước, đi đến giới hạn, Lafrasia phải chấp nhận gánh nặng trong chi phí quản lý và điều hành, bao gồm chi phí nhân lực, trang thiết bị. Bộ Tài Chính (dựa trên những nghiên cứu của tổ chức Phi Chính Phủ) đánh giá rằng cứ 100pesos của quỹ tài trợ đầu tư vào 1 dự án sẽ dẫn đến việc quay vòng chi phí ngân sách khoảng 25pesos mỗi năm cho việc điều hành và quản lý. Sự cảnh báo cho những gánh năng tài chính trong tương lai này đã dẫn đến sự miễn cưỡng phải nhận thêm những dự án tài chính trong nước. Q UẢN LÝ NGÂN SÁCH Việc quản lý các nguồn lực công là một quy trình kỹ thuật cao đòi hỏi cấu trúc thể chế có khả năng tốt và sự kết hợp nhiều kỹ năng của người thực hiện. Trọng tâm của quy trình này là hệ thống hoạch định và dự toán ngân sách, với sự kết hợp chặt chẽ của 3 yếu tố chính: Lập kế hoạch thực hiện và dự toán ngân sách phải phân chia các nguồn lực có giới hạn trong số các chương trình mang tính cạnh tranh theo cách phù hợp với các mục tiêu chung và chính sách vĩ mô Các khoản chi tiêu do các nhà hoạch định chính sách đưa ra phải nằm trong dự toán ngân sách và phải được trang trải cho các chương trình định sẵn. Các khoản tiền chi tiêu phải được ghi chép lại để giúp cho việc sử dụng các nguồn lực công được báo cáo đúng thời gian và thể hiện tính rõ ràng minh bạch. Ở Lafrasia, cơ chế lập kế hoạch ngân sách không theo cách thức như vậy. Nước này đang cố gắng kết hợp lập ngân sách 3 năm một, liên quan đến chương trình đầu tư công, nhưng những tranh cãi chủ yếu lại xảy ra giữa Ủy ban đầu tư, chịu trách nhiệm chuẩn bị chương trình chi đầu tư hàng năm và Bộ tài chính, chịu trách nhiệm tiến hành kế hoạch ngân sách định kỳ. Không có những chi phí không được công khai định kỳ trong trung hạn hoặc dài hạn của các chương trình đầu tư công được đưa vào sổ sách kế toán khi những dự án mới được bắt đầu chẳng hạn như theo tính toán cứ mỗi 100 pesos của một dự án thì có 25 pesos được sử dụng cho quá trình hoạt động và trợ cấp một năm. Việc thực thi ngân sách vài năm gần đây là quá trình tranh cãi giữa bộ tài chính và những nhà tài trợ để xác định các lĩnh vực chi tiêu. Mối liên hệ giữa hệ thống chính sách và dự toán ngân sách rất kém là do sự quan tâm của Bộ tài chính chủ yếu nhằm vào việc cắt giảm chi tiêu trong khi những nỗ lực của những nhà tài trợ là gia tăng sự kiểm soát của họ trong hoạt động đầu tư của ngân sách. Ngân sách hàng năm được lập theo nguyên tắc ngày càng tăng lên, và thông thường vào giữa năm, việc cắt giảm thông qua bộ được tiến hành nếu các khoản thu nhập từ thuế không thực hiện đủ theo kế hoạch. Kết quả là việc thực hiện chi tiêu cho các kế hoạch đã định (chẳng hạn như thực hiện dự án) thường bị chậm trễ. Hơn nữa, các dự án đầu tư công thường phải trải qua rất nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện do sự hạn chế về kỹ thuật và kỹ năng quản lý. CƠ S Ở HẠ TẦNG ĐÔ THỊ Ở Lafrasia sự di trú ra các thành phố là rất mạnh mẽ, đặt biệt là ra thủ đô. Phương tiện giao thông công cộng thì lại không tương thích và rất ọp ẹp. chỉ khoảng 60% dân số ở thành thị (và một tỷ lệ thấp hơn ở nông thôn) có cơ hội được cung cấp nước sạch, và hệ thống cung cấp nước đang rất tồi tệ và cần được sửa chữa. Việc khan hiếm nhà ở diễn ra thường xuyên trên cả nước và các khu nhà ổ chuột đang mọc lên xung quanh các thành phố lớn. M ột hậu quả của việc tập trung đông người, sự khan hiếm nước sạch là sự gia tăng hơn thường lệ các bệnh truyền nhiễm, là do sự thiếu vắng của các phương tiện chăm sóc sức khỏe công cộng ở thành thị. Các công trình công cộng, nhà bảo tàng, thư viện cũng cần được duy trì và khôi phục lại. ĐƯỜN G XÁ Quốc gia này có 2.600 dặm đường quốc lộ, 8600 dặm đường thứ cấp và khoảng 11000 miles đường phụ trợ, thường không được trải đá. Ngân sách thủ đô có các quỹ riêng dành cho việc xây dựng mới và phục hồi các tuyến đường chủ yếu nhưng để duy trì và phục hồi các tuyến đường phụ (khoảng 11.200 miles đường xấu và 11.000 miles đường phụ trợ) đòi hỏi một khoản ngân quỹ thực hiện là 342 triệu pesos, theo tỷ giá hiện tại là khoảng 45,6 triệu USD.Những quỹ này được sử dụng để trả lương cho người lao động, nhập khẩu nguyên vật liệu, phương tiện vận tải và máy móc thiết bị. Do có sự ùn tắc trong việc thực hiện các dự án, với mức độ chi tiêu này nghĩa là các con đường trung bình sẽ được sửa chữa 10 năm một lần, đối với đường quốc lộ là 5 năm một lần; các con đường phụ trợ và đường thứ cấp khoảng từ 6 đến 8 năm một lần. Những con đường phụ trợ thường không được rải đá nhưng nó có thể vẫn qua lại được nếu như những chiếc xe tải nặng nhất không thường xuyên đi qua. Tuy nhiên, việc bỏ mặc các con đường này suốt các mùa trong năm làm cho khoảng ba phần tư những con đường này không một loại phương tiện nào có thể qua lại được cho bất cứ loại phương tiện nào, trừ xe đạp. Các con đường chính cũng trong tình trạng tồi tệ cần được sửa lại mặt đường hoặc cần được phục hồi nhiều hơn nữa. Hai con đường chính, một nối liền thủ đô tới thành phố cảng Bahia Linda và một dẫn đến khu trang trại trồng mía và dừa đều có những đoạn đường vòng và đều trong tình trạng tồi tệ. Một số cây cầu phải giới hạn trọng tải qua cầu và cần được xây dựng lại hay ít nhất cần được gia cố lớn để có thể cho phép các xe tải lưu thông. Theo tính toán của Bộ Tài chính, chi phí cho việc phục hồi tất cả các con đường sẽ gấp khoảng 10 lần chi phí cho việc cung cấp sách giáo khoa cho tất cả học sinh ở tám cấp học trong hơn 10 năm tới. Mùa mưa đến tương đối trễ đã làm phức tạp thêm cho việc xây dựng các con đường bởi nó làm gián đoạn thời gian để bảo trì và sửa chữa đường xá. Q UẢN LÝ TÀI SẢN M ột vấn đề chủ yếu trong lĩnh vực quản lý đường xá là sự thiếu vắng của việc kiểm kê nhưng không chỉ lĩnh vực này mà các lĩnh vực khác cũng tương tự. Việc thiếu hụt các cơ quan quản lý tài sản đặc biệt là điều kiện quản lý và quy trình quản lý xảy ra ở tất cả các lĩnh vực. Ngoại trừ các tòa nhà của chính phủ và các bệnh viện ở trung ương được quản lý kê khai tốt còn hầu hết các tài sản công đều không được giám sát và lên kế hoạch tài trợ. VẤN ĐỀ CHI TIÊU NGÂN SÁCH TRUNG ƯƠNG Tiếp tục trì hoãn các khoản chi sẽ dẫn đến kết quả là sự hư hỏng đáng kể của toàn bộ cơ sở hạ tầng, đặc biệt là đường xá, hệ thống tưới tiêu và các tòa nhà của chính phủ. việc chi tiêu không đúng tiến độ sẽ dẫn đến sự ùn tắc các công trình, theo tính toán thiệt hại khoảng 2,5%GDP hay khoảng 9% tổng chi tiêu hàng năm của chính phủ. Việc thực hiện các dự án đã tụt lại khá xa so với kế hoạch, đòi hỏi phải có sự khôi phục mạnh mẽ hơn nữa. Vấn đề để bắt kịp tiến độ đối với việc ùn tắc các dự án không chỉ là cấp phát ngân sách mà còn cần quan tâm đến vấn đề quản lý. Kỹ thuật và nhân lực quản lý được đào tạo không thỏa đáng và các quy trình xây dựng ngân sách không nhận được bất cứ nhập liệu nào từ dự án hay các nhà quản lý doanh nghiệp nhà nước liệu có thể ước lượng đúng nhu cầu ngân quỹ cho hoạt động thường xuyên và đầu tư. Các xung đột thường nảy sinh trong quá trình giám sát các khoản chi vì phần lớn quỹ ngân sách đều tập trung từ chính quyền trung ương nhưng chịu trách nhiệm tiến hành các khoản chi lại được thực hiện ở cấp tỉnh và các cấp địa phương. SO S ÁNH CÁC MÔ HÌNH CHI TIÊU So với các nước khác trong khu vực, việc kết hợp chi tiêu của Lafrasia giữa ngân sách địa phương và trung ương cho sức khỏe và giáo dục phổ thông là khá thấp. M ặc dù sau 10 năm thực hiện quy chế dân chủ và duy trì mối quan hệ hữu nghị với các nước láng giềng nhưng chi tiêu cho quốc phòng vẫn còn duy trì ở mức cao. Việc trợ cấp cho các doanh nghiệp nhà nước và người lao động làm việc trong khu vực công làm kiệt quệ thêm ngân sách. Số liệu so sánh chi tiêu, sử dụng những công cụ so sánh tại các quốc gia láng giềng tương tự được đưa ra trong bảng 1-1 và bảng 23. THU NGÂN SÁCH Các khoản thu nội địa đã tăng khoảng 10% trong vài năm gần đây là do kết quả của các chính sách cải cách thuế. Cùng với các khoản viện trợ và các khoản vay nước ngoài được sử dụng cho các dự án trung ương, thâm hụt ngân sách đã giảm trong vòng năm năm từ 40% xuống còn khoảng 16% tổng chi tiêu (khoảng 3,7% GD P). Con số này cho thấy sự cải thiện hơn nhiều so với số liệu cách đây 5 năm, khi nền dân chủ vẫn còn phải khắc phục nhưng hậu quả của các chính sách sai lầm trong 30 năm qua, hướng đến sự hợp tác đa phương. Các lời khuyên của chuyên gia nước ngoài cũng như sự hỗ trợ về kỹ thuật, tài trợ ngân sách làm cho quá trình phân phối các nguồn lực hiệu quả hơn và làm giảm thâm hụt ngân sách. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề cần phải làm ở cả hai lĩnh vực thuế và chi tiêu công. Bảng 2-4 cung cấp tổng thể quy mô thu ngân sách năm 1989. CHI HO ẠT ĐỘN G VÀ TRỢ CẤP M ột vấn đề phụ nhưng đóng vai trò quan trọng trong việc phân phối liên quan đến nhiều khu vực khác nhau là chi cho việc duy trì hoạt động, đặc biệt là đường xá, các hoạt động xã hội và các DN NN . Các khoản phải trả cho các dịch vụ trong một số DNN N là khá thấp nhưng vẫn còn là gánh nặng cho những người nghèo. Các khoản phải trả cho dịch vụ chăm sóc sức khỏe vẫn còn khá thấp và thường không phải trả (đặc biệt là dịch vụ chữa bệnh cho công chức chính phủ thường không phải trả phí). Bộ Giáo dục đang xem xét kỹ lưỡng việc phân bổ chi phí cho giáo dục cho tất cả các cấp từ chính quyền trung ương, chính quyền địa phương, các nhà cung cấp dịch vụ giáo dục tư nhân cho đến sinh viên và gia đình họ, tuy nhiên Bộ vẫn chưa có bất cứ đề xuất nào. Thuế xăng dầu và phí đăng ký mô tô xe máy là các khoản chủ yếu được sử dụng cho việc duy tu bảo dưỡng đường xá nhưng các khoản thu này chỉ chiếm khoảng 60% các khoản chi duy tu bảo dưỡng, không đủ để duy trì cho các con đường này khỏi xuống cấp. Các khoản trợ cấp cho cây mía và chuyển giao công là những vấn để được đưa ra trong bảng. M ột số khoản trợ cấp cho các D NN N dẫn đến sự dư thừa lao động, những cơ quan này trở thành nơi tập trung của những người thất nghiệp với các kỹ năng hạn chế. Bảng 2-3 So sánh các khoản chi tính theo đầu người ở một số khu vực, Năm 1989 Đơn vị: USD Khoản mục Lafrasia Các quốc gia tương đồng 3.76 7.5 Chi duy trì hoạt động 1.14 3.15 Chi phục hồi/xây dựng mới 2.62 4.35 Lĩnh vực giáo dục 26.6 32.67 Chi xây dựng 3.76 10.25 Chi hoạt động 22.81 21.92 13.76 15.79 Lĩnh vực đường xá Lĩnh vực chăm sóc sức khỏe Bảng 2-4 Các khoản thu Ngân sách nhà nước 1988 -1989 Khoản mục Triệu pesos Tỷ lệ % 27,305 55.3 Thuế xuất khẩu 9,370 19.0 Thuế nhập khẩu 6,625 13.4 Thuế thu nhập 5,687 11.5 Các khoản thuế khác 5,623 11.4 8,904 18.0 672 1.4 Lĩnh vực điện lực 1,042 2.1 Lĩnh vực thông tin liên lạc 1,946 3.9 Lĩnh vực nước 1,762 3.6 Lĩnh vực giáo dục 322 0.7 Lĩnh vực sức khỏe 389 0.8 Các lĩnh vực khác 2,771 5.6 Các khoản viện trợ và vay nợ 12,150 24.6 Các khoản thu khác 1,023 2.1 Tổng thu ngân sách 49,383 100.00 Tổng chi ngân sách 57,622 116.7 Thâm hụt ngân sách -8,239 Thu từ thuế Phí và lệ phí Lĩnh vực giao thông TIỀN LƯƠ NG VÀ LAO ĐỘN G Ở KHU VỰC CÔ NG Thật khó xác định chính xác số lượng người lao động ở khu vực công ở Lafrasia bởi vì có một số lượng lớn người lao động tạm thời và không có cơ quan đăng ký kiểm soát việc trả công cho người lao động. Tuy nhiên, theo các tính toán sơ bộ cho thấy con số này xấp xỉ 1 triệu người, trừ những người làm việc trong quân đội, giáo dục và các DNNN . Số lượng người này chiếm khoảng 2,5% dân số và 6% số người trong độ tuổi lao động. Nếu tính cả số người làm việc trong quân đội, giáo dục và DNN N thì con số này tăng lên khoảng 1,8 triệu người, khoảng 11% dân số trong độ tuổi lao động, cao hơn 3% so với các quốc gia tương đồng. Sự gia tăng lực lượng lao động ở khu vực công xảy ra vào thời kỳ vào năm 1978 khi đó chính phủ muốn tiến ngay đến chế độ dân chủ và nỗ lực xây dựng sức mạnh tổng hợp để tiến đến chế độ mới. Với đất nước nghèo nàn, chủ yếu phụ thuộc vào nông nghiệp và nông thôn, số lượng người lao động ở khu vực công như vậy là rất cao. Việc dư thừa lao động làm cho mức sống của người dân ngày càng thấp hơn. Có rất nhiều người lao động ở khu vực công phục vụ như một phần của hệ thống dịch vụ dân sự để được nhận lương ví dụ như các tài xế và những người phục vụ trong các gia đình quan chức. CÁC ĐỀ XUẤT CẢI CÁCH Các định chế tài chính đa phương và các nước tài trợ đang gây áp lực buộc phải giảm tiền lương để làm giảm bớt gánh nặng cho ngân sách, nhưng các khoản cắt giảm phải tập trung vào tiền lương chứ không phải cắt giảm số người lao động. Với tỷ lệ là 10%, việc cắt giảm nhân viên trên mọi lĩnh vực đã bị trì hoãn nhưng các ý kiến phản đối cho rằng điều này sẽ dẫn đến việc một số lĩnh vực thiết yếu như giáo dục phổ thông, trung tâm chăm sóc sức khỏe và khuyến nông sẽ bị thiếu nhân viên, trong khi một số lĩnh vực khác vẫn còn tình trạng dư thừa lao động. Việc cắt giảm nhân viên đòi hỏi một sự nỗ lực hơn nữa của các công chức chứ không phải là giải pháp mang tính tạm thời. CÁC KỸ NĂNG VÀ ĐÀO TẠO Có rất nhiều người lao động tạm thời không có kỹ năng làm việc được thuê để làm giảm tình trạng thất nghiệp, nhưng hầu hết trong số họ có năng suất lao động thấp. Họ coi những khoản tiền lương thấp mà chính phủ trả cho họ như là khoản trợ cấp và phải làm thêm giờ vào ban đêm đông thời thường xuyên nghỉ việc. Không có sự giám sát khiến cho những người lao động dễ dàng làm việc thêm một công việc nữa. Ở đây có sự khan hiếm về nhân sự trong lĩnh vực quản lý (như các kế toán viên, nhà kinh tế và các nhà quản lý hành chính) và lĩnh vực kỹ thuật (như các kỹ sư, người lao động trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, thư ký và các giáo viên giỏi) kết hợp với sự thiếu hụt các phương tiện và chương trình đào tạo trong nước để phát triển các kỹ năng này. Rất nhiều người được đào tạo bài bản đã rời khỏi đất nước trong suốt thời kỳ chế độ độc tài quân sự và các điều kiện hiện tại chưa đủ hấp dẫn để thu hút họ quay về. Thêm vào đó, việc thiếu các khoản trợ cấp và máy móc thiết bị (như máy vi tính, máy đánh chữ, máy xử lý văn bản, thiết bị thông tin liên lạc và máy photo) làm hạn chế hiệu quả lao động của những người được đào tạo tốt. TIỀN CÔN G Những vấn đề về dịch vụ công càng trầm trọng hơn là do quy mô tiền lương đã không được xem xét đúng mức kể từ khi đất nước giành được độc lập.Tiền lương thực tế bị giảm xuống do tiền lương danh nghĩa phải chịu tác động của lạm phát. Đồng thời sự gia tăng đối với việc hưởng các bổng lộc (như nhà ở, xe hơi có tài xế riêng, du lịch nước ngoài) như là sự thay thế cho việc thanh toán các khoản lương đối với các quan chức cấp cao. Ngay cả khi được hưởng bổng lộc nhưng những người được giáo dục và đào tạo bài bản vẫn muốn tìm kiếm những cơ hội ở lĩnh vực tư nhân với sức hấp dẫn hơn về thu nhập và môi trường làm việc thoải mái. M ức lương trung bình hàng năm của một quan chức cấp cao chỉ khoảng 18,000 pesos (khoảng 200 USD/tháng). Cộng thêm các bổng lộc như nhà ở, xe hơi có tài xế riêng làm giảm đi phần nào nhưng tiền lương vẫn còn ở mức quá thấp để giữ những người thông minh, có năng lực, được đào tạo tốt làm việc trong các cơ quan nhà nước lâu dài. Với người lao động có trình độ thấp, tiền lương trung bình chỉ khoảng 3,000 -9,000 pesos một năm (khoảng 33$ - 100$ một tháng), còn những người lao động có trình độ cao được hưởng rất ít các khoản phúc lợi. Rất nhiều công chức có trình độ thấp phải kiếm thêm thu nhập bằng những công việc khác để có thể nuôi sống gia đình. Trong hoàn cảnh như vậy, thật dễ hiểu khi có rất nhiều công chức coi công việc chính của mình như là một việc làm thêm. CÁC VẤN ĐỀ VỀ Q UẢN LÝ Những người lao động làm việc trong khu vực công thường xuyên tiếp xúc với công chúng và bị mang tiếng là không nhiệt tình, không quan tâm tâm đến công việc nhưng đó chỉ là cách nhìn nhận đơn giản nhất của toàn thể công dân. Ngoại trừ một lĩnh vực đó là hệ thống bưu điện. Một người phụ nữ được đào tạo ở nước ngoài đã đưa ra sáng kiến nhằm khuyến khích và thưởng cho người lao động theo cách có hệ thống. Thành công của bà ấy mặc dù bị hạn chế bởi quỹ lương có giới hạn nhưng những nỗ lực trong việc bán các con tem kỷ niệm và các dịch vụ đặc biệt đã giúp bà ta tạo được những khoản ngân sách thêm được sử dụng để thưởng cho những người lao động có năng suất cao và tận tâm với công việc. Kết quả là số người vắng mặt không có lý do giảm đáng kể và doanh thu cũng tăng lên cao hơn so với các đại lý của nhà nước mặc dù hoạt động bà ấy bị thiếu hụt các p hương tiện và nguồn lực cho đào tạo. Nói chung, thật khó có thể kiểm soát các dịch vụ công một cách hiệu quả vì không có một cơ quan trung ương nào có thể liệt kê chi tiết từng công việc và xác định rõ từng mức lương, và không có một dây chuyền hoạt động nào đủ rành mạch để cho phép việc giám sát được thực hiện đầy đủ, cũng như không có một hệ thống đánh giá nào có thể kiểm soát việc gia tăng hiệu suất làm việc. Chính phủ đang cố gắng đưa ra một danh sách người lao động và trách nhiệm của họ, cùng lúc đó chính phủ đã cắt giảm lực lượng lao động ở khu vực công xuống còn 3% trong hai năm vừa qua. Rõ ràng là cần phải làm nhiều việc hơn nữa để đem lại hệ thống khu vực công hiệu quả ở Lafrasia. PHẦN III: CÁC LĨNH VỰC KINH TẾ: NÔN G NGHIỆP & CÔN G NGHIỆP Ở Lafrasia, 46% GDP là bắt nguồn từ nông nghiệp, lâm nghiệp và đánh bắt cá. 26% là công nghiệp (bao gồm công nghiệp mỏ); và 18% là hệ thống dịch vụ. Những sản phẩm xuất khẩu tài nguyên cơ bản chủ yếu là cây dừa, cây mía, & gỗ cứng vùng nhiệt đới. Toàn bộ cơ cấu xuất khẩu & nhập khẩu được trình bày chi tiết trong bảng 3-1. Xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ năm 1988 và 1989 Danh mục - Xuất khẩu + Hàng hóa . Dừa . Đường . Dược phẩm . Gỗ cứng vùng nhiệt đới . Loại khác + Những ngành dịch vụ - Nhập khẩu + Hàng hóa . Lương thực . Hàng tiêu dùng . Hàng hóa tư bản (Tư liệu SX) . Loại khác + Những ngành dịch vụ - Cán cân vãng lai - Cán cân vãng lai theo tỷ lệ % của GDP 1988 30,397 28,386 13,533 4,040 4,792 2,859 3,163 2,010 38,135 31,395 9,295 9,649 10,216 2,235 6,740 -7,738 4.4 Triệu peso 1989 39,516 37,429 18,796 4,589 5,860 3,386 4,798 2,087 46,906 38,441 10,380 13,084 12,195 2,782 8,465 -7,390 3.3 NÔN G NGHIỆP Nền kinh tế của Lafrasia chủ yếu vẫn dựa vào nông nghiệp. Nông nghiệp, lâm nghiệp, & đánh bắt cá ước tính khoảng 46% GD P và khoảng 60% tổng số công ăn việc làm. CÂY DỪA Cây dừa cung cấp khoảng 48% tổng thu nhập xuất khẩu, và thuế xuất khẩu dựa trên cây dừa là khoảng 30% thu nhập thuế của Chính phủ. Những chi phí sản xuất của cây dừa ở Lafrasian nằm trong số thấp nhất thế giới. Một cây trồng xuất khẩu ưu tú với mức doanh lợi cao tương đối, tuy nhiên cây dừa có thể không được bảo vệ với tình huống thị trường & điều kiện thời tiết không thuận lợi. Cây dừa cũng là một trong số ít cây trồng mà có thể được tăng trưởng vô số đáng kể ở vùng cao nguyên, và có lượng mưa với nước ngầm đầy đủ để phục vụ cây trồng, bởi vì nó không cần đến một địa hình bằng phẳng. So với nhiều cây trồng nông nghiệp khác, sản lượng dừa xuất khẩu không cần đến một số lượng đầu tư đáng kể vào công nghệ nông nghiệp, thủy lợi, hay là điện khí hóa. Tuy nhiên, những tuyến đường thứ cấp và những tuyến đường sắt thì trong điều kiện tồi tệ, vì thế nhu cầu cần phải có một hệ thống vận chuyển tốt hơn để đem cây dừa tiêu thụ và những phương tiện bảo quản lưu trữ phải được cải thiện và tốt hơn hết là đặt gần cảng. Cũng cần trồng nhiều cây hơn và cung cấp những dịch vụ mở rộng tốt hơn, nhưng vì ngân sách của Bộ Nông nghiệp có giới hạn, điều này có thể không tài trợ đầu tư mà cũng không cung cấp những dịch vụ hỗ trợ cho người trồng trọt dừa. CÂY MÍA. Cây mía là cây trồng có ưu thế hơn trong những vùng đồng bằng M iền Trung, nhưng nhu cầu của sản phẩm này đã giảm đi, vì có sự quan tâm dành cho loại cây trồng khác có nhiều lợi nhuận hơn. Năm ngoái, đường đã tinh chế chiếm khoảng 12% trong tổng thu nhập xuất khẩu. Việc phát triển ngành đường mía cho thị trường thế giới đã đòi hỏi một khoản đầu tư công thỏa đáng cho các công trình thủy lợi, thiết bị cơ giới hóa, những phương tiện tồn trữ và sự vận chuyển đến Thành Phố cảng để thuận tiện cho xuất khẩu. Những năm gần đây, chính quyền trung ương đầu tư mạnh vào việc khai thác hệ thống thủy lợi cho cây mía, phần lớn hiện nay là rất cần sự tu chỉnh. Với sự dồi dào thị trường đường thế giới, Lafrasia đã bị ép buộc không chỉ miễn thuế xuất khẩu cho đường mà còn trợ cấp việc xuất khẩu đường để chuyển nhượng thặng dư. NHỮNG SẢN PHẨM KHÁC Đóng góp nhỏ nhưng đáng kể là ngành công nghiệp gỗ cứng vùng nhiệt đới đóng góp khoảng 9% thu nhập xuất khẩu. Ngànnh công nghiệp này cần sử dụng nhiều năng lượng điện, nước và vận chuyển, và xe tải nặng thường xuyên chạy trên các con đường không được lát đá từ trong các khu rừng đến các quốc lộ chính dẫn đến Thành phố cảng cũng đã làm xấu thêm các con đường này. Quốc gia hiện nay đang nhập khẩu một số lượng thực phẩm đáng kể, bao gồm ngô, gạo, dầu, và những loại thực phẩm chế biến. Bộ Nông nghiệp khuyến khích người dân thay đổi từ cây mía sang việc chế tạo ngũ cốc, đặc biệt là nhiều loại sản lượng có lợi suất cao, nhưng thiếu sự mở rộng tài nguyên và hệ thống phân loại tín dụng nông nghiệp cần phải tạo điều kiện thuận lợi như là một sự luân phiên. Sự thiếu nhân viên kỹ thuật và chi phí đi lại đối với việc mở rộng những dịch vụ tạo nên rất khó khăn để phục vụ cho những người dân mà họ quan tâm thực nghiệm bằng những tính chất và phương pháp mới. NHỮNG ƯU THẾ TRO NG NÔNG NGHIỆP Cùng với việc gia tăng ngành sản xuất ngũ cốc, Bộ Nông nghiệp xem xét khả năng rất cao trong việc quay trở lại đầu tư những ngành công nghiệp hướng vào xuất khẩu hiện nay. Ngành công nghiệp dừa có tiềm năng phát triển những ngành gia công và chế biến thành phẩm cuối cùng, để tạo ra những công việc có thu nhập cao hơn và thu nhập xuất khẩu nhiều hơn. Tuy nhiên, sự phát triển như vậy đòi hỏi tăng thêm chi tiêu công cho bảo trì và sự khôi phục của những con đường và những tuyến đường sắt, cũng như tăng thêm chi phí điều hành cho việc hỗ trợ kỹ thuật. Ngành công nghiệp trồng dừa trước mắt cũng cần đến một chương trình trồng cây mới để giữ vững được mức thu nhập trong tương lai. Hiện tại, tất cả chương trình nông nghiệp, chính phủ phân phối chỉ 828 triệu peso, hoặc khoảng 2% từ ngân sách, mặc dù vai trò chính của nông nghiệp trong GDP là xuất khẩu và việc làm. Chi phí chủ yếu trong lĩnh vực này là những khoản tiền trợ cấp cho cây mía, mở rộng hệ thống thủy lợi, nghiên cứu và phát triển ngành nông nghiệp, chương trình trồng mới cây dừa, và những phương tiện bảo quản lưu trữ. Trong quá trình hoạt động và duy tu bảo dưỡng, những người làm công tác nghiên cứu và phát triển nông nghiệp hầu như không nhận được tiền trợ cấp hoặc chi phí đi lại, và tình trạng tồi tệ của những tuyến đường thứ cấp càng làm khó khăn cho việc đưa sản phẩm cây trồng thị trường tiêu thụ. CÔN G NGHIỆP Hai công ty đa quốc gia đã thành lập những xưởng lắp ráp điện tử ở Lafrasia trong 5 năm qua. Những ngành công nghiệp có quy mô lớn khác bao gồm dệt may, lắp ráp tự động, hóa chất, giấy, thức uống đóng chai và xi măng. Ngành xi măng đang bị thua lỗ; giá trợ cấp chính phủ khoảng 150 triệu peso một năm. Với tiền trợ cấp so với thị trường bảo hộ một phần, giá xi măng sản xuất trong nước cao hơn giá thế giới, bảo đảm sự tồn tại của ngành công nghiệp. Có một ngành công nghiệp chế tạo xe đạp được bảo hộ vừa và nhỏ, điều này chủ yếu là p hục vụ những nhu cầu trong nước. Gần đây, một nhà chế tạo nước ngoài thiết lập xưởng lắp ráp điện tử trong một khu vực mậu dịch tự do mới tạo nên. M ột vài những công ty nhỏ, hầu hết là những công ty có vốn sở hữu nước ngoài và những công ty liên doanh chế biến (gia công) gỗ cứng vùng nhiệt đới để bán tại những nước công nghiệp thay cho việc sử dụng ngành xây dựng giá cao. Ngành công nghiệp xuất khẩu chính yếu là dệt may, bộ phận xe hơi, hóa chất và công nghiệp điện tử (lắp ráp địa phương từ những linh kiện nhập khẩu). PHẦN IV: KHU VỰC XÃ HỘI : GIÁO DỤC VÀ Y TẾ GIÁO DỤC Giáo dục công nhận được khoảng 16% ngân sách điều hành của Chính phủ và một khoảng phụ thêm từ địa phương. Hầu hết chi tiêu của địa phương là dành cho việc xây dựng trường tiểu học hoặc bổ sung cho quỹ tiền trợ cấp không thỏa đáng của Chính phủ. Khu vực tư nhân đóng một vai trò đáng kể trong giáo dục ở mọi cấp học. Bảng số liệu 4-1 cho thấy sự phân bố số lượng học sinh ở các cấp giữa trường học công lập và dân lập. Mức chi tiêu cho một học sinh trong nhóm các quốc gia ngang hàng là 2.218USD cho giáo dục bậc cao từ TH trở lên, 327USD cho trung học và 243USD cho tiểu học. tỷ lệ học sinh theo học ở trường tư cũng tăng lên, đặc biệt là khối tiểu học và trung học. Mười năm qua, khối trường tư đạt 17% số học sinh tiểu học và 25% học sinh trung học. Bộ giáo dục nhận thấy sự thay đổi con số ở các trường tư là phản hồi từ sự thiếu hụt giáo viên về số và chất lượng cũng như sự thiếu thỏa đáng về sách và các trợ cấp ở các trường công lập. Bảng 4-1: Phân bổ học sinh trong ngành Giáo dục, năm 1988 Chỉ tiêu Trên trung học - Trường công - Trường tư Trung học - Trường công - Trường tư Tiểu học - Trường công - Trường tư GD người lớn Các cấp - Trường công - Trường tư Số học sinh (1.000) 115 77 38 687 458 229 4,800 2,894 1,106 126 5,728 3,426 1,376 Tỷ lệ tuyển 2.0 67 33 14 57 43 81.8 73 27 2.2 100 71 29 CHI TIÊU GIÁO DỤC Tổng chi tiêu cho Giáo dục ở Lafrasia là rất thấp nếu so với các quốc gia khác. Bảng 4-2 cung cấp số liệu cơ bản về chi tiêu của Chính phủ cho giáo dục theo từng cấp. Bảng 4-2: Phân bổ chi tiêu cho mỗi học sinh , năm 1988 Chỉ tiêu Trên trung học Trung học Tiểu học Người lớn Chi tiêu cho mỗi học sinh (USD) 3,287 525 143 43 Tỷ lệ 27.7 26.3 45.1 0.06 Giáo dục trên trung học Chỉ có 1/6 học sinh tốt nghiệp trung học sẽ theo học tiếp ở trường trung học, mặc dù theo học cao hơn sẽ nhận được một phần kinh phí từ ngân sách. Sẽ phải làm một bài kiểm tra đầu vào, và chỉ có học sinh của trường dân lập và các trường công tốt hơn được chấp nhận. Học phí rất thấp (75 pesos mỗi khoá) và học sinh nhận được trợ cấp tiền ăn từ một phần lớn ngân sách nhà nước. Nhu cầu về y tá, giáo viên và những người quản lý có tay nghề ở cả khu vực tư và công là rất lớn, nhưng chỗ ở trong trường đại học thì quá hạn chế không thể đáp ứng đủ cho nhu cầu của SV. Bậc giáo dục này vẫn còn thiếu trang thiết bị giảng dạy, đặc biệt là các chương trình khoa học kỹ thuật. ở bậc giáo dục dạy nghề, tình hình còn xấu hơn. Ở mỗi tỉnh có một trường dạy nghề của chính phủ . Tuy nhiên, tất cả trường này đều thiếu nhân viên, thiếu tiền tài trợ , quá tải và sử dụng những thiết bị không đồng bộ và lỗi thời. Hầu hết các trường kỹ thuật và dạy nghề là trường tư và rất đắt. Bởi vì hầu hết sinh viên học các trường đại học công lập thì theo đuổi các ngành khoa học xã hội hơn là các ngành Khoa học kỹ thuật hoặc các môn Khoa học định hướng quản lý, các trường tư này chiếm ưu thế troong việc cung cấp các kỹ năng đặc biệt sẽ được áp dụng ở cả khu vực tư lẫn công. Trong 5 trường đại học công, lương cho giáo sư đang bị giảm dần, và số lượng các nhà quản lý đang tăng lên đã làm hạn chế số tiền kinh phí rót cho bảo trì, trang thiết bị và dụng cụ thí nghiệm. Giáo Dục trung học Các trường trung học chỉ tập trung ở những thành phố và thị trấn lớn. Học sinh được miễn học phí và còn được trợ cấp tiến ăn giống như trên đại học và tương tự, cũng không có đủ chỗ ở cho học sinh. Đầu vào cũng phải cạnh tranh, nhưng học sinh từ những gia đình giàu có vẫn có cách để được vào học. Có 1 số trường trung học được điều hành bởi tổ chức tôn giáo và những tổ chức phi chính phủ khác, các trường này cung cấp cơ hội cho học sinh từ các tỉnh lẻ không có điều kiện được vào trường công lập. Hội phụ huynh học sinh và các tổ chức xã hội phải đóng góp, trợ cấp để trang bị dụng cụ học tập cho học sinh. Học sinh con nhà nghèo không thể theo học lên trung học vì cha mẹ không có khả năng đóng góp tiền chi phí học tập cho nhà trường. Giáo dục tiểu học Tiểu học được miễn phí và trường tiểu học có mặt khắp mọi nơi trừ những làng xã nhỏ nhất. Hầu như tất cả trẻ em tới truờng khi lên 6 nhưng chỉ có 40% theo học hết chương trình của 8 năm tiểu học. Rất nhiều học sinh lưu ban hoặc có kết quả yếu kém. Có quá nhiều giáo viên trình độ thấp cũng như thiếu hụt về sách và đồ dùng giảng dạy làm cho một phần học sinh tiểu học có 1 sự hiểu biết hạn chế. Người ta cần giáo viên được đào tạo, cơ sở vật chất, trang thiết bị và những khoá học mở rộng trước khi đến trường cho học sinh. Trường tiểu học thường xuyên bị quá tải, vẫn được xây dựng kiên cố và duy trì bởi chính quyền địa phương với sự hỗ trợ của hội phụ huynh học sinh và các tổ chức cộng đồng xã hội. Các trường tiểu học thường xuyên bi thiếu nguồn trợ cấp. Trong khi các tổ chức phi chính phủ và hội phụ huynh học sinh đang nỗ lực xóa bỏ các khoảng cách, các lỗ hổng trong cộng đồng, thì áp lực phải cung cấp sự hỗ trợ cho nhà trường đè lên vai phụ huynh học sinh, con của những gia đình nghèo sẽ không bỏ học. Với việc phải cạnh tranh khốc liệt để được vào học trung học, học sinh cần phải có sự nỗ lực hơn nữa để chuẩn bị cho các bài thi đầu vào các cấp, và chuẩn bị cho đầu ra chỉ một số ít các học sinh có khả năng mới ra trường được. Các trường học do tôn giáo mở ra dường như đã làm tốt công việc chuẩn bị cho học sinh bao gồm cả những học sinh bị rớt ở những kỳ thi hết cấp tiểu học và những học sinh sắp thi vào trung học, đại học, bởi vì các trường này nhận được hỗ trợ mạnh mẽ từ bên ngoài. Giáo dục cho người lớn Cũng cần có chương trình giáo dục cho người lớn để dạy họ về văn hóa, chăm sóc sức khỏe và kỹ thuật trồng trọt. 27% dân số trong độ tuổi trưởng thành bị mù chữ. Giáo dục các kiến thức căn bản cho người lớn là trách nhiệm của Chính phủ, nhưng nguồn kinh phí cho các chương trình này hiện nay đang thiếu hụt trầm trọng. Các tổ chức phi chính phủ đang lấp lỗ hổng này ở một số khu vực nhưng vẫn có tình trạng các chương trình phổ cập văn hóa không đến được với một phần khá đông dân số trưởng thành bị thất học. CHĂM SÓ C S ỨC KHỎ E Ở lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, các vấn đề quan trọng gồm cung cấp dịch vụ y tế cho hầu hết các làng xã xa xôi và việc phân bổ hợp lý các nguồn lực giữa chăm sóc cơ bản (như là về dinh dưỡng, miễn dịch, chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, và các dạng tương tự) và các dịch vụ đặc biệt khác, bao gồm bệnh viện và chăm sóc dài hạn. Một vấn đề nữa đó là làm thế nào để quản lý chi phí khi cung cấp dịch vụ y tế cho người nghèo. Tiền trợ cấp hiện tại dường như có lợi cho tầng lớp dân cư trung và thượng lưu từ việc lấy chi phí cung cấp dịch vụ chăm sóc cơ bản cho người nghèo. Bệnh viện ở các thành phố lớn được trang bị tốt và hiện đại; bệnh viện được trợ cấp nhưng các giường nằm được phân theo thứ hạng. Có một số phòng khám cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cơ bản như chăm sóc sức khỏe sản phụ và trẻ em ở nông thôn và các khu ngoại vi nghèo, nhưng hầu hết đều bị thiếu hụt (thiếu thuốc, vắc-xin và thiếu các thiết bị y tế khẩn cấp thường ngày) và luôn thiếu nhân sự. Cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe Cũng giống như giáo dục, lĩnh vực y tế cũng có hệ thống 2 khu vực công và tư cùng tồn tại song song với nhau. Khu vực tư bao gồm hai dạng riêng biệt: dạng khám chữa bệnh dịch vụ với các chuyên gia và đội ngũ thực hiện có chất lượng cao hướng đến khách hàng là các bệnh nhân tiềm năng; và một dạng chương trình được tài trợ bởi các tổ chức phi chính phủ và các nguồn tài trợ từ bên ngoài thì tập trung vào thực hiện các dịch vụ cơ bản (dinh dưỡng, chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, sinh sản và miễn dịch) dành cho bệnh nhân ở nông thôn. Còn khu vực công cung cấp dịch vụ ở hầu hết các bệnh viện và trung tâm y tế. (Có hai bệnh viện tư, một ở thủ đô và một ở Bahia Linda). Rất nhiều công dân ở nông thôn sống quá xa các trung tâm y tế thì họ phải dựa vào các phương pháp chữa trị truyền thống hoặc sẽ phải
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan