Bộ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Dược HÀ NỘI
NGHIÊN CỨU
CẢI TIẾN PHƯƠNG PHÁP
BÁN TỔNG HỢP
ACID ARTELINIC
(KHOÁ LUẬN TỐT iNGHIỆP Dược SỸ ĐẠI HỌC KHOÁ 1995-2000)
N sười thực hiện:
N guyễn T h ị Thảo
Người hướng dẫn: P G S.T SK H . P h a n Đ ìn h C hâu
D S. T hái N g u yễn H ù n g T h u
Nơi thực hiện:
B M . C ông nghiệp dược
Thời gian thực hiện:
3-5.2000
HÀ NỘI - 5.2000
// '
/
'
LỜI CẢM ƠN
Được sự giúp đỡ của các thầy cô giáo cùng với sự cố gắng, nỗ lực
của bản thân tôi đã hoàn thành khoá luận tốt nghiệp đúng thời hạn.
Tôi xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới thầy giáo
PGS.TSKH.Phan Đình Châu, DS.Thái Nguyễn Hùng Thu đã tận tình
hướng dẫn , giúp đỡ tôi hoàn thành khoẩ ỉuận tốt nghiệp.
Nhân dịp này tôi cũng xin bày tỏ lòng cẩm ơn tới các thầy cô giáo
trong bộ môn Công nghiệp Dược và bộ môn Tin học đã tạo mọi điêu kiện
thuận lợi giúp tôi hoàn thành khoá luận tốt nghiệp đúng thời hạn.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong
trường đã cung cấp cho tôi những kiến thức cơ bản giúp tôi hoàn thành
khoá luận tốt nghiệp này.
Hà nội, ngày 20-05-2000
Sinh viên Nguyễn Thị Thảo
MỤC LỤC
■
■
Phần I - Đặt vấn đề
Phần II - Tổng quan
2.1. Các phản ứng hóa học của artemisinin:
2.2. Các dẫn chất bán tổng hợp của artemisinin.
2.2.1. Liên quan giữa cấu trúc và tác dụng dược lý:
2.2.2. Bán tổng họp các dẫn chất của artemisinin
Trans
1
3
3
5
5
6
Phần III - Thực nghiệm và kết quả
3.1. Nguyên vật liệu và phương pháp nghiên cứu
3.1.1. Nguyên vật liệu và dụng cụ:
3.1.2. Phương pháp nghiên cứu:
3.2. Thực nghiệm
3.2.1. Điều chế dihydroartemisinin:
3.2.2. Cải tiến phương pháp bán tổng họp acid artelinic.
3.2.3. Khảo sát ảnh hưởng của dung môi xúc tác đến phản ứng
ete hóa
15
15
15
15
17
17
17
22
Phần IV- Kết luận
26
Tài liệu tham khảo
27
PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỂ
Trong những năm gần đây, artemisinin hoạt chất chính của cây
thanh cao hoa vàng được các nhà nghiên cứu và sản xuất dược phẩm của
nhiều nước trên thế giới đặc biệt quan tâm bởi hoạt chất trị bệnh sốt rét
của nó. Thuốc này vừa ít độc vừa có tác dụng đặc trị với ký sinh trùng sốt
rét p.falciparum và p.vivax. Thuốc có công hiệu tốt trong các trường hợp
ký sinh trùng đã kháng lại các thuốc sốt rét tổng hợp hiện đang dùng như:
cloroquin, meũoquin, fancidar.... Qua kinh nghiệm của hàng chục năm
nghiên cứu và sử dụng artemisinin trong điều trị sốt rét, nhiều chuyên gia
nhận định có thể đây là nhóm hợp chất đang có nhiều triển vọng trong
điều trị sốt rét-căn bệnh mang tính chất toàn cầu - và một số bệnh khác
vào những thập niên đầu của thế kỷ XXI.
Tuy nhiên do khả năng hòa tan ít cả trong nước và trong dầu của
artemisinin cũng như liều dùng và tỷ lệ tái phát sau khi dùng còn cao mà
khả năng sử dụng của nó còn phần nào hạn chế. Vì vậy các nhà khoa học
của nhiều nước trên thế giới đã nghiên cứu bán tổng hợp ra những hợp
chất mới nhằm sàng lọc tìm ra những hoạt chất mới có hiệu lực cao hơn,
đặc tính điều trị tốt hơn artemisinin để đưa vào phục vụ cho điều trị. Kết
quả nhiều hợp chất mới đã trở thành thuốc như: artesunat, artemether,
arteether. Nhiều hợp chất khác đang được thử nghiệm trên động vật cũng
như trên lâm sàng, trong số đó có acid artelinic - một dẫn xuất ,của
dihydroartemisinin - vừa có hiệu lực mạnh hơn artemisinin, vừa có khả
năng hòa tan được trong nước lại vừa tương đối bền vững trong dung dịch
kiềm yếu. Kết quả bước đầu cho thấy hoạt chất này rất có triển vọng trong
chống tái phát trên động vật thực nghiệm [6].
Acid artelinic được AJ.Lin [18] bán tổng hợp ra và thử trên kv
sinh trùng sốt rét vào năm 1987. Quá trình bán tổng hợp này được xuất
phát từ artemisinin qua ba bước phản ứng với hiệu suất tổng hợp là
36,72% (75%, 89% và 55%). Hiệu suất đang còn hơi thấp do đó chúng tôi
đặt vấn đề nghiên cứu cải tiến phương pháp bán tổng hợp acid artelinic
nhằm nâng cao hiệu suất của quá trình điều chế.
Khoá luận này được thực hiện nhằm giải quyết các vấn đề sau:
o Nghiên cứu cải tiến phương pháp nhằm đơn giản hoá quá trình điều
chế acỉd artelỉnỉc và nâng cao hiệu suất.
© Khảo sát sơ bộ ảnh hưởng của xúc tác và dung môi trên cơ sở
phương pháp cải tiến này.
PH ẦN II
TỐNG QUAN
2.1. CÁC PHẢN ÚNG HÓA HỌC CỦA ARTEMISININ:
Qinghaosu (artemisinin) là lacton sesquitecpen, có chứa liên kết
peroxid (-0-0-) là mối liên kết tương đối dễ bị phá huỷ. Dưới ảnh hưởng
của các tác nhân hoá học artemisinin dễ bị biến đổi thành nhiều hợp chất
khác nhau mà cấu trúc của đa số các hợp chất này đều khác hẳn với khung
cơ bản ban đầu của nó.
Khi hydro hoá artemisinin (1) với hydrogen có xúc tác Pd/CaC03
thì làm mất một nguyên tử oxy của liên kết peroxyd trong phân tử cho ta
deoxyartemisinin (2) [22].
o
0
1
2
Khi thực hiện việc khử hoá artemisinin với LĨA1H4 ta nhận được hai
hợp chất 3 và 4 là những sản phẩm do khung cơ bản của qinghaosu bị phá
huỷ [29].
3
4
- 3-
Khi khử hoá artemisinin bằnc NaBH4 trong dung môi methanol cho
ta dihydroartemisinin( 5) nó là dạng bán acetal [12].
H
ch3
H
CH:
ÓH
Ó
1
5
Khi khuấy artemisinin với hỗn hợp dung dịch acid sulíuric 10% và
acid acetic băng ở nhiệt độ phòng khoảng 1 giờ ta nhận được hợp chất 6
có cấu trúc hoàn toàn khác hẳn với Qinghaosu trong đó liên kết peroxyd
và nhóm formaldehyd bị mất hẳn [15].
CH 3
ch3
Ồ
1
o
6
Qinghaosu tác dụng với kali carbonat trong methanol ở nhiệt độ
phòng cho ta hợp chất 7 và 8, còn trong dung dịch cồn etylic của KOH ta
nhận được hợp chất 9 [26]. Trong dung dịch NaOH loãng artemisinin bị
mở vòng lacton để tạo thành hợp chất 10 [16]. Chất này có đỉnh hấp phụ
đặc trưng trong phổ tử ngoại là 292 nm. Đây cũng là cơ sở cho phép định
lượng Qinghaosu bằng đo phổ tử ngoại.
Khi hồi lưu artemisinin trong xylen dưới thời gian dài (22 g iờ ) một
phần Qinghaosu (15%) bị biến đổi thành acetat 11 và bán acetal 12 [23].
Dưới tác dụng của nhiệt độ (200°C) trong vòng 2,5 phút Qinghaosu bị
biến đổi thành các chất 11,13,14 [19].
CH,
;
CH,
12
14
2.2. CÁC DẪN CHẤT BÁN TổNG HỢP CỦA ARTEMISININ.
2.2.1. Liên quan giữa cấu trúc và tác dụng dược lý:
Mặc dù artemisinin có tác dụng tốt tới ký sinh trùng p.falciparum
và p.vivax, hầu như không độc với người dùng nhưng do nhược điểm tỷ lệ
tái phát còn cao và khả năng hòa tan rất ít cả trong nước lẫn trong dầu của
nó, nên tác dụng điều trị còn bị hạn chế. Để hoàn thiện khả năng điều trị
của artemisinin người ta đã bán tổng hợp và tổng họp ra hàng loạt các dẫn
chất khác nhau và đưa thử lâm sàng. Qua thực tế thử dược lý, lâm sàng
của những chất tổng hợp, bán tổng hợp được cũng như những thành phần
khác chiết được từ cây thanh hao hoa vàng người ta thấy rằng: Sự hiện
diện của liên kết peroxyd (-0-0-) trong bộ khung có liên kết mật thiết đến
tác dụng trị sốt rét, thiếu nó hợp chất không còn tác dụng cắt cơn sốt nữa
(Ví dụ dạng deoxy và vòng lacton trong phân tử artemisinin bị mở thì hợp
chất cũng mất tác dụng đối vói ký sinh trùng sốt rét.
2.2.2. Bán tổng hợp các dẫn chất của artemisinin
Để khắc phục nhược điểm của artemisinin là khả năng hòa tan kém
cả trong nước lẫn trong dầu của nó, cũng như làm giảm khả năng tái phát
và tăng hiệu lực điều trị người ta đã bán tổng hợp ra hàng loạt các dẫn chất
khác nhau mang trong mình nhóm háo nước, háo dầu từ artemisinin. Với
xu hướng này người ta đã tạo ra một khối lượng khá lớn dẫn xuất của
artemisinin, sàng lọc để tìm ra thuốc mới. Trong số
các thuốc
mớinày
phải kể đến các hợp chất thuộc dẫn chất của dihydroartemisinin (5) là
artesunat, artemether, arteether đặc biệt là acid artelinic. Vì đây là chất
vừa hòa tan được trong nước dưới dạng muối, vừa bền vững trong dung
dịch kiềm nên có thể làm thuốc tiêm và theo các nhà khoa học thì đây là
chất có nhiều hứa hẹn trong điều trị.
2.2.2.I. Bán tổng hợp dỉhydroartemisinin (DHA):
Hợp chất đầu tiên tìm thấy có tác dụng dược lý mạnh gấp 2 lần so
với artemisinin là dihydroartemisinin (5). Dihydroartemisinin là sản phẩm
khử hoá artemisinin. Để khử hoá chọn lọc nhóm c o lacton của
artemisinin ( 1 ) thành bán acetal là dihydroartemisinin, người ta đã thử rất
nhiều phương pháp khác nhau nhưng cho tới nay phương pháp có hiệu quả
nhất vẫn là phương pháp dùng tác nhân NaBH4 trong methanol ở điều kiện
nhiệt độ thấp (0-5°C) [3, 16, 18, 26].
1
5
Trên cơ sở này, một số nhà khoa học trên thế giới đã điều chế DHA,
sau đó tinh chế thu được hỗn hợp đồng phân a và Ị3 của DHA với hiệu
suất đạt được khoảng 75-79% [ 18].
Tại Việt Nam, một số nhà khoa học đã nghiên cứu cải tiến quá trình
hydro hoá cùng với nguyên tắc nêu trên nhằm giảm chất khử và dung môi
xuống mà vẫn thu được hiệu suất cao. Phạm Hoàng Ngọc và cộng sự. đã
giảm lượng dung môi và thu được hiệu suất 79% [4]. Phan Đình Châu và
cộng sự với việc cho thêm chất làm tăng hoạt lực của NaBH4 đã giảm
lượng dung môi và tác nhân khử NaBH4 xuống một mức đáng kể và đưa
hiệu suất quá trình điều chế DHA lên tới 92-95% [3].
Do DHA cũng có đặc tính là ít tan trong nước, trong dầu nên việc
sử dụng vẫn còn bị hạn chế. Vì vậy cần phải đưa vào phân tử DHA một
nhóm làm tăng khả năng hoà tan trong nước hoặc trong dầu. Chính vì thế
từ DHA với việc thay thế hydro của nhóm OH bán acetal bằng những gốc
khác nhau, người ta đã tổng hợp ra nhiều dẫn chất mới có khả năng hoà
tan trong dầu hoặc trong nước tốt hơn để thử dược lý lâm sàng và kết quả
đã thu được nhiều thuốc mới có tác dụng tốt hơn cả artemisinin lẫn DHA.
Các dẫn chất mới này thuộc dẫn chất dạng ete và este của DHA.
22.2.2. Bán tổng hơp các ete của DHA:
Phương pháp thông thường đế tổna hợp các dẫn chất ete của DHA
là người ta cho DHA tác dụng với alcol tươns ứns với sự có mặt của chất
xúc tác đặc hiệu là triflorboro eterat BF30(C^H5)^ [17].
ÕR
ỚH
15
5
(Các ete của DHA
Trong đó gốc R có thể là alkyl, alkenyl, arakyl, aryl,..
Các sản phẩm của quá trình ete hoá trong điều kiện như thế này bao
giờ cũne là một hỗn hợp đổng phân a và p, trong đó đổng phân p chiếm
tỷ lệ ưu thế (50-70%). Với phươns pháp thồng dụng này, nsười ta đã điều
chế ra rất nhiều ete của DHA.
Nói chung các ete của DHA tổng hợp được đều có tác dụng trên ký
sinh trùng sốt rét tốt hơn DHA hoặc artemisinin. Trong số các ete này có
hai chất đã được đưa vào sử dụng trong điều trị là đồng phân p của metyl
ete (artemether) và etyl ete (arteether).
ở Việt Nam, nhóm nghiên cứu của Trường Đại học Dược cũng đã
nghiên cứu bán tổng hợp được artemether, arteether và một số ete khác [ 1,
2,5].
Khi cho hai phân tử DHA ngưng tụ với slicol trong sự có mặt cua
BF3.0(C2H5)9 tha được một sản phẩm bis-DHA 16. Chất này cũng có tác
dụnìi trên ký sinh trùng sốt rét 114].
- 8-
16
Khi cho DHA tác dụng với tác nhân loại nước không đặc hiệu, sản
phẩm mất nước nội phân tử 17 và sản phẩm loại nước giữa 2 phân tử với
nhau 18 được hình thành. Trong đó chất 17 không có tác dụng trên chuột
nhiễm ký sinh trùng p.berghei. Nhưng nếu nối đôi trong phân tử 17 được
bão hoà bằng cách hydro hoá thì ta nhận được chất deoxyartemisinin 19
có hoạt tính tốt hon, tác dụng trị sốt rét kéo dài hơn dihydroartemisinin
[13,24].
22.2.3. Bán tổng hợp các este của DHA
Để nhận được các este, thông thường người ta cho DHA tác dụng
với các clorua acid hay anhydrid acid hoặc acid cacboxilic tương ứng
trong sự có mặt của xúc tác [17].
-
9
-
(Các este của DHA)
X=C1, acyl, OH
R= aryl, ankyl, arakyl
Xúc tác có thể là amin bậc ba, 4-dimetylaminopyridin (4-DMAP)
hoặc chất ngưng tụ dicyclohexyl carbodiimid tùy thuộc tác nhân axyl hóa.
Các este được tổng hợp ra đều có tác dụng cắt cơn sốt rét tốt hơn
DHA trên động vật thử nghiệm. Đặc biệt trong số đó có bán este của
succinyl với DHA là acid DHA-lOa- hemisucinic hay còn gọi là acid
artesunic (X=CHtCH2-COOH) có tác dụng trên lâm sàng rất tốt và trở
thành một trong những thuốc sốt rét có công hiệu hiện nay. Artesunat
natri có hiệu lực mạnh hơn artemisinin 5,2 lần. Thuốc có tác dụng trên cả
KST kháng cloroquin, meíloquin, fansidar lẫn trường hợp mẫn cảm với
clorquin, có độc tính thấp. Người ta thấy rằng sau khi tiêm vào cơ thể
khoảng 10 phút artesunat natri bị phàn hủy thành DHA và sau đó tiếp tục
chuyển hóa.
ở nước ta, Phan Đình Châu và cộng sự [3] đã xây dựng qui trình
điều chế artesunat với hiệu xuất 85-96% đi từ DHA và anhydrid succinic
dưới xúc tác là amin bậc ba hoặc hỗn họp xúc tác là các amin bậc ba hoặc
đi từ DHA và acid succinic với hỗn hợp xúc tác là amin bậc ba cùng với
chất loại nước dicyclohexyl carbodiimid với hiệu suất 80-85%.
-
10
-
2.2.2.4. Bán tổng hợp các carbonat của DHA
Cũng tương tự như các este, carbonat của DHA cũng được điều chế
bằng cách cho DHA tác dụng với alkyl hoặc arylcioroformiat dưới tác
dụng của xúc tác là trietylamin hoặc 4-DMAP để nhận được các carbonat
21 tương ứng [17].
HiC
+
ROCOC1
(Các dẫn xuất carbonat của D H A )
Trong đó R= ankyl, aryl,arankyl
2.2.2.S. Bán tổng hợp các dẫn xuất chứa lưu huỳnh của DHA
Năm 1989, hãng sản xuất
dược phẩm Hoechst công bố bằng
sáng chế về điều chế và sử dụng các
dẫn xuất chứa lưu huỳnh của DHA
22 để điều trị sốt rét [28]. Trong đó
bao gồm các dẫn chất của thioeste,
X=
sulíon, sulíònat. Với R có thể là:
s, so, sc>2
22
- alkyl có từ 1- 8C,
(Các dẫn xuất chứa
lưu huỳnh của DHA)
- các cycloalkyl có từ 4-8C
- các alkyl đã thế, alkenyl
thế, các dị vòng.
-
11
-
2.2.2.Ỏ. Các dẫn xuất khác.
Năm 1980, Y. Pei-Lin và cộnơ
sự [30] điều chế ra các dẫn chất chứa
H
halogen và nitơ của DHA.
Các gốc R có thể là alkyl hoặc
T
H-C
acyi mà bản thân trong nó có chứa nitơ
hoặc halogen. Trong số này các chất
OR
chứa nhóm R là p-F3CC6H4, CHO và
CI-QH4CO có tác dụng mạnh hơn
^
artemisinin.
Đến năm 1990 nhóm nghiên cứu của Klayman [20] công bố một
phương pháp mới để tổng hợp các dẫn chất chứa nitơ và halogenua ngay
trên nhân của DHA. Tác giả cho DHA 5 tác dụng với F3B eterat để được
9,10 dehydroartemisinin (17), sau đó bromo hóa dây nối đôi mói tạo
thành để được dẫn chất dibromo 24, chất này được ngưng tự với các amin
tương ứng để được các amin 25.
F3BO(C2H5)2
DHA
5
CH-
17
Trong đó Ar =
NHAr
N ----Br
.
12-
25
Ngoài ra một số tác Sĩiả khác còn tạo ra một sô dẫn chất chứa nitơ
trong đó vòng lacton được thay thế bơi vòng lactam đê tăn2 cường độ bển
vững.
ở Việt Nam Trần Đức Quàn, Trần Văn Sung [7] cũng đã có một số
nghiên cứu về dẫn xuất chứa acid amin của artemisinin. Trương Đình
Thạc, Trương Thanh Nga, Phạm Ngọc Hà [8] nghiên cứu về tổng hợp dẫn
chất chứa flo của artemisinin làm thuốc chữa sốt rét. Mai Văn Tri, Nguyễn
Văn Tuyến và cộng sự [11] có nghiên cứu về tổng hợp các dẫn chất mới
của artemisinin chứa liên kết C-C ở vị trí C12, các dẫn chất chứa nitơ của
12-deoxy artemisinin.
Các hợp chất này đều có tác dụng trên ký sinh trùng sốt rét như
artemisinin.
2.2.2.7. Bán tổng hợp acid artelỉnỉc và một sô ete thơm có khả năng hòa
tan trong nước của DHA.
Tận dụng sự bền vững của liên kết ete trong các dẫn chất của DHA,
Lin.A.J., Klayman D.L. và cộng sự [21] đã điều chế ra các họp chất vừa
mang liên kết ete của DHA vừa mang nhóm acid có khả năng tạo muối có
thể hòa tan trong nước. Một trong số các hợp chất đó là acid artelinic.
Muối artelinat vừa có khả năng hòa tan trong nước, vừa ít bị phân hủy lại
có tác dụng mạnh hơn cả artemisinin lản artemether và arteether.
Để thu được các ete có chứa nhóm carboxylic - sản phẩm có khả
năng hòa tan trong nước của dihydroartemisinin- người ta cho DHA (5)
tác dụng với các este của acid hydroxy-carboxylic để được các este-ete
26, tiếp theo đó là thực hiện phản ứng thủy phân cắt nhóm chức este của
26 để tạo ra các acid-ete 27.
-
13
-
Ạrt
ỉỎH
Art =
HO— Y— C OOR
Ạrt
?
KOH/MeOH
Ỏ—Y—COOR
26
Ạrt
ĩỎ—Y—COOH
27
a: Y = CH2, R = C 2 H 5
a: Y = CH 2
b :Y = CH 2 -CH2, R = CH 3
b: Y = CH 2 -CH 2
c: Y = CH 2'C H 2 -CH2, R = CH 3 c : Y = CH 2 -CH 2 -CH 2
d: Y =
c h 2—
( P 5 ) .,R = C H 3
d :Y = C H = 7 ^ 0 ) *
acid arteìinic—
Sơ đ ổ I
ơ Việt Nam Phan Đình Châu và cộng sự [2, 10] đã nghiên cứu bán
tổng hợp hoạt chất kiểu này là acid artelinic, acid metaartelinic. Kết quả
thử tác dụng trên ký sinh trùng sốt rét bước đầu cho thấy chúng rất khả
quan trong chống tái phát trên động vật thực nghiệm [6].
PHẦN III
THỰC NG H IỆM VÀ KẾT QUẢ
3.1. NGUYÊN VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN c ứ u
3.1.1.Nguyên vật liệu và dụng cụ:
- Bản mỏng sắc ký Merck art-5554-Alufolien kieselgen 60 F,54.
- Máy đo nhiệt độ nóng chảy BOETUS-HMK-Đức.
- Máy đo phổ hổng ngoại PERKIN ELMER.
- Artemisinin
- Acid p-hydroxy metyl benzoic.
3.1.2.
Phương pháp nghiên cứu:
3.1.2.1. Nghiên cứu cải tiến phương pháp điều chếacid artelỉnỉc:
Dihydroartemisinin (5) được điều chế từ artemisinin (1) với chất
khử NaBH4. Tiếp đó để điều chế các ete của DHA thông thường các tác
giả cho DHA tác dụng với ancol tương ứng trong triíloboro eterat [ 3, 17,
18]. Quá trình tổng hợp được tóm tắt trong sơ đồ II.
trong đó R= ankyl, arakyl
Sơ đổ II.
Còn để thu được các ete có chứa nhóm carboxylic- sản phẩm có khả
năng hoà tan trong nước- người ta cho DHA (5) tác dụng với các este của
acid hydroxy-carboxylic để được các este-ete 28, tiếp theo đó là thực hiện
việc thuỷ phàn cắt nhóm chức este để tạo ra các acid-ete 29 [18. 21] (sơ
đồ III).
Sơ đổ III
Với phương pháp nêu trên của A.J.Lin hiệu suất tổng gộp cả hai
giai đoạn là 41,19%( 78,3% và 52,6%). Như vậy hiệu suất điều chế acid
artelinic tính từ DHA còn tương đối thấp. Cho nên chúng tôi thử nghiệm
cải tiến phương pháp ete hóa nhằm nâng cao hiệu suất điều chế acid
artelinic bằng cách cho ete hóa DHA trực tiếp với acid p-hydroxy-metylbenzoic với xúc tác BF3-eterat trong dung môi dietyl ete. Quá trình phản
ứng được thực hiện theo sơ đồ sau:
Sơ đổ V
Kết thúc phản ứng, xử lý hỗn hợp phản ứng trong dung môi thích
hợp, tinh chế sản phẩm và tính hiệu suất. Sản phẩm sau khi tinh chế được
kiểm tra so sánh với sản phẩm mà nhóm nghiên cứu của Phan Đình Châu
đã thu được theo phương pháp của A.J. Lin [2] trên sắc ký lớp mỏng, nhiệt
độ nóng chảy, các phổ IR, ‘H-NMR và l3C-NMR.
-
16-
3.12.2. Khảo sát ảnh hưởng của dung môi và xúc tác đến phấn ứng ete
hóa
Trên cơ sở phản ứng ete hóa trực tiếp giữa DHA và acid p-hydroxy
metyi benzoic, chúng tôi tiến hành khảo sát định tính ảnh hưởng của đun 2
môi và xúc tác đến quá trình phản ứng. Các dung môi được thử nghiệm là:
dietyl ete, aceton, n-hexan, diclometan, etyl acetat với các xúc tác là:
trifloboeterat, acid hydrocloric, acid p-toluensulfonic.
Phản ứng được
thực hiện ở nhiệt độ 25-30°C và theo dõi bằng sắc ký lớp mỏng.
3.2.
THỰC NGHIỆM
3.2.1. Điều chế dihydroartemisinin:
[25]
14,lg (0,05mol) artemisinin (1) hoà tan trong 240ml methanol, cho
vào đó l,5g MgCL. 6H20 trong lml nước. Làm lạnh hỗn hợp xuống -50°c. Duy trì lạnh và cho 2,85g (0,075mol) NaBH4 vào hỗn hợp phản ứng
từng ít một trong vòng khoảng 2 giờ. Sau đó khuấy thêm 30 phút ở nhiệt
độ 0-5°C. Trung hoà hỗn hợp phản ứng với 10 ml acid acetic. Đổ hỗn hợp
phản ứng vào 700ml nước cất lạnh. Để lạnh trong 2 giờ, lọc lấy tủa, rửa lại
tủa bằng nước cất lạnh 2 lần. Sấy khô ở dưới 50-60°C thu được 12,87g
hợp chất 5 (hiệu suất 90,63%). Độ chảy 151-153°c.
3.2.2. Cải tiến phương pháp bán tổng hợp acid artelinic.
Cho 5,7g (0,020 mol) DHA hoà tan vào 300ml ete etylic và cho
thêm 4,0g (0,026 mol)
acid 4-hydroxymetyl benzoic. Khuấy kỹ ở nhiệt
độ phòng trong 15 phút. Thêm vào hỗn hợp phản ứng 2ml BF3.0(C2H5)2.
Khuấy trong 24 giờ ở nhiệt độ 25-28°C. Theo dõi phản ứng bằns sầc ký
lớp mỏng với bản mỏng silicagei đế nhôm có tẩm chất phát huỳnh quang
ở 254 am với hệ dung môi khai triển toluen: etyl acetat (6 : 4). Vết được
phát hiện bằng kết hợp soi dưới đèn tử ngoại ở bước sóng 254nm (đánh
dấu bằng bút chì kim) và hiện màu bằng phun dung dịch p-dimetylamino
benzaldehyd trong hỗn hợp acid acetic, acid phosphoric và nước ( 100 : 10
- Xem thêm -