ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------------------------
NGUYỄN THỊ THÙY LINH
NGHIÊN CỨU ÁP DỤNG TIÊU CHUẨN
ISO 15489 VÀO QUẢN LÝ TÀI LIỆU LƯU TRỮ ĐIỆN TỬ
TẠI CÁC LƯU TRỮ LỊCH SỬ
HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lưu trữ
Hà Nội – 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
NGUYỄN THỊ THÙY LINH
NGHIÊN CỨU ÁP DỤNG TIÊU CHUẨN
ISO 15489 VÀO QUẢN LÝ TÀI LIỆU LƯU TRỮ ĐIỆN TỬ TẠI CÁC
LƯU TRỮ LỊCH SỬ HIỆN NAY
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lưu trữ
Mã số: 60 32 24
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Liên Hương
Hà Nội - 2011
MỤC LỤC
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
3
LỜI NÓI ĐẦU
5
1. Lý do chọn đề tài
5
2. Mục tiêu của đề tài
7
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
7
4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu của đề tài
10
5. Nguồn tư liệu tham khảo
10
6. Phương pháp nghiên cứu
11
7. Bố cục của đề tài
13
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÀI LIỆU ĐIỆN TỬ VÀ TIÊU
15
CHUẨN QUỐC TẾ ISO 15489:2001
1.1. Khái niệm tài liệu điện tử
15
1.1.1. Khái niệm tài liệu (Document)
15
1.1.2. Khái niệm tài liệu điện tử (Electronic document)
16
1.1.3. Khái niệm tài liệu lưu trữ điện tử
18
1.1.4. Đặc điểm của tài liệu điện tử
22
1.2. Quản lý tài liệu điện tử
27
1.2.1. Quan niệm về quản lý tài liệu điện tử
27
1.2.2. Nội dung của quản lý tài liệu điện tử
28
1.2.3. Tổ chức lưu trữ ở Việt Nam hiện nay
31
1.2.4. Các văn bản pháp lý hiện hành liên quan đến tài liệu điện tử
33
1.2.5. Thực trạng quản lý tài liệu lưu trữ điện tử tại các Lưu trữ lịch sử ở
38
Việt Nam hiện nay
1.3. Tổng quan về tiêu chuẩn quốc tế ISO 15489:2001
50
1.3.1. Giới thiệu về tổ chức ISO
50
1.3.2. Khái niệm và cấu trúc tiêu chuẩn ISO 15489
51
1.3.3. Sự cần thiết của việc áp dụng tiêu chuẩn ISO 15489 vào quản lý tài
56
liệu lưu trữ điện tử
1.3.4. Điều kiện áp dụng tiêu chuẩn ISO 15489 vào quản lý tài liệu lưu trữ
58
điện tử tại các Lưu trữ lịch sử.
CHƯƠNG 2: ÁP DỤNG TIÊU CHUẨN ISO 15489 VÀO QUẢN LÝ
63
TÀI LIỆU LƯU TRỮ ĐIỆN TỬ TẠI CÁC LƯU TRỮ LỊCH SỬ Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Áp dụng tiêu chuẩn ISO 15489 vào xây dựng quy trình nghiệp vụ lưu
trữ điện tử
64
2.1.1. Thiết kế hệ thống hồ sơ tài liệu
64
2.1.2. Áp dụng tiêu chuẩn ISO 15489 vào các nghiệp vụ lưu trữ đối với tài
75
liệu lưu trữ điện tử
2.2. Áp dụng tiêu chuẩn ISO 15489 vào xây dựng quy trình quản lý tài liệu
97
lưu trữ điện tử tại các Lưu trữ lịch sử
2.2.1. Báo cáo các quá trình quản lý tài liệu điện tử
97
2.2.2. Kiểm tra, giám sát quá trình quản lý tài liệu điện tử
97
CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP ÁP DỤNG ISO 15489 VÀO
101
QUẢN LÝ TÀI LIỆU LƯU TRỮ ĐIỆN TỬ
3.1. Đề xuất các bước tổ chức thực hiện
101
3.1.1. Xác định phạm vi áp dụng
101
3.1.2. Xây dựng chính sách và xác định trách nhiệm
102
3.1.3. Xây dựng kế hoạch
104
3.1.4. Triển khai thực hiện
106
3.1.5 Kiểm tra đánh giá
107
3.1.6. Đào tạo
107
3.2. Hoàn thiện cơ sở lý luận về quản lý tài liệu điện tử
109
3.2.1. Xây dựng hệ thống thuật ngữ và từ vựng
109
3.2.2. Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học về việc áp dụng ISO vào
110
ngành lưu trữ nói chung và ISO 15489 vào công tác quản lý tài liệu điện tử
nói riêng
3.3. Hoàn thiện cơ sở pháp lý cho công tác quản lý tài liệu điện tử
110
3.4. Thống nhất chủ trương của lãnh đạo các cấp trong vấn đề quản lý tài
112
liệu điện tử
3.5. Tuyên truyền, phổ biến áp dụng tiêu chuẩn ISO 15489
113
3.6. Đầu tư cơ sở vật chất phù hợp
114
3.7. Xây dựng nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý
115
tài liệu điện tử
3.8. Thường xuyên kiểm tra, đánh giá quá trình áp dụng ISO
116
3.9. Học hỏi, trao đổi kinh nghiệm với nước ngoài
116
KẾT LUẬN
119
TÀI LIỆU THAM KHẢO
121
PHỤ LỤC
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
ICA
International Council of Archives
Hội đồng Lưu trữ Quốc tế
CSDL
Cơ sở dữ liệu
ISO
International Standards Organization
LAN
Local Area Network
TCVN
Tiêu chuẩn Việt Nam
TLĐT
Tài liệu điện tử
TLLTĐT
Tài liệu lưu trữ điện tử
TTLTQG
Trung tâm Lưu trữ Quốc gia
VPTW
Văn phòng Trung ương
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ngày nay, sự phát triển không ngừng của khoa học công nghệ cùng sự bùng nổ của
thông tin số đã đem lại những tác động không nhỏ tới mọi mặt đời sống xã hội. Ngành lưu
trữ cũng không nằm ngoài sự tác động đó, cũng phải tiếp nhận những yếu tố mới, với những
yêu cầu mới, nhiệm vụ mới. Hòa trong xu thế phát triển của kỷ nguyên khoa học hiện đại và
xuất phát từ thực tế quá trình ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan, tổ chức, một
loại hình tài liệu mới đã được hình thành, đó là tài liệu điện tử.
Trong xã hội mới – xã hội thông tin, đôi khi lịch sử được ghi lại bằng phương thức
điện tử, quá trình máy tính hoá đã làm thay đổi đáng kể hoạt động của các tổ chức nhà nước
và các tổ chức kinh doanh. Trong hàng loạt các tổ chức hiện đại, thư tín, văn bản, giao dịch
điện tử đã xuất hiện đồng thời và có tín hiệu thay thế dần thư tín, văn bản, giao dịch bằng
giấy. Khác với tài liệu truyền thống - thông tin được ghi trên giấy và con người có thể cầm
đọc được trực tiếp, trong bất cứ hoàn cảnh nào thì đối với tài liệu điện tử, thông tin được ghi
trên đĩa cứng, đĩa mềm, băng từ, đĩa CD, đĩa DVD, các thiết bị lưu trữ khác và chỉ có thể
khai thác, sử dụng được thông qua máy tính có chứa phần mềm tương thích. Có thể nói, tài
liệu điện tử đã và đang được sản sinh với khối lượng lớn, các vấn đề nghiệp vụ văn thư, lưu
trữ cũng như vấn đề quản lý đối với tài liệu lưu trữ điện tử đang là cơ hội và thách thức đối
với những người làm công tác lưu trữ, đòi hỏi phải được đầu tư nghiên cứu sâu rộng hơn
nữa.
Trên thế giới, các lưu trữ Anh, Mỹ, Úc, Nga, Trung Quốc… đã tiếp cận, nghiên cứu
về tài liệu điện tử từ những năm 70 của thế kỷ XX. ở Việt Nam, những vấn đề xoay quanh
tài liệu điện tử bước đầu được đặt ra để tìm hiểu, nghiên cứu, song kết quả thu được còn hạn
chế. Trong đó, việc quản lý và cung cấp thông tin tài liệu lưu trữ điện tử còn chứa đựng
những rủi ro như: cơ sở dữ liệu bị xóa, thông tin bị chỉnh sửa… Chính vì vậy cần thiết kế
một hệ thống lưu giữ tránh tình trạng xâm nhập trái phép, thực hiện chế độ quản lý tài liệu
điện tử như là một bộ phận tổng thể các hồ sơ tài liệu, thông tin của cơ quan và cần có khuôn
khổ chiến lược đối với tài liệu lưu trữ điện tử. Theo khái niệm của các chuyên gia, hệ thống
lưu giữ tài liệu điện tử là một quy trình khép kín giúp các tài liệu được an toàn và được quản
lý để tài liệu đó cùng với các thông tin, hoàn cảnh và cấu trúc của nó sẽ được giữ lại (Tính
xác thực, độ tin cậy, tính an toàn, mối quan hệ với các đối tượng dữ liệu có liên quan, tính
hữu dụng và khả năng tiếp cận). Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế (ISO) đã chính thức ban hành
tiêu chuẩn quốc tế về công tác văn thư ISO 15489:2001, trong tiêu chuẩn này cũng đã đưa ra
một chuẩn mực để các cơ quan, tổ chức có thể sử dụng nhằm đánh giá thực tiễn và hệ thống
lưu trữ tài liệu điện tử.
Nghiên cứu về áp dụng tiêu chuẩn quốc tế vào quản lý tài liệu điện tử sẽ giúp chuẩn
hóa và nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan, tổ chức; phát huy giá trị của loại hình
tài liệu lưu trữ mới - tài liệu lưu trữ điện tử. Với việc liên hệ tới công tác quản lý tài liệu điện
tử tại các kho lưu trữ trung ương, mà cụ thể ở đây là Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, II, III,
IV và Kho Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, đề tài sẽ trở nên thực tế, những lý thuyết
được đưa ra không chỉ đơn thuần là lý luận suông, mà trái lại đã được nghiên cứu áp dụng và
được minh chứng trong thực tiễn.
Có một cái nhìn đúng đắn về tài liệu điện tử, đồng thời làm tốt công tác quản lý loại
hình tài liệu lưu trữ điện tử không chỉ góp phần tối ưu hoá thành phần Phông Lưu trữ Quốc
gia Việt Nam mà còn góp phần vào sự nghiệp bảo tồn di sản văn hoá dân tộc, di sản văn hoá
nhân loại trong thời đại mới.
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi có điều kiện để liên hệ giữa lý luận và thực
tiễn, để so sánh giữa tài liệu điện tử với các loại hình tài liệu khác, để thấy được thuận lợi
cũng như khó khăn trong công tác quản lý tài liệu điện tử, trong việc triển khai các nghiệp
vụ vưn thư, lưu trữ đối với loại hình tài liệu này… đó sẽ là những kiến thức bổ ích phục vụ
cho công việc của chúng tôi sau này
Chính vì những lý do trên nên chúng tôi đã lựa chọn vấn đề “Nghiên cứu áp dụng
tiêu chuẩn ISO 15489 vào quản lý tài liệu lưu trữ điện tử tại các lưu trữ lịch sử hiện nay”
làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ ngành Lưu trữ học.
2. Mục tiêu của đề tài
Với lí do nêu trên, chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm tới mục tiêu:
Một là, đưa ra quan điểm cả tác giả về các vấn đề xoay quanh tài liệu điện tử, quản lý
tài liệu điện tử và tiêu chuẩn quốc tế ISO 15489
Hai là, phản ánh chân thực thực trạng quản lý tài liệu điện tử tại các lưu trữ lịch sử
hiện nay.
Ba là, trên cơ sở khảo sát thực tiễn, chúng tôi mong muốn đề xuất một số giải pháp áp
dụng tiêu chuẩn quốc tế ISO 15489 vào quản lý tài liệu điện tử tại các lưu trữ lịch sử, từ đó
góp phần nâng cao hiệu quả nói chung của ngành lưu trữ nước nhà trong thời đại mới.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu về tài liệu điện tử đã và đang được tiến hành dưới nhiều góc độ, cả về lý
luận và thực tiễn.
Thứ nhất, dưới góc độ lý luận, trước hết phải kể đến giáo trình “Lý luận và thực tiễn
công tác lưu trữ”. Cuốn giáo trình đã cung cấp những kiến thức cơ bản về các nghiệp vụ lưu
trữ tài liệu lưu trữ. Bên cạnh đó là các cuốn sách chuyên khảo như: “Tài liệu điện tử trong
quản lý” (Nguyễn Cảnh Đương - dịch), “Quản lý tài liệu điện tử” – tài liệu hướng dẫn của
Lưu trữ Quốc gia Mỹ, “Cải tiến công tác quản lý tài liệu điện tử” (Bộ Quốc Phòng úc - sách
dịch); cuốn sách “Tin học và đổi mới quản lý công tác văn thư, lưu trữ” của Tiến sĩ Dương
Văn Khảm, do Nhà Xuất bản chính trị quốc gia xuất bản tại Hà Nội, năm 1994. Nội dung
của cuốn sách này chủ yếu đề cập đến vai trò của công nghệ thông tin và việc ứng dụng
công nghệ thông tin trong công tác văn thư, lưu trữ mà quản lý văn bản là một nội dung nhỏ
trong cuốn sách.
Thứ hai là các công trình nghiên cứu khoa học, các báo cáo tham gia hội nghị, hội
thảo liên quan tới tài liệu điện tử của Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước.
- Các báo cáo tại Hội nghị khoa học của Cục Lưu trữ Nhà nước trong “Kỷ yếu Hội
nghị khoa học lưu trữ tài liệu điện tử, Hà Nội, tháng 12-1998”; “Kỷ yếu hội nghị SARBICA
về xác định giá trị và bảo quản tài liệu điện tử” năm 2004.
- Đề tài khoa học cấp ban đảng của Vũ Hồng Mây: “Nghiên cứu, xây dựng quy trình
quản lý, xử lý tài liệu điện tử trong công tác văn thư ở các ban tham mưu, giúp việc cấp ủy
từ Trung ương đến cấp tỉnh” năm 2010; Đề tài cấp Bộ của TS. Lưu Kiếm Thanh về “Quản lý
văn bản điện tử trong cơ quan nhà nước hiện nay” năm 2008; Đề tài khoa học cấp ngành của
Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước: “Nghiên cứu ứng dụng tin học trong việc phân loại, quản
lý tài liệu từ văn thư vào lưu trữ” do thạc sỹ Lê Văn Năng chủ trì. Nội dung của đề tài chủ
yếu mới tập trung vào việc giải quyết các vấn đề về mặt kỹ thuật tin học và hoạt động theo
chế độ cục bộ; Đề tài “Nghiên cứu ứng dụng ISO 9000 vào công tác văn thư tại các cơ quan
nhà nước” do ThS Nguyễn Trọng Biên làm chủ nhiệm: đề tài đã giới thiệu bộ tiêu chuẩn
ISO 900 với các phiên bản đến năm 2000 và phân tích khả năng áp dụng của nó trong công
tác văn thư của các cơ quan nhà nước.
Thứ ba, nghiên cứu về tài liệu điện tử cũng đã được nhận được rất nhiều sự quan tâm,
điều này được thể hiện qua các bài viết đăng trên tạp chí Văn thư Lưu trữ Việt Nam như bài
viết của tác giả Cam Anh Tuấn: “Áp dụng tiêu chuẩn ISO trong công tác văn thư - một số
kinh nghiệm thực tiễn”, Tạp chí Văn thư Lưu trữ Việt Nam, số 6, 2009; Cảnh Đương - Đức
Mạnh: “Bàn về khái niệm tài liệu điện tử”, Tạp chí Văn thư Lưu trữ Việt Nam, số 8, 2008;
Dương Mạnh Hùng: “Trao đổi về lập hồ sơ điện tử”, Tạp chí Văn thư Lưu trữ Việt Nam, số
6, 2008; Lê Thị Mùi: “Bàn về phương pháp bảo vệ cơ sở dữ liệu và các chiến lược bảo quản
tài liệu điện tử”, Tạp chí Văn thư Lưu trữ Việt Nam, số 5, 2007…
Thứ tư, các khoá luận tốt nghiệp của sinh viên ngành Lưu trữ học và Quản trị văn
phòng (được bảo quản tại tư liệu của Khoa) như: “Quản lý văn bản trong văn thư của một cơ
quan” của sinh viên Phạm Thu Huyền; đề tài “Nội dung ứng dụng tin học để xây dựng cơ sở
dữ liệu trong văn thư của một cơ quan” của sinh viên Nguyễn Thu Huyền, “ ng dụng công
nghệ thông tin trong công tác văn thư tại Bộ Khoa học - Công nghệ” của sinh viên Nguyễn
Thị út Trang; đề tài luận văn thạc sĩ khoa học: “ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý
văn bản - một giải pháp để hoàn thiện hệ thống thông tin quản lý của Bộ Khoa học và Công
nghệ” của tác giả Lê Tuấn Hùng, năm 2004; đề tài “nghiên cứu áp dụng bộ tiêu chuẩn ISO
9000 vào công tác khai thác, sử dụng tài liệu tại các TTLTQG” của ThS Nguyễn Thị Chinh
năm 2006, đề tài khóa luận tốt nghiệp “Những nghiên cứu về tài liệu điện tử tại Việt Nam “
của tác giả Đ Thu Hiền năm 2011…
Tuy nhiên, qua khảo sát, chúng tôi chưa thấy có đề tài khoa học nào tiếp cập trực tiếp
tới vấn đề nghiên cứu, áp dụng tiêu chuẩn ISO 15489 vào quản lý tài liệu điện tử.
4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu vấn đề chung
nhất về tài liệu điện tử như thành phần tài liệu, giá trị tài liệu, thực trạng tài liệu và nghiên
cứu về thực tiễn công tác thu thập, quản lý tài liệu điện tử tại các đơn vị sự nghiệp chính, đó
là các Trung tâm Lưu trữ Quốc gia và Kho Lưu trữ văn phòng Trung ương Đảng.
Song bên cạnh đó, chúng tôi cũng tìm hiểu, liên hệ tới các lưu trữ lịch sử tỉnh, các lưu
trữ chuyên ngành khác nhằm khảo sát, liên hệ thực tế, giúp chúng tôi có được cái nhìn khách
quan nhất về thực trạng quản lý loại hình tài liệu này.
Qua đó, chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp thiết thực nhằm góp phần nâng cao
hiệu quả quản lý tài liệu điện tử, mà cụ thể hơn là tài liệu lưu trữ điện tử.
5. Nguồn tư liệu tham khảo
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã tham khảo các nguồn tài liệu chính như
sau:
- Trước hết, để trang bị kiến thức lý luận chung về vấn đề nghiên cứu, chúng tôi đã
tìm đọc các sách, giáo trình liên quan như: “Lý luận và thực tiễn công tác lưu trữ”; các cuốn
sách về tài liệu điện tử, quản lý tài liệu điện tử trong và ngoài nước…
- Các văn kiện của Đảng và Nhà nước về công văn giấy tờ và công tác lưu trữ từ 1945
đến nay; các văn bản pháp luật liên quan tới tài liệu điện tử như Luật Giao dịch điện tử; các
bộ tiêu chuẩn, tiêu chuẩn Việt Nam, tiêu chuẩn quốc tế liên quan tới tiêu chuẩn ISO 15489;
các văn bản quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của 05 cơ quan được chọn để khảo
sát trong quá trình làm luận văn… Đây là nguồn tư liệu quan trọng cung cấp cho chúng tôi
những thông tin về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước và các quy định của quốc
tế trong công tác xây dựng, tổ chức công tác lưu trữ - đây là những căn cứ để chúng tôi đưa
ra được những kiến nghị và giải pháp hợp lý cho việc áp dụng tiêu chuẩn ISO 15489 vào
quản lý tài liệu điện tử…
- Các công trình nghiên cứu khoa học, các Khóa luận tốt nghiệp, Luận văn Thạc sỹ;
Luận án Tiến sỹ về các vấn đề có liên quan - được chúng tôi tham khảo từ Thư viện Cục
Văn thư Lưu trữ Nhà nước và từ Tư liệu Khoa Lưu trữ học và Quản trị văn phòng.
- Một số bài viết, bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí: Tạp chí Văn thư - Lưu trữ Việt Nam,
Tạp chí Cải cách hành chính, Tạp chí tổ chức nhà nước…
- Đồng thời, chúng tôi đã tham khảo, tiếp cận các nguồn thông tin trên internet (các ebook, bài báo điện tử, các website lưu trữ của Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới như
Singapore, Anh, Mỹ…);
Những nguồn tư liệu trên đã cung cấp cho chúng tôi những kiến thức hữu ích về lý
luận và thực tiễn, giúp chúng tôi hoàn thiện được luận văn này.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài nghiên cứu này, chúng tôi đã kết hợp sử dụng những phương pháp
truyền thống và hiện đại. Những phương pháp mà chúng tôi sử dụng trong đề tài này dựa
trên cơ sở phương pháp luận của lưu trữ học thể hiện ở ba nguyên tắc: Nguyên tắc tính
Đảng, nguyên tắc lịch sử và nguyên tắc toàn diện và tổng hợp. Đồng thời trong quá trình
nghiên cứu chúng tôi có sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như:
Phương pháp phân tích và tổng hợp: Đây là một phương pháp rất phù hợp với việc
nghiên cứu, tìm hiểu về một vấn đề mới mẻ, chưa có nhiều tài liệu liên quan.
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi tham khảo rất nhiều nguồn tài liệu từ cấc công
trình nghiên cứu trước. Nhờ phương pháp sử liệu học, chúng tôi xác định độ tin cậy của
thông tin nên các kết quả mà chúng tôi sử dụng trong công trình nghiên cứu của mình được
thẩm định lại độ chân thực.
Để nghiên cứu sâu về thực tiễn quản lý tài liệu điện tử tại 05 cơ quan, chúng tôi đã áp
dụng các phương pháp khác nhau:
Trước hết là phương pháp khảo sát tài liệu. Chúng tôi đã tiến hành thu thập tài liệu
liên quan đến vấn đề trên thông qua các sách, báo, tạp chí, các công trình nghiên cứu khoa
học. Kết hợp với phương pháp hệ thống, chúng tôi phân tài liệu thành các nhóm kiến thức
phục vụ trực tiếp cho từng nội dung của đề tài.
Đồng thời, phương pháp khảo sát thực tế được chúng tôi áp dụng qua việc nghiên cứu
tài liệu ở 05 cơ quan và qua phỏng vấn trực tiếp các đối tượng: cán bộ của các Trung tâm,
đặc biệt là cán bộ liên quan trực tiếp tới iso, tài liệu điện tử; cán bộ có nhiều đề tài khoa học
về iso, tài liệu điện tử. Trên cơ sở những thông tin thu thập được, chúng tôi phân tích, tổng
hợp và so sánh để từ đó có cách nhìn đầy đủ hơn về vấn đề nghiên cứu.
Chúng tôi cũng sử dụng phương pháp so sánh để tìm ra những điểm khác biệt giữa
tài liệu lưu trữ truyền thống và tài liệu lưu trữ điện tử cũng như sự khác nhau trong công tác
quản lý hai loại hình tài liệu này. Trên cơ sở so sánh các ý kiến, quan điểm, số liệu khác
nhau về những vấn đề liên quan tới quản lý tài liệu lưu trữ; nhóm nghiên cứu đưa ra những
nhận định khách quan, khoa học hơn.
Ngoài ra, các phương pháp thống kê, phương pháp logic... cũng được chúng tôi kết
hợp sử dụng trong quá trình nghiên cứu. Các kết quả nghiên cứu được chúng tôi nhìn nhận
dưới quan điểm phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài lời nói đầu và phần kết luận, phần nội dung khoá luận được chia làm các phần
chính như sau:
Chương 1: Tổng quan về tài liệu điện tử và tiêu chuẩn quốc tế ISO 15489
Ở chương này, chúng tôi khái quát lại những vấn đề lý thuyết liên quan tới tài liệu
điện tử (như định nghĩa, đặc điểm, giá trị tài liệu); quản lý tài liệu điện tử ; cấu trúc, nguyên
tắc và yêu cầu của tiêu chuẩn ISO 15489.
Chương 2: Nghiên cứu áp dụng tiêu chuẩn ISO 15489 vào quản lý tài liệu điện tử
tại các lưu trữ lịch sử ở Việt Nam hiện nay.
Trên cơ sở nắm vững lý thuyết ở chương 1, chúng tôi tiến tới khảo sát, đánh giá tình
hình quản lý tài liệu điện tử tại 05 cơ quan: TTLTQG I, II, III, IV và Kho Lưu trữ VPTW
Đảng. Trên cơ sở đó, chúng tôi thấy được sự cần thiết phải áp dụng ISO 15489 vào quản lý
tài liệu điện tử và đưa ra các nội dung áp dụng tiêu chuẩn trong nghiệp vụ lưu trữ cũng như
quản lý lưu trữ đối với tài liệu điện tử.
Chương 3: Đề xuất các giải pháp áp dụng tiêu chuẩn ISO 15489 vào quản lý tài
liệu điện tử
Từ thực tế khảo sát, chúng tôi đưa ra các bước tiến hành cũng như đề xuất những giải
pháp thiết thực nhằm áp dụng tiêu chuẩn ISO 15489 vào công tác quản lý tài liệu điện tử.
Những quan điểm, vấn đề được chúng tôi nêu ra trong luận văn này sẽ không tránh
khỏi những thiếu sót. Do đó chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý chân thành của quý thày
cô cùng các bạn để làm cho những nhận thức về tài liệu điện tử trở nên đầy đủ và toàn diện
hơn. Trên cơ sở đó, nếu có thể, sẽ đưa ra được những giải pháp hiệu quả nhằm thu thập, bảo
vệ an toàn, sử dụng có hiệu quả tài liệu lưu trữ điện tử nói chung.
Trong quá trình triển khai đề tài, chúng tôi đã gặp phải nhiều khó khăn. Nhưng được
sự quan tâm, giúp đỡ nhiệt tình từ phía các cán bộ của Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước,
các Trung tâm Lưu trữ Quốc gia, Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng, Hội Lưu trữ
Việt Nam, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, các thầy cô giáo của Khoa Lưu
trữ học và Quản trị văn phòng và đặc biệt là sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của TS. Nguyễn
Liên Hương, chúng tôi đã có thể hoàn thành được đề tài luận văn này. Nhân đây, tôi xin bày
tỏ lòng cảm ơn chân thành về sự quan tâm, giúp đỡ quý báu đó.
Hà Nội, ngày…...tháng…..năm 2011
Học viên
Nguyễn Thị Thuỳ Linh
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ TÀI LIỆU ĐIỆN TỬ VÀ TIÊU CHUẨN QUỐC TẾ ISO
15489:2001
Trước khi tiến hành nghiên cứu, tìm hiểu bất cứ khía cạnh nào của một vấn cụ thể,
người nghiên cứu đều cần phải làm rõ được các định nghĩa, khái niệm, đồng thời phải nắm
hiểu được cốt lõi, bản chất của vấn đề nghiên cứu. Quá trình này không chỉ dừng lại ở việc
thống kê, tìm hiểu các quan điểm khác nhau, mà nó còn đòi hỏi người nghiên cứu phải đưa
ra quan điểm riêng của mình về đối tượng nghiên cứu, dù đó là quan điểm riêng, có tính
sáng tạo hay là sự đồng tình, nhất trí với quan điểm đã được đưa ra trước đó.
Trên cơ sở đó, chúng tôi sẽ lần lượt đưa ra những quan điểm về các vấn đề liên quan
tới đối tượng nghiên cứu như nêu ra các định nghĩa, khái niệm; giới thiệu khái quát về các
đối tượng nghiên cứu… Điều này không chỉ thể hiện cấu trúc logic của một công trình khoa
học, mà chúng tôi còn lấy đó làm cơ sở lý luận cho việc triển khai những nghiên cứu về sau.
1.1. Khái niệm Tài liệu điện tử
1.1.1. Khái niệm tài liệu (Document)
Tài liệu, văn bản là những khái niệm quan trọng nhất trong công tác văn thư, lưu trữ
và cũng là khái niệm cơ bản trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Theo nghĩa thông thường,
tài liệu được hiểu là thông tin được ghi lại trên vật liệu nhất định. Tài liệu có thể là văn bản,
có thể là phim, ảnh, băng hình, đĩa hình băng âm thanh, đĩa âm thanh hay các loại vật liệu
mang tin khác.
Dưới góc độ tiêu chuẩn, nhiều quan niệm về tài liệu đã được đưa ra. Theo chuẩn quốc
gia Australia (Standards Australia, AS-ISO 15489, 2001, Part 1) : ''Tài liệu là thông tin được
ghi lại hoặc vật thể được xử lý như một đơn vị''. Theo Tiêu chuẩn thiết kế chuẩn cho phần
mềm ứng dụng quản lý hồ sơ điện tử DoD 5015.2 xuất bản năm 2007 của Bộ Quốc phòng
Mỹ : ''Tài liệu là thông tin ghi lại dưới bất kỳ hình thức thể chất hoặc đặc trưng nào. Tài
liệu có thể hoặc không gắn với định nghĩa về hồ sơ”. Theo tài liệu MoReq2 (Tiêu chuẩn
Châu Âu) xuất bản năm 2002 của Lưu trữ quốc gia Anh : ''Tài liệu là thông tin ghi chép, lưu
trữ trên một phương tiện vật chất, mà có thể được giải thích/hiểu trong một ngữ cảnh ứng
dụng và được coi là một đơn vị”.
Theo tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 7420:2004 áp dụng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO
15489, ''Tài liệu (Document) là thông tin được ghi lại hoặc vật thể được xử lý như một đơn
vị". [54,tr.8] (“Document = Recorded information or object which can be treated as a unit'')
Trong môi trường hiện đại ngày nay, tài liệu được các cơ quan, tổ chức sản sinh ra
trong quá trình hoạt động có thể là các tài liệu truyền thống, tức là các thông tin được ghi lại
bằng kỹ thuật tương tự, như: văn bản viết tay hoặc đánh máy chữ, film, ảnh, băng ghi âm
hoặc ghi hình bằng kỹ thuật tương tự (analog); và có thể là các tài liệu số, hay cũng thường
gọi là tài liệu điện tử, tức là các thông tin được ghi lại bằng kỹ thuật số, như các tệp được tạo
bởi các phần mềm tin học: phần phần soạn thảo văn bản, phần mềm bảng tính, phần mềm
trình chiếu, phần mềm đồ hoạ, phầm mềm xử lý âm thanh và phầm mềm xử lý hình ảnh
động... Song, dù ở bất cứ hình thức nào, tài liệu vẫn phải đảm bảo có 2 đặc trưng: có thông
tin và được xử lý như một đơn vị. Vì vậy, trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi sử dụng khái
niệm của ISO 15489:2001, TCVN 7420:2004.
1.1.2. Khái niệm tài liệu điện tử ( Electronic Document)
Do tính chất phức tạp liên quan tới yếu tố công nghệ, tài liệu điện tử nói chung cũng
như khái niệm về tài liệu điện tử nói riêng hiện vẫn đang được đưa ra bàn luận trên các diễn
đàn nghiên cứu trong và ngoài nước.
Thuật ngữ “ Tài liệu điện tử” xuất hiện vào năm 1990, trong bộ môn Tài liệu học và
được sử dụng nhiều vào cuối những năm 1990. Trước thời gian đó, trong các tư liệu trong
nước và nước ngoài người ta chỉ sử dụng một cách rộng rãi các thuật ngữ như: “Tài liệu đọc
bằng máy”, “Tài liệu trên vật mang từ tính”, “Tài liệu do máy định hướng” và thuật ngữ
“Sơ đồ, biểu đồ máy vẽ”… Trong Luật Giao dịch điện tử của Việt Nam thì văn bản điện
tử là văn bản được thể hiện dưới dạng thông tin được tạo ra, được gửi đi, được nhận và
được lưu trữ bằng phương tiện hoạt động dựa trên công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số, từ
tính, truyền dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ tương tự…
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy tại Việt Nam hiện nay xuất hiện nhiều quan điểm về
khái niệm tài liệu điện tử, từ khái quát đến cụ thể. Song, có thể tổng hợp thành hai cách hiểu
nổi bật nhưng không thống nhất như sau:
Một là, “Tài liệu điện tử là khái niệm để chỉ tất cả các tài liệu số (digital document), bao
gồm cả các tài liệu được tạo ra ngay từ đầu đã là tài liệu số (born-digital) và các tài liệu số
hóa (digitalised)” – Vũ Hồng Mây, “Nghiên cứu, xây dựng quy trình quản lý, xử lý tài liệu
điện tử trong công tác văn thư ở các ban tham mưu giúp việc cấp ủy từ Trung ương đến cấp
tỉnh”, Đề tài khoa học cấp Ban Đảng, năm 2010. [29, tr.26]
Hai là, “Mỗi khi bàn về thuật ngữ TLĐT cần phải lưu ý là tài liệu điện tử trước hết phải
là tài liệu đọc bằng máy, song không phải bất kỳ tài liệu đọc bằng máy nào cũng là tài liệu
điện tử. Sự phát triển công nghệ thông tin trong những năm 1990 đã làm cho thuật ngữ “tài
liệu đọc bằng máy” với đặc tính cơ bản của nó là thuận lợi để đọc bằng máy trở nên không
còn khả năng tồn tại. Bởi vì, trong điều kiện hiện nay, thông tin từ tài liệu giấy có thể đọc
được nhờ máy quét. Cho nên, cần thiết phải có một khái niệm mới để thể hiện được những
loại tài liệu hình thành trong môi trường điện tử. Khái niệm đó phải bao quát được toàn bộ
vòng đời của tài liệu dưới dạng điện tử - từ khi soạn thảo cho đến khi tiêu hủy.” - Cảnh
Đương – Đức Mạnh, “Bàn về khái niệm tài liệu điện tử”, Tạp chí VTLT.VN, số 8/2008.
[14, tr.9]
Những khái niệm ban đầu về tài liệu điện tử được đưa ra từ sớm ở một số nước phát
triển trên thế giới là nguyên nhân dẫn tới sự bất đồng về quan điểm khi tài liệu điện tử được
giới nghiên cứu Việt Nam bước đầu quan tâm tìm hiểu. Do vậy, trong đề tài này, chúng tôi
sẽ căn cứ vào tiêu chuẩn ISO 15489 để đưa ra khái niệm về tài liệu điện tử. Theo tiêu chuẩn,
tài liệu điện tử cũng là tài liệu và Tài liệu điện tử là khái niệm để chỉ tất cả các tài liệu số
(digital document), bao gồm cả các tài liệu được tạo ra ngay từ đầu đã là tài liệu số (borndigital) và các tài liệu số hoá (digitalised).
1.1.3. Khái niệm tài liệu lưu trữ điện tử
Toàn bộ lĩnh vực lưu trữ hiện nay được điều chỉnh bởi Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia
ban hành từ năm 2001. Đến nay đã có nhiều văn bản quy phạm pháp luật được ban hành
điều chỉnh những vấn đề liên quan đến lưu trữ, nhưng các văn bản đó chưa thật sự đồng bộ
và thống nhất với pháp luật lưu trữ. Đồng thời, nhiều quan hệ xã hội mới hình thành mà khi
ban hành Pháp lệnh Lưu trữ quốc gia năm 2001 chưa thể dự liệu. Việc ra đời của luật về lưu
trữ là rất cần thiết. Giữa tháng 11/2011, Luật Lưu trữ đã được Quốc hội thông qua trong kỳ
họp thứ XIII và đã có những điều chỉnh nhất định về nội dung lưu trữ tì liệu điện tử. Tuy
nhiên, do Luật mới ban hành nên các văn bản dưới luật có vai trò hướng dẫn thực hiện Luật
vẫn chưa được xây dựng, đồng thời hiệu lực của Pháp lệnh Lưu trữ Quốc gia 2001 vẫn chưa
chấm dứt... Do vậy, có thể coi đây là thời điểm giao thời trong lĩnh vực lưu trữ nói chung và
lưu trữ tài liệu điện tử nói riêng.
Khái niệm Tài liệu lưu trữ điện tử là một khái niệm dựa trên cơ sở TLĐT kèm theo
giá trị thông tin ở các mức độ khác nhau của tài liệu. Cho tới thời điểm hiện tại – khi Luật
Lưu trữ chưa được chính thức có hiệu lực thì TLLTĐT đã được định nghĩa một cách khái
quát như sau: “Tài liệu lưu trữ điện tử là tài liệu điện tử có giá trị ở các mức độ khác nhau
về chính trị, khoa học, kinh tế, xã hội và các lĩnh vực khác được lưu trữ trong môi trường
điện tử thuộc sở hữu của nhà nước hoặc tư nhân.” – Vũ Thị Phụng - Nguyễn Thị Chinh,
“Một vài quan niệm về tài liệu điện tử”. [5, tr.9]
Đây là khái niệm không có giới hạn về nơi bảo quản cũng như quyền sở hữu tài liệu.
Bất kỳ TLĐT thuộc quyền sở hữu của nhà nước hoặc tư nhân có giá trị về các mặt chính trị,
văn hóa, xã hội, kinh tế, khoa học… ở các mức độ khác nhau đều là TLLTĐT.
Ngoài ra, mọi tài liệu được bảo quản trong kho lưu trữ đều phải được lập thành hồ sơ.
Tài liệu lưu trũ điện tử cũng cần phải được lập thành các hồ sơ điện tử. Theo ISO 15489-1,
ta có các khái niệm sau:
- Hồ sơ là thông tin do tổ chức hoặc cá nhân tạo lập, tiếp nhận và duy trì để làm bằng
chứng và báo cáo theo trách nhiệm pháp lý hoặc trong các giao dịch công việc.
- Lĩnh vực quản lý hồ sơ chịu trách nhiệm kiểm soát quá trình tạo lập, tiếp nhận, duy
trì, sử dụng và xác định giá trị hồ sơ một cách có hiệu quả và hệ thống, bao gồm cả các quá
trình thu nhận và duy trì bằng chứng thông tin về các hoạt động và giao dịch công việc dưới
hình thức hồ sơ.
- Hệ thống hồ sơ là hệ thống thông tin nhằm tạo lập, quản lý và đảm bảo sự tiếp cận
hồ sơ tài liệu theo thời gian.
Các khái niệm này có thể áp dụng cho cả hệ thống hồ sơ tài liệu giấy cũng như hệ
thống hồ sơ điện tử.
Để nắm hiểu thuật ngữ phục vụ cho việc triển khai các vấn đề ở các nội dung phía
sau của luận văn, chúng tôi xin đưa ra cách hiểu chung nhất về hồ sơ điện tử như sau : Hồ sơ
điện tử là một hồ sơ tồn tại trên phương tiện lưu giữ điện tử, được tạo ra, được truyền đạt,
được duy trì và/ hoặc được khai thác bởi các phương tiện điện tử.
Do có những sự khác nhau giữa hồ sơ điện tử và hồ sơ giấy, việc nghiên cứu xác định
rõ cấu trúc của hồ sơ điện tử là một một vấn đề quan trọng. Một hồ sơ điện tử cần phải là
một hồ sơ có khả năng lưu trữ, có một định dạng sử dụng lâu dài, được đóng gói, bao gồm
cả siêu dữ liệu về hồ sơ, siêu dữ liệu về từng tài liệu đóng gói trong hồ sơ và các tệp nội
dung tài liệu, phải được ký điện tử để xác nhận sự toàn vẹn.
Qua khảo sát, một số hướng dẫn, tiêu chuẩn quốc tế về Quản lý hồ sơ theo tiêu chuẩn
ISO 15489-1 xác định một cách đầy đủ hơn các đặc trưng (yêu cầu chung và 4 đặc trưng cụ
thể) của hồ sơ (trong đó có hồ sơ điện tử) như sau:
* Tính xác thực
Hồ sơ được chứng minh là có tính xác thực khi hồ sơ đó:
- được lập đúng với mục đích đã định;
- được lập hoặc gửi đi bởi chính người được giao trách nhiệm đó;
- được lập hoặc gửi đi đúng thời hạn đã định.
Để đảm bảo tính xác thực của hồ sơ, tổ chức cần thực hiện và lập văn bản về các
chính sách và thủ tục kiểm soát đối với việc tạo lập, tiếp nhận, chuyển giao, duy trì và xác
định giá trị hồ sơ, nhằm đảm bảo rằng những người lập hồ sơ là những người được xác nhận
có thẩm quyền và và các hồ sơ được bảo vệ, tránh việc bổ sung, xoá bỏ, thay đổi, sử dụng và
che giấu không được phép.
* Tính tin cậy
Hồ sơ đáng tin cậy là hồ sơ mà nội dung của nó có thể tin tưỏng khi sử dụng để thể
hiện đầy đủ và chính xác các giao dịch, hoạt động hay sự việc được chứng thực và nội dung
đó có thể phụ thuộc vào tiến trình của các giao dịch hoặc hoạt động kế tiếp. Hồ sơ phải được
lập tại thời điểm diễn ra giao địch hoặc sự việc liên quan. hoặc ngay sau đó bởi những người
có hiểu biết trực tiếp về sự việc hoặc bằng những công cụ thường được sử dụng trong phạm
vi công việc để tiến hành giao dịch.
* Tính toàn vẹn
Hồ sơ toàn vẹn là hồ sơ đã hoàn tất và không thay đổi.
Hồ sơ cần được bảo vệ tránh sự thay đổi không được phép. Các chính sách và thủ tục
quản lý hồ sơ cần quy định rõ những bổ sung hoặc chú giải nào có thể được phép thêm vào
hồ sơ sau khi hồ sơ đã được lập, trong bối cảnh nào và ai là người được phép thực hiện. Mọi
chú giải, bổ sung hay xóa bỏ được phép đối với hồ sơ đều cần được chỉ rõ và dễ dàng nhận
biết.
* Tính khả dụng
Hồ sơ khả dụng là hồ sơ có thể định vị được, truy tìm được, trình bày được và giải
thích được. Hồ sơ phải có khả năng trình bày liên tục do được nối kết trực tiếp với các hoạt
động tác nghiệp hoặc giao dịch đã tạo ra nó. Những liên kết hồ sơ theo ngữ cảnh nên có
thông tin cần thiết để hiểu được các giao dịch đã tạo ra và sử dụng những hồ sơ này. Hồ sơ
cũng phải có khả năng xác định được trong ngữ cảnh những hoạt động và chức năng công
việc rộng hơn. Các mối liên kết giữa các hồ sơ là các tài liệu phản ánh trình tự của các hoạt
động cũng cần phải được duy trì.
“Những hồ sơ có những đặc trưng này sẽ có đầy đủ nội dung, cơ cấu và bối cảnh để
cung cấp một sự giải thích hoàn chỉnh về các hoạt động và các giao dịch mà các hồ sơ liên
quan, và chúng sẽ phản ánh các quyết định, các hành động, và các trách nhiệm. Nếu những
hồ sơ như thế được duy trì theo một cách bảo đảm có thể truy cập được, hiểu được và sử
dụng được, thì những hồ sơ đó sẽ có thể h trợ các nhu cầu hoạt động và sẽ được sử dụng
cho các mục đích làm chứng lý theo thời gian”. [54, tr.13]
1.1.4. Đặc điểm tài liệu điện tử
Trong quá trình nghiên cứ về tài liệu điện tử, chúng tôi nhận thấy, dưới m i góc độ
khác nhau thì tài liệu điện tử sẽ bộc lộ những đặc điểm nổi trội khác nhau. Ta lấy ví dụ nhỏ
như sau: nếu so sánh giữa tài liệu điện tử và tài liệu giấy, thì đặc điểm nhận biết sự khác biệt
đầu tiên của hai loại hình tài liệu chính là phương tiện mang tin và cách ghi tin: giấy – vật
mang tin điện tử; chữ viết - ký tự số. Nhưng nếu đứng ở góc độ công nghệ thì tài liệu điện tử
lại nổi lên những đặc điểm như: vòng đời tài liệu hoàn toàn nằm trong môi trường mạng; dễ
bị virus xâm nhập làm hư hỏng thông tin; chịu ảnh hưởng bởi tính l i thời của công nghệ…
Do vậy, để đưa ra những đặc điểm của tài liệu điện tử thì chúng tôi đã đi sâu tìm hiểu
và khái quát những đặc trưng cốt lõi, mang tính gốc rễ mà từ đây sẽ có thể suy luận ra rất
nhiều đặc điểm hệ quả phát sinh khác của tài liệu điện tử. Tài liệu điện tử là một loại tài liệu
đặc biệt. Tính đặc biệt của tài liệu điện tử được thể hiện ở các điểm sau:
Đầu tiên là đặc điểm về cách biểu diễn thông tin.
Thông tin có thể được biểu diễn bằng nhiều cách khác nhau tùy theo mục đích và đối
tượng. Để máy tính xử lí thông tin thì thông tin lưu trữ trong máy tính phải được biểu diễn
dưới dạng phù hợp. Con người khi trao đổi thông tin với nhau thường dùng các con số trong
hệ số thập phân 0-9 và mẫu tự trong ngôn ngữ loài người là A-Z (a-z). Để có thể tiếp cận
thông tin giữa người và máy tính, cần phải có một máy dịch từ hệ số thập phân sang hệ số
nhị phân. Khi một TLĐT được tạo ra và lưu lại, nó được chuyển giao và chuyển đổi từ một
dạng thức người đọc sang đọc bằng máy. Phiên bản đọc bằng máy đó chính là phần thông
tin được ghi lại cấu thành tài liệu.
Trong máy tính người ta sử dụng dãy bit (còn gọi là dãy nhị phân) để biểu diễn thông
tin. Dãy bit bao gồm hai ký hiệu : 0 và 1. Trong đó:
+ Kí hiệu số 1 ứng với trạng thái có tín hiệu.
+ Kí hiệu số 0 ứng với trạng thái không có tín hiệu.
Ví dụ : Số 10 được biểu diễn dưới dạng dãy bit là 00001010 ; Chữ A được biểu diễn
dưới dạng dãy bit là: 01000001...
Thông tin đưa vào máy tính sẽ được biến đổi thành dãy bit và kết quả sau xử lí sẽ
được biến đổi dưới dạng văn bản, âm thanh hoặc hình ảnh để con người có thể tiếp nhận
được. Thông tin được lưu giữ trong máy tính gọi là dữ liệu. Trong hệ thống máy tính, "kích
cỡ" của dữ liệu vô cùng nhỏ. Vì vậy, một số lượng rất lớn dữ liệu lại có thể được quản lý
không gian tương đối nhỏ so với các hình thức thông tin khác, chẳng hạn như các bản ghi
trên giấy. Trong khi tài giấy cần được bảo quản trong nhà kho cố định với diện tích rộng lớn
thì số lượng tương đương với thông tin điện tử có thể chỉ cần được quản lý bởi một máy chủ
máy tính có kích thước của một chiếc tủ lạnh. Như vậy, kích thước nhỏ làm cho việc lưu trữ
dữ liệu điện tử trở nên tương đối "rẻ tiền" và dữ liệu điện tử sẽ được truy cập dễ dàng hơn
bởi một số lượng lớn người sử dụng. Điều này tồn tại trong nó cả hai mặt tích cực và hạn
chế.
Thứ hai là đặc điểm kết nối nội dung và phương tiện mang tin.
Không chỉ các thao tác đối với tài liệu điện tử không thể tách rời yếu tố công nghệ, mà
ngay ban thân nội dung, cấu trúc của tài liệu điện tử cũng không nằm ngoài sự tác động đó.
Tài liệu điện tử chỉ được đọc và xử lý khi nó gắn với một vật mang tin điện tử (như thẻ nhớ,
băng đĩa...) và vật mang tin này tương thích kỹ thuật với môi trường mạng hiện hành. Tuy
nhiên, thông tin tài liệu điện tử lại không hề gắn cố định với một vật mang tin cụ thể, mà trái
lại, nó hoàn toàn có thể được chuyển đổi từ thiết bị này đến thiết bị khác. Như vậy, cấu trúc
vật lý của tài liệu điện tử là không bất biến.
Vấn đề đặt ra ở đây là : khi cấu trúc vật lý của tài liệu thay đổi như vậy thì cần phải có
yếu tố gì để đảm bảo cho tính nguyên vẹn thông tin của tài liệu? Đó chính là cấu trúc logic
của tài liệu điện tử. Cấu trúc logic như vậy của một TLĐT thường là cấu trúc mà người tạo
lập văn bản tạo ra trên màn hình của mình. Để có thể được coi là hoàn chỉnh và xác thực thì
tài liệu phải giữ lại được cấu trúc đó và hệ thống máy tính phải tái tạo được cấu trúc ban
đầu, khi chuyển đổi tài liệu trở lại dạng con người có thể đọc được. Cấu trúc logic của một
TLĐT được biểu diễn bởi và được lưu lại dưới dạng ký hiệu hay dữ liệu (ký tự thập phân).
Vì vậy, các đặc tính kỹ thuật của phương pháp mã hoá đó phải luôn sẵn sàng cho bất kỳ lần
truy cập nào.
Đặc điểm thứ ba là siêu dữ liệu của tài liệu điện tử (metadata).
Hiểu một cách đơn giản thì siêu dữ liệu (metadata) là dữ liệu để mô tả dữ liệu. Khi dữ
liệu được cung cấp cho người sử dụng, thông tin metadata sẽ cung cấp những thông tin cho
phép họ hiểu rõ hơn bản chất về dữ liệu mà họ đang có. Những thông tin này sẽ giúp cho
người dùng có được những quyết định sử dụng đúng đắn và phù hợp về dữ liệu mà họ có.
Tuỳ thuộc vào từng mục đích sử dụng khác nhau, từng loại dữ liệu khác nhau mà cấu trúc và
nội dung dữ liệu metadata có thể có những sự khác biệt. Song, nhìn chung sẽ bao gồm một
số loại thông tin cơ bản sau:
Thông tin mô tả về bản thân siêu dữ liệu
Thông tin về dữ liệu mà siêu dữ liệu mô tả
Thông tin về cá nhân, tổ chức liên quan đến siêu dữ liệu và dữ liệu
Trên thế giới, thuật ngữ "siêu dữ liệu" đã được nghiên cứu nền tảng và chuẩn hóa
trong các tiêu chuẩn như : tiêu chuẩn quốc gia Nga GOST 7.70-2003, tiêu chuẩn quốc tế
ISO – 23081, tiêu chuẩn quốc tế ISO 15489... Trong đó, tiêu chuẩn quốc tế ISO 15489 định
nghĩa siêu dữ liệu như các dữ liệu mô tả ngữ cảnh, nội dung, cấu trúc và quản lý tài liệu theo
thời gian. Xây dựng siêu dữ liệu là điều cần thiết cho việc bảo quản và sử dụng hồ sơ điện
tử, bởi nó cung cấp các thông tin cơ bản cần thiết về cách thức và thời gian dữ liệu được tạo
ra, được thu nhận và được định dạng.
Đối với tài liệu lưu trữ thì : sách chỉ dẫn các phông lưu trữ; mục lục hồ sơ; ấn
phẩm thông tin giới thiệu tài liệu lưu trữ là một dạng siêu dữ liệu của tài liệu lưu trữ và như
vậy các cơ sở dữ liệu tương ứng là một dạng siêu dữ liệu của cơ sở dữ liệu thông tin cấp 1
của tài liệu lưu trữ.
Thực ra trong hoạt động thông tin lưu trữ truyền thống, từ lâu đã có những khái niệm
liên quan đến siêu dữ liệu. Các bản thư mục chứa các dữ liệu mô tả đối tượng như bộ thẻ
phông, các bộ thẻ về hồ sơ theo chuyên đề, theo tác giả,... cũng được coi như là một dạng
siêu dữ liệu. Với việc tự động hóa công tác biên mục, các bộ thẻ được thay thế bằng biểu ghi
thư mục. Như vậy thành phần siêu dữ liệu còn có thể được trình bày trong biểu ghi, vì vậy
biểu ghi này được coi là biểu ghi siêu dữ liệu (metadata record) của đối tượng được cơ sở dữ
liệu quản lý. Với tài nguyên truyền thống trên giấy, thông tin mô tả được bố trí nằm ngoài
đối tượng mà nó mô tả (Ví dụ, trên phiếu nhập tin trong biểu ghi của CSDL). Nhờ những
yếu tố mô tả như vậy, người ta có thể xác định và tìm kiếm lại được tài liệu một cách chính
xác theo một vài yếu tố.
Ngoài những đặc điểm bản chất của tài liệu điện tử nêu trên, ta có thể dễ dàng nhận
thấy những đặc điểm hệ quả khác như : bản chất "phù du" và sự l i thời của kỹ thuật, tính
bất ổn và sự toàn vẹn thông tin của TLĐT, tính đa truy cập và khả năng cho phép nhiều
người sử dụng cùng một tài liệu trong cùng một thời điểm...
Trên cơ sở đó, những đặc điểm sau đây được coi là quan trọng để xác định tài liệu điện
tử:
Tồn tại một cách hoàn chỉnh và không bị sửa đổi như khi nó được tạo ra và lưu giữ
lúc ban đầu;
Có mối liên kết rõ ràng với các tài liệu khác ở bên trong hoặc bên ngoài hệ thống số
thông qua một mã số phân loại hoặc các chỉ số nhận dạng riêng khác dựa trên nguyên
tắc phân loại;
Có ngữ cảnh hành chính, có thể nhận dạng được;
Có tác giả, địa chỉ và người tạo ra;
Phản ánh một vấn đề, một sự việc, một đối tượng cụ thể hoặc có một số đặc điểm
chung.
Mặc dù tài liệu điện tử có tính đặc biệt như vậy, song nó cũng thực hiện chính các
chức năng và có ý nghĩa như các tài liệu truyền thống. Ngày nay, nhiều người vẫn còn cho
rằng tài liệu điện tử được coi là nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của luật pháp lưu trữ, lý do là tài
liệu điện tử trong các hệ thống thông tin có thể dễ dàng bị chỉnh sửa mà không hề để lại bất kỳ
một dấu vết nào. Chính vì lẽ đó mà giá trị của chúng như là bằng chứng pháp lý nhìn chung là
yếu, nếu không muốn nói là chúng không được thừa nhận. Tiến bộ liên quan tới sự thừa nhận
tài liệu điện tử trong các thủ tục tố tụng pháp lý chỉ có thể đạt được nếu các hệ thống thông tin
được thiết kế để giữ lại những bằng chứng tin cậy và an toàn về tất cả các hoạt động tác nghiệp
của các cơ quan, tổ chức. Các phương pháp đặc biệt phải được thực hiện và các quy định quốc
tế được thiết lập, nhằm bảo đảm tính xác thực của những thông tin được chuyển tải thông qua
các mạng công cộng như Internet.
1.2.
Quản lý tài liệu điện tử
1.2.1. Quan niệm về quản lý tài liệu điện tử
Quản lý, theo nghĩa hẹp được hiểu là “trông coi, giữ gìn và theo dõi việc gì” như quản lý
hồ sơ, tài liệu… (Đại Từ điển Tiếng Việt – Nguyễn Như Ý chủ biên)[65, tr.1363]. Hiểu theo
nghĩa rộng, thì quản lý là một hoạt động thiết yếu của con người nhằm thiết kế và duy trì một
môi trường làm việc bên trong và bên ngoài của tổ chức, sao cho nó bảo đảm sự phối hợp
những n lực của các cá nhân, các bộ phận để hoàn thành các nhiệm vụ và mục tiêu đã định,
trên cơ sở sử dụng tốt nhất các nguồn tài nguyên (bao gồm nhân lực, tài chính, công nghệ và
thiên nhiên). Quá trình quản lý được xác định như một chu i các hoạt động định hướng theo
mục tiêu, trong đó các hành động cơ bản là: xây dựng kế hoạch, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và
kiểm soát. Việc thực hành quản lý cũng đòi hỏi cách tiếp cận theo tình huống, nghĩa là nhà
quản lý phải xét tới thực tại của một tình huống cụ thể khi họ áp dụng các lý thuyết, các nguyên
tắc hoặc kỹ thuật.
Thuật ngữ quản lý tài liệu (Record management) được định nghĩa trong tiêu chuẩn
ISO 15489 như là một trong những lĩnh vực quản lý có chức năng kiểm tra thường xuyên và
hiệu quả đối với việc lập, tiếp nhận, bảo quản, sử dụng và phổ biến tài liệu, trong đó có các
quá trình tập hợp (thu thập) và bảo quản các bằng chứng có tính chất tài liệu và thông tin
được tài liệu hoá về hoạt động quản lý và những thao tác quản lý riêng biệt. Nói cách khác,
“quản lý tài liệu” đó là chức năng tổ chức của sự quản lý tài liệu nhằm mục đích đảm bảo
nhu cầu cấp bách của hoạt động kinh doanh, đảm bảo các yêu cầu của các cơ quan quyền lực
và những kỳ vọng của xã hội. Một số quốc gia quan niệm rằng quản lý hệ thống tài liệu
được xem là một giai đoạn cao hơn trong sự phát triển của những khái niệm như: “công tác
văn thư”, “đảm bảo tài liệu cho quản lý”. Nếu như “công tác văn thư” có vai trò thực hiện
chức năng kỹ thuật của quản lý, còn “đảm bảo tài liệu cho quản lý” là chức năng bổ trợ, thì
trong điều kiện xã hội thông tin hiện đại, quản lý hệ thống tài liệu trong tổ chức đóng vai trò
chức năng cơ bản của quản lý.
Trong đề tài này, chúng tôi nghiên cứu việc áp dụng tiêu chuẩn ISO 15489 vào quản lý
tài liệu lưu trữ điện tử, có nghĩa là nghiên cứu việc áp dụng tiêu chuẩn vào các công việc như
xây dựng kế hoạch áp dụng, triển khai thực hiện, đánh giá chất lượng, đào tạo nhân lực… chứ
không đơn thuần chỉ là xây dựng một hệ thống tin học để quản lý tài liệu điện tử. Đây là cách
mà chúng tôi hiểu thuật ngữ “quản lý” theo nghĩa rộng. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai,
chúng tôi cũng sử dụng nghĩa hẹp của thuật ngữ quản lý, đó là khi đề cập tới việc tổ chức, lưu
- Xem thêm -