Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ,độ mặn đến quá trình phát triển phôi và ảnh hư...

Tài liệu Nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ,độ mặn đến quá trình phát triển phôi và ảnh hưởng của một số loại thức ăn tươi sống đến tăng trưởng, tỷ lệ sống từ giai đoạn cá bột lên hương của cá song lai (cá song vua đự

.PDF
62
375
132

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG ------ NGUYỄN ĐỨC TUẤN NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA NHIỆT ĐỘ, ĐỘ MẶN ĐẾN QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN PHÔI VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA MỘT SỐ LOẠI THỨC ĂN TƯƠI SỐNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG, TỶ LỆ SỐNG TỪ GIAI ĐOẠN CÁ BỘT LÊN HƯƠNG CỦA CÁ SONG LAI (♂ cá song vua Epinephelus lanceolatus và ♀ cá song hổ Epinephelus fuscoguttatus) LUẬN VĂN THẠC SĨ KHÁNH HÒA - 2015 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG ------ NGUYỄN ĐỨC TUẤN NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA NHIỆT ĐỘ, ĐỘ MẶN ĐẾN QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN PHÔI VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA MỘT SỐ LOẠI THỨC ĂN TƯƠI SỐNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG, TỶ LỆ SỐNG TỪ GIAI ĐOẠN CÁ BỘT LÊN HƯƠNG CỦA CÁ SONG LAI (♂ cá song vua Epinephelus lanceolatus và ♀ cá song hổ Epinephelus fuscoguttatus) LUẬN VĂN THẠC SĨ Ngành: Nuôi trồng thủy sản Mã số: 60620301 Quyết định giao đề tài: 1007/QĐ-ĐHNT ngày 7/10/2014 Quyết định thành lập HĐ: Ngày bảo vệ: Người hướng dẫn khoa học: TS. PHẠM QUỐC HÙNG (chữ ký) Chủ tịch Hội đồng: TS. NGUYỄN TẤN SỸ (chữ ký) Khoa sau đại học: KHÁNH HÒA - 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan mọi kết quả của đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng của nghiệt độ, độ mặn đến quá trình phát triển phôi và ảnh hưởng của một số loại thức ăn tươi sống đến tăng trưởng, tỷ lệ sống từ giai đoạn cá bột lên cá hương của cá song lai giữa ♂ cá song vua Epinephelus lanceolatus và ♀ cá song hổ Epinephelus fuscoguttatu”. Là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi và chưa từng được công bố trong bất cứ công trình khoa học nào khác cho tới thời điểm này. Ngày 01 tháng 10 năm 2015 Tác giả luận văn Nguyễn Đức Tuấn iii LỜI CẢM ƠN Trong suốt thời gian thực hiện đề tài, tôi đã nhận được sự giúp đỡ của quý phòng ban trường Đại học Nha Trang, Trung tâm Quốc gia Giống hải sản miền Bắc đã tạo điều kiện tốt nhất cho tôi được hoàn thành đề tài. Đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của TS. PHẠM QUỐC HÙNG đã giúp tôi hoàn thành tốt đề tài. Qua đây, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến sự giúp đỡ này. Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình và tất cả đồng nghiệp đã giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài. Tôi xin chân thành cảm ơn! Ngày 01 tháng 10 năm 2015 Tác giả luận văn Nguyễn Đức Tuấn iv MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN....................................................................................................... iii LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................iv MỤC LỤC...................................................................................................................v DANH MỤC BẢNG .................................................................................................vii TRÍCH YẾU LUẬN VĂN..........................................................................................ix CHƯƠNG 1. MỞ ĐẦU ...............................................................................................1 1.1. Tính cấp thiết của đề tài.....................................................................................1 1.2. Mục tiêu của đề tài ............................................................................................2 1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài............................................................2 CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ......................................................................3 2.1. Đặc điểm sinh học của cá song ..........................................................................3 2.2. Nghiên cứu và sản xuất cá song lai trên thế giới và Việt Nam ...........................6 2.3. Tình hình nghiên cứu và sản xuất cá song lai trên thế giới.................................7 CHƯƠNG 3: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU..............................16 3.1. Nội dung .........................................................................................................16 3.2. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu ...............................................................16 3.3. Phương pháp bố trí thí nghiệm ........................................................................18 3.4. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu ...........................................................21 CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN.....................................22 4.1. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến sự phát triển của phôi cá song lai ........................22 4.2. Ảnh hưởng của độ mặn đến sự phát triển của phôi, tỷ lệ nở và tỷ lệ ấu trùng dị hình của cá song lai ................................................................................................24 4.3. Ảnh hưởng của thức ăn tươi sống lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng cá song lai giai đoạn từ 0 ngày tuổi đến khi biến thái hoàn toàn...............................................26 v 4.3.1 Ảnh hưởng của thức ăn tươi sống lên tỷ lệ sống của ấu trùng cá song lai giai đoạn 0 - 12 ngày tuổi ..........................................................................................26 4.3.2 Ảnh hưởng của thức ăn tươi sống lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng cá song lai giai đoạn từ 12 ngày tuổi đến khi biến thái hoàn toàn (56 ngày tuổi) ............27 CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .............................................................30 5.1. Kết luận...........................................................................................................30 5.2. Đề xuất ý kiến .................................................................................................30 TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................31 PHỤ LỤC vi DANH MỤC BẢNG Bảng 3.1: Thức ăn dùng trong thí nghiệm 1.............................................................20 Bảng 4.1. Thời gian phát triển phôi của cá song lai ở các nhiệt độ ấp khác nhau ........22 Bảng 4.2. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến thời gian nở, tổng thời gian nở, tỷ lệ nở và tỷ lệ ấu trùng dị hình của cá song lai .................................................................23 Bảng 4.3. Ảnh hưởng của độ mặn đến thời gian nở, tổng thời gian nở, tỷ lệ nở, tỷ lệ ấu trùng dị hình của cá song lai......................................................................25 Bảng 4.4: Tỷ lệ sống (%) của cá song lai giai đoạn 0 - 12 ngày tuổi khi được cho ăn các loại thức ăn khác nhau ..............................................................................27 Bảng 4.5: Tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá song lai ở giai đoạn ương từ cá 12 ngày lên hương với các nghiệm thức thức ăn khác nhau.......................................28 vii DANH MỤC HÌNH Hình 3.1: Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu ................................................................18 Hình 3.2: Bố trí thí nghiệm ảnh hưởng của nhiệt độ và độ mặn .................................19 viii TRÍCH YẾU LUẬN VĂN Nghiên cứu ảnh hưởng của nghiệt độ, độ mặn đến quá trình phát triển phôi và ảnh hưởng của một số loại thức ăn tươi sống đến tăng trưởng từ giai đoạn cá bột lên cá hương của cá song lai giữa ♂ cá song vua (Epinephelus lanceolatus) và ♀ cá song hổ (Epinephelus fuscogutatus), nhằm xác định được ngưỡng nhiệt độ, độ mặn thích hợp cho quá trình phát triển phôi và tìm ra loại thức ăn tươi sống thích hợp cung cấp cho ấu trùng cá song lai giai đoạn từ bột lên hương. Thí nghiệm ảnh hưởng của nhiệt độ, độ mặn lên quá trình phát triển phôi được tiến hành ở các mức nhiệt 20 oC, 24 oC, 28 oC, 32 oC, 36 oC và độ mặn được tiến hành ở các mức 10 ‰, 15 ‰, 20 ‰, 25 ‰, 30 ‰, 35 ‰. Trứng cá song lai ở cả hai thí nghiệm được ấp trong bình thủy tinh có dung tích 1 lít với mật độ 1000 trứng/lít, mỗi nghiệm thức lập lại 3 lần, các yếu tố phi thí nghiệm đồng nhất giữa các nghiệm thức. Thời gian phát triển phôi được tính từ giai đoạn 4 tế bào đến khi 50 % ấu trùng hoàn tất chuyển giai đoạn và nở. Thí nghiệm ảnh hưởng của thức ăn tươi sống ở giai đoạn ương từ 0 - 12 ngày tuổi, ấu trùng cá song được thử nghiệm với 4 nghiệm thức thức ăn khác nhau: (1) luân trùng Brachionus rotundifrormis, (2) copepoda nauplius Paracalanus sp + luân trùng Brachionus plicatilis, (3) ấu trùng trochophore hầu Thái Bình Dương Crassostrea gigas + luân trùng Brachionus plicatilis, (4) luân trùng Brachionus plicatilis + copepoda naupli Paracalanus sp+ ấu trùng trochophore hàu Thái Bình Dương Crassostrea gigas và 1 nghiệm thức đối chứng không cho ăn. Cá bột cá song lai (12 ngày tuổi) được thử nghiệm ương bằng ba loại thức ăn khác nhau (Artemia nauplii -Vĩnh Châu, Artemia nauplii – Inve, và copepoda nauplius Paracalanus sp + copepoda Paracalanus sp trưởng thành) trong thí nghiệm 2. Kết quả nghiên cứu về nhiệt độ và độ mặn của nước trong quá trình ấp có ảnh hưởng tới quá trình phát triển phôi của cá song lai. Nhiệt độ 20 oC và 36 oC và độ mặn thấp (10 – 20 ‰) không phù hợp cho sự phát triển phôi của cá song lai. Ấp trứng cá song lai ở nhiệt độ 28 oC cho tỷ lệ nở cao nhất (91 ± 2,0 %) và tỷ lệ dị hình của ấu trùng thấp nhất (4,4 ± 1,1 %) (P <0,05). Trứng cá song lại có tỷ lệ nở cao nhất và tỷ lệ dị hình của ấu trùng thấp nhất khi ấp trứng ở độ mặn 30 ‰, lần lượt là 90,3 ± 2,1 % và 2,9 ± 0,5 % (P<0,05). Kết quả nghiên cứu về thức ăn tươi sống kết hợp giữa copepoda nauplius Paracalanus sp và luân trùng Brachionus plicatilis cho tỷ lệ sống của ấu trùng cá song lai cao nhất ở giai đoạn ương đến 12 ngày tuổi (8,47 ± 0,91%) (p<0,05) . Ở giai đoạn ương cá bột 12 ngày tuổi lên cá hương 56 ngày ix tuổi, kết hợp copepoda nauplius (Paracalanus sp) và copepoda (Paracalanus sp) trưởng thành làm thức ăn, cá song lai cho tốc độ tăng trưởng đạt 35,9 ± 1,1 mm và tỷ lệ sống cao nhất (17,8 ± 1,5 %) so với với Artemia nauplii Vĩnh Châu và Inve (p<0,05). Như vây, nhiệt độ và độ mặn thích hợp nhất cho việc ấp nở trứng cá song lai lần lượt là 28 o C và 30 ‰ (Tỷ lệ nở > 90 % và tỷ lệ dị hình thấp < 5 %). Nên lựa chọn công thức thức ăn kết hợp giữa copepoda nauplius Paracalanus sp và luân trùng Brachionus plicatilis ở giai đoạn ương đến 12 ngày tuổi mặt khác kết hợp copepoda nauplius (Paracalanus sp) và copepoda (Paracalanus sp) trưởng thành làm thức ăn ở giai đoạn ương cá 12 ngày tuổi lên cá hương. Qua các kết quả nghiên cứu đạt được chúng ta nên thử nghiệm thêm các công thức thức ăn khác hoặc đan xen cung cấp nhiều loại thức ăn tươi sống với mật độ thích hợp hoặc kết hợp với thức ăn công nghiệp để tăng tỷ lệ sống và tốc độ sinh trưởng của ấu trùng cá song lai ở giai đoạn từ cá bột lên cá hương. Từ khóa: Cá song lai, Thời gian, phát triển phôi, sinh trưởng, thức ăn tươi sống, tỷ lệ sống x CHƯƠNG 1. MỞ ĐẦU 1.1. Tính cấp thiết của đề tài Thị trường cá song- cá rạn san hô tươi sống đã và đang hình thành ở khu vực Đông Nam châu Á. Trong các loài cá song đang được nuôi hiện nay, cá song vua (Epinephelus lanceolatus) được công nhận là loài có tiềm năng lớn cho nuôi trồng thủy sản do tốc độ sinh trưởng của chúng và cấu trúc quần đàn cá song vua trong tự nhiên sẽ không cho phép duy trì một nghề cá dựa hoàn toàn vào tự nhiên. Có rất ít loài có tốc độ sinh trưởng nhanh như cá song vua do chúng có thể đạt 15 kg trong vòng 3 năm nuôi với FCR có thể dưới 1.5 khi sử dụng thức ăn viên công nghiệp.Tuy nhiên việc phát triển nuôi cá song nói chung và cá song vua nói riêng hiện vẫn gặp nhiều khó khăn do những thất bại trong quá trình sản xuất giống cá song và tỉ lệ sống của ấu trùng thấp (Glamuzina et al., 2001; Glamuzina et al., 1999; Kiriyakit et al., 2011). Do đó, lai giữa hai loài cá song khác nhau để tạo ra con lai khỏe mạnh, có tốc độ tăng trưởng nhanh, có khả năng thích nghi với sự thay đổi của môi trường đang là hướng đi hiện nay trong sinh sản nhân tạo và nuôi thương phẩm các loài cá song. Có rất nhiều con lai đã được tạo ra từ sự thành công của các phép lai như cá song sẫm màu E. marginatus x cá song trắng E. aeneus (Glamuzina et al., 1999); cá song hổ E. fuscogutatus x cá song ngụy trang E. polyphekadion (James et al., 1999); cá song sọc vàng E. costae x cá song sẫm màu E. marginatus (Glamuzina et al., 2001); cá song da báo P. leopardus x cá song chấm P. maculatus (Frisch và Hobbs, 2007); cá song chấm nâu E. coioides x cá song vua E. lanceolatus (Koh et al., 2010); hay nghiên cứu gần đây nhất của (Kiriyakit et al., 2011) đã lai tạo thành công cá song chấm nâu E. coioides x cá song vua E. lanceolatus khi sử dụng tinh trùng đông lạnh. Mặc dù đã có rất nhiều nghiên cứu trong sinh sản cá song lai nhưng số lượng cá song lai được sản xuất thấp do tỷ lệ sống của ấu trùng cá song lai trong sản xuất nhân tạo không cao. Sản xuất giống cá song lai gặp nhiều khó khăn do nuôi vỗ và kích thích sinh sản chưa thành công, tỷ lệ nở của trứng và chất lượng của ấu trùng còn thấp (Glamuzina et al., 2001; Glamuzina et al., 1999; Kiriyakit et al., 2011; Tseng và Poon, 1983). Hiện nay, Việt Nam đã làm chủ được nhiều công nghệ sản xuất giống cá biển như cá giò (R. canadum); cá song chấm nâu (Epinephelus coioides); cá song hổ (Epinephelus fuscoguttatus), cá song chuột (Cromileptes altivelis) (Đề tài 1 KC06.04/06-10: Nghiên cứu công nghệ sản xuất giống và nuôi thương phẩm một số loài cá biển có giá trị kinh tế cao). Tuy nhiên, việc sản xuất cá song lai hiện nay đang ở giai đoạn nghiên cứu và thử nghiệm. Cuối năm 2011, Trung tâm Quốc gia giống Hải sản miền Bắc (Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản 1) đã nghiên cứu thăm dò sản xuất giống cá song lai (♂ Epinephelus lanceolatus x ♀ Epinephelus fuscoguttatus) trên cơ sở đàn cá song hổ và song vua hiện đang nuôi giữ tại Trung tâm. Kết quả ban đầu cho thấy những tín hiệu khả quan cho việc xây dựng quy trình công nghệ sản xuất giống đối tượng nuôi mới này. Các chỉ tiêu bước đầu đạt: tỷ lệ thụ tinh đạt 45 %, tỷ lệ nở 30 %, tuy nhiên tỷ lệ sống thành cá giống còn thấp và mới đạt 0,6 - 0,9 %. Muốn sản xuất giống cá song lai thành công thì biết được quá trình phát triển của cá từ những giai đoạn đầu tiên như phát triển phôi, ấu trùng hay cá bột là điều rất quan trọng. Bên cạnh đó, việc tìm hiểu ảnh hưởng của các yếu tố môi trường, các loại thức ăn hay nhu cầu dinh dưỡng của cá trong các giai đoạn này đều có thể dẫn đến sự cải tiến trong kỹ thuật sản xuất giống, tăng chất lượng cũng như số lượng con giống được tạo ra. Để nâng cao tỷ lệ sống ấu trùng cá song lai, giảm tỷ lệ dị hình trong quá trình phát triển phôi và tìm ra nguồn thức ăn tươi sống thích hợp cung cấp cho ấu trùng cá song lai (♂ cá song vua E. lanceolatus và ♀ cá song hổ E. fuscoguttatus ) từ giai đoạn ấu trùng mới nở (bắt đầu ăn thức ăn ngoài) lên cá hương (56 ngày tuổi); Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu: “Nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ, độ mặn đến quá trình phát triển phôi và ảnh hưởng của một số loại thức ăn tươi sống đến tăng trưởng, tỷ lệ sống từ giai đoạn cá bột lên cá hương của cá song lai giữa ♂ cá song vua Epinephelus lanceolatus và ♀ cá song hổ Epinephelus fuscogutatus”. 1.2. Mục tiêu của đề tài ‒ Nâng cao tỷ lệ nở và chất lượng ấu trùng tốt hơn. ‒ Tăng tỷ lệ sống và tốc độ tăng trưởng. 1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ‒ Góp phần nâng cao tỷ lệ sống, chất lượng và số lượng cá song lai giống trong sinh sản nhân tạo. ‒ Tạo ra một giống cá mới phù hợp với nuôi trồng thủy sản lợ mặn ở Việt Nam. 2 CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. Đặc điểm sinh học của cá song Cá song hay còn gọi là cá mú là cá nhiệt đới thuộc phân họ Epinephelinae có phân bố rộng rãi ở Đông Đại Tây Dương và Địa Trung Hải. Cá song được nuôi nhiều ở các nước Đông Nam á như Indonesia, Malaysia, Philippines, Đài Loan, Thái Lan, Hồng Kông, phía đông nam Trung Quốc và Việt Nam. Ở Việt Nam, hiện nay có khoảng 30 loại cá song, trong đó 8 loài có giá trị kinh tế cao, đạt tiêu chuẩn xuất khẩu như cá song vua E. lanceolatus, cá song hổ E. fuscogutatus, cá song vạch E. brunneus, cá song chấm tổ ong E. merra, cá song chấm đỏ E. akaara, cá song cọp E. megachir, cá song sọc vàng E. costae, cá song mỡ E. tauvina. Hệ thống phân loại Giới Animalia Ngành Chordata Lớp Actinopterygii Bộ Perciformes Họ Serranidae Họ phụ Epinephelinae Giống Loài Epinephelus Epinephelus akaara (Temminck & Schlegel, 1842) Epinephelus brunneus (Bloch, 1793) Epinephelus costae (Steindachner, 1878) Epinephelus fuscoguttatus (Forsskål, 1775) Epinephelus lanceolatus (Bloch, 1790) Epinephelus merra (Bloch, 1793) Epinephelus megachir (Richardson, 1846) Epinephelus tauvina (Forsskål, 1775) ………………………………. 3 Đặc điểm hình thái Cá song là cá rạn san hô, có nhiều hình dạng, màu sắc và hoa văn cơ thể khác nhau. Chúng có miệng khá lớn và hàm răng sắc nhọn. Miệng và mang của cá song được cấu tạo như là một hệ thống hút để nuốt con mồi. Kích thước của các loài cá song khác nhau thường khác nhau, chúng có thể lên đến hàng trăm ki lo gram như cá song vua. Đặc điểm dinh dưỡng Khi mới nở, ấu trùng cá song dinh dưỡng bằng noãn hoàng. Khi hết noãn hoàng cá sử dụng thức ăn bên ngoài như ấu trùng các loài giáp xác, nhuyễn thể, luân trùng… phù hợp với kích cỡ của miệng cá. Sau giai đoạn biến thái, cá có thể sử dụng thức ăn tổng hợp hoặc tự chế hoặc thức ăn tươi sống. Thức ăn trong giai đoạn này phải lơn hơn 45 % protein. Khi lớn lên, cá song thường ăn các loại cá con, tôm, mực… Cá thích ăn mồi sống, không ăn mồi chết và thức ăn chìm ở đáy. Nhìn chung, cá song thuộc nhóm cá dữ, thức ăn thiên về động vật, có tập tính rình bắt mồi ở nơi yên tĩnh. Cá song có tính tranh giành thức ăn dữ dội. Khi thiếu thức ăn, chúng có thể ăn thịt lẫn nhau. Trong môi trường nuôi nhốt, cá thường được cho ăn thức ăn tự chế biến từ các nguồn nguyên liệu có sẵn ở địa phương như: cá tạp, cua, ốc, các phụ phế phẩm… Đặc điểm sinh trưởng Tốc độ tăng trưởng của cá song lai khác nhau tùy thuộc vào từng loài. Cá song chuột có tốc độ sinh trưởng chậm, phải cần đến 2 năm cá mới đạt kích cơ thương phẩm (Lê Xân, 2006). Tuy nhiên, cá song vua lại là loài có tốc độ sinh trưởng nhanh, chúng có thể đạt 15 kg trong vòng 3 năm nuôi. Đặc điểm sinh sản Cá song thành thục lần đầu khi đạt khoảng 3 năm tuổi. Mùa vụ sinh sản của cá song tùy thuộc vào từng vùng địa lý, cá thường đẻ trứng vào thời kỳ ấm áp. Ở phía Bắc nước ta, cá song sinh sản vào tháng 4 - 7; ở miền Trung và miền Nam mùa sinh sản rơi vào tháng 12 đến tháng 3 năm sau. Hệ số thành thục và sức sinh sản của cá song tùy theo loài. 4 Cá song có tập tính chuyển đổi giới tính, cá còn nhỏ dưới 50 cm đều là cá cái, khi đạt chiều dài 70 cm trở lên thì chuyển thành cá đực. Cá song là loài có sức sinh sản tương đối lớn. Một con cá song chấm đỏ E. akaara có thể đẻ thành công từ 5 - 7 lần từ tháng 7 đến tháng 10 ở Philipin. Nói chung, cá song có thể sinh sản từ 200.000 – 500.000 trứng tùy thuộc tuổi và tùy từng loài. Môi trường sống và tập tính sinh thái Cá song thích sống ở các hốc đá, vùng ven bờ quanh các đảo có đá san hô, nơi có độ sâu từ 10-30m. Cá thích hợp ở nhiệt độ từ 22 – 28 oC, ở nhiệt độ 15 oC cá hầu như không hoạt động và bỏ ăn. Cá song vua Epinephelus lanceolatus Cá song vua E. lanceolatus có tên tiếng Anh là Giant Grouper hoặc King Grouper. Cá phân bố ở vùng biển Ấn Độ-Thái Bình Dương từ Biển Đỏ đến Nam Châu Phi đến Đông Hawaii và Đảo Pitcairn, từ vùng biển Nhật Bản đến Đài Loan, Philippines, Việt Nam, Indonesia, Thái Lan, Australia (Heemstra và Randall, 1993). Chúng sống ở các địa hình khác nhau từ vùng nước nông có nhiều rạn đá san hô, quanh các đảo tới vùng biển sâu xa bờ (Radall & Heemstra, 1991; Pogonoski et al, 2002). Tại Việt Nam, cá song vua phân bố ở vùng biển Quảng Ninh-Hải Phòng, Nam Định, Quảng Trị, vùng biển Cà MauKiên Giang. Đây là loài sống ẩn nấp trong các rạn đá san hô, hang hốc hoặc những nơi có các xác tàu đắm để rình mồi. Tuy nhiên cũng bắt gặp chúng ở các vùng cửa sông, hoặc ở ngoài khơi... Khi còn nhỏ chúng thường ăn giáp xác loại nhỏ khi trưởng thành thức ăn đa dạng hơn như: cá, tôm, cua, ghẹ. Cá song vua là loài có kích thước lớn lớn nhất rạn san hô (cá lớn nhất được tìm thấy có kích thước 260 cm nặng 288 kg). Cá thường ẩn nấp ở các rạn đá san hô, hang hốc nằm chờ con mồi tới gần rồi đớp gọn. Mồi của chúng đa phần là những loài động vật sống đáy như tôm, cua, cá, mực... Cá song vua săn mồi suốt ngày, mạnh nhất vào lúc chạng vạng và rạng đông (Đào Mạnh Sơn, Đỗ Văn Nam, (1994). Cá song vua là loài có tốc độ sinh trưởng nhanh. Tăng trưởng của cá song vua có thể đạt về khối lượng là 1.6 - 1.9 g/ngày và về chiều dài là 0.035 - 0.058 cm/ngày. Cá song vua cũng là đối tượng nuôi phổ biến đối với các chủ trang trại do có tốc độ sinh trưởng nhanh với 3 kg/1 năm đầu (Sadovy et al., 2003). 5 Cá song vua là loài cá thành thục muộn hoặc kích cỡ khi thành thục lớn. Tuyến sinh dục ở cá song vua phát triển khi khối lượng cá > 3 kg và thành thục khi chúng đạt khối lượng 17-20 kg và kích thước 100-110 cm đối với cá cái, 25-30 kg và kích thước 110-120 cm đối với cá đực. Cá song hổ Epinephelus fuscoguttatus Cá song hổ E. fuscoguttatus còn được gọi là cá song vằn hay cá mú cọp, có tên tiếng Anh là Tiger Grouper. Cá song hổ phân bố rộng ở vùng biển Ấn Độ Dương Thái Bình Dương. Chúng xuất hiện ở hầu khắp các đảo thuộc Ấn Độ Dương và phía Tây trung tâm Thái Bình Dương, dọc theo thềm lục địa phía Đông Phi đến Môzămbich. Từ Madagasca đến Ấn Độ, Thái Lan, Inđônêsia, vùng biển nhiệt đới Australia, Nhật Bản, Philippin, New Guinea và New Caledonia. Chúng sống chủ yếu ở các vùng biển ấm và biển mặn, có rạn đá san hô hay nền đáy có đá tạo thành hang hốc, độ sâu từ 1 - 60m và có độ trong cao. Cá song hổ thích ăn mồi sống, thức ăn của chúng là các loài giáp xác, cá và một số loài nhuyễn thể (FAO, 1993). Ở Việt Nam, cá song hổ tập trung ở vùng biển miền Trung và Nam Bộ, chủ yếu là vùng biển Phú Quý Bình Thuận (Đào Mạnh Sơn, Đỗ Văn Nam, (1994). Cá song hổ có chiều dài từ 60 – 70 cm, lớn nhất là 120 cm. Cá song hổ thường sinh sản vào tháng 3 - 5 hàng năm. Trứng thụ tinh nở ra ấu trùng sau 19 – 21 h ấp. Các nghiên cứu mới đây cho thấy cá song hổ có sức sinh sản thấp. Cá bố mẹ sau 4 tuổi mới có thể thành thục và tham gia sinh sản và lượng trứng/ lần đẻ dao động từ 200.000 - 500.000 trứng tùy kích thước cá cái (Mike Rimmer, 2000). Cá Song hổ có có tập tính chuyển đổi giới tính, khi cá cái khi trưởng và chuyển thành cá đực khi kích thước của chúng lớn hơn (70 cm). Indonexia và Đài Loan là hai nước đầu tiên cho sinh sản thành công cá song hổ từ năm 1999, tiếp đó là Malaixia, Thái Lan thành công năm 2002 với tỷ lệ sống khoảng 2 %. Ở Việt Nam, cá song hổ sinh sản nhân tạo thành công năm 2008 (Lê Xân, 2010) 2.2. Nghiên cứu và sản xuất cá song lai trên thế giới và Việt Nam Hiện nay, lai tạo giữa các loài hoặc các nhóm có sự tương đồng hoặc khác biệt về mặt di truyền để tạo ra con lai có ưu thế lai là những tính trạng vượt trội đang được áp dụng hiệu quả. Trong nuôi trồng thủy sản, lai tạo giữa hai loài khác nhau từ lâu đã 6 được sử dụng để cải chất lượng con giống (Bartley et al., 2000; Hulata, 1995). Cá song (Epinephelus spp) là đối tượng nuôi biển có giá trị kinh tế cao và đang được nuôi nhiều ở khu vực Châu Á. Tuy nhiên việc phát triển nuôi cá song hiện vẫn gặp khó khăn do con giống không đủ cung cấp cho thị trường, giá cao và chất lượng không đảm bảo. Lai giữa hai loài cá song khác nhau để tạo ra con lai khỏe mạnh,có tốc độ tăng trưởng nhanh, có khả năng thích nghi với sự thay đổi của môi trường đang là hướng đi hiện nay trong sinh sản nhân tạo và nuôi thương phẩm cá song 2.3. Tình hình nghiên cứu và sản xuất cá song lai trên thế giới Năm 1999, James và ctv thực hiện thử nghiệm lai giống giữa cá song hổ (Ephinephelus fuscoguttatus) và cá song ngụy trang (Epinephelus polyphekadion) chỉ ra rằng kích cỡ mới nở của ấu trùng con lai dao động 1,67 - 1,81 mm nhỏ hơn ấu trùng mới nở của (Epinephelus fuscoguttatus) (1,83 – 1,93 mm) và lớn hơn ấu trùng mới nở của (Epinephelus polyphekadion) (1,55-1,71 mm). Ấu trùng con lai và song hổ sinh trưởng nhanh hơn so với (Epinephelus polyphekadion) sau 25 ngày ương. Vào ngày thứ 35, kích cỡ trung bình của con lai (21,5 ± 0,629 mm) cao hơn đáng kể so với hai loài bố mẹ cá song hổ 18,80 ± 1,578 mm và cá song ngụy trang 15,8 ± 1,166 mm. Cá song lai đạt kích cỡ 3 cm mất 40 ngày, trong khi cá song hổ mất 45 ngày và cá song ngụy trang mất 50 ngày. Tốc độ sinh trưởng và biến thái nhanh là ưu điểm lớn đối với việc sản xuất giống thương mại, nó giúp tiết kiệm không gian, thời gian và tận dụng nguồn nhân công. Năm 2000, Glamuzina và ctv đã tiến hành việc thụ tinh giữa trứng của cá song sọc vàng (Epinephelus costae) với tinh của cá song sẫm màu (Epinephelus marginatus). Trứng thu được từ con cái và tinh của con đực được trộn với nhau trong khoảng 3 phút sau đó thêm 1 lít nước biển khử trùng vào. Sau 15 phút, hỗn hợp trứng và tinh trùng được rửa qua nước biển có độ mặn 38 ‰ và thêm từ từ 2 lít nước biển vào để phân biệt trứng nổi và chìm. Trứng chìm là trứng không thụ tinh sẽ được loại bỏ ra khỏi bể ấp, các trứng nổi là trứng tốt tiếp tục được ấp cho tới khi nở. Năm 2008, Koh và cs. nghiên cứu đặc điểm sinh học của ấu trùng con lai giữa cá song chấm nâu (Epinephelus coioides) và cá song hổ (Epinephelus fuscoguttatus), sự phát triển trứng và ấu trùng được quan sát trong điều kiện nhân tạo. Trứng mới rụng từ con cái (Epinephelus coioides) 7,5 kg/con có đường kính là 0,81 ± 0,02 mm và nặng 7 3.505 trứng/g. Sau khi thụ tinh với tinh nhận được từ con đực cá song hổ có đường kính 0,83 ± 0,02 mm. Trứng nở vào 17h30 phút đến 19h00 sau khi thụ tinh tại 29 °C và 30 ‰. Tỷ lệ thụ tinh và nở lần lượt là 93,9 % và 50,3 %. Ấu trùng mới nở có chiều dài toàn thân 1,52 ± 0,01 mm và chuyển động trên bề mặt nước. Ấu trùng bắt đầu ăn thức ăn ngoài vào ngày thứ 3 sau khi nở và cơ quan tiêu hóa được hình thành và mắt có sắc tố. Ấu trùng cho thấy loại sắc tố điển hình của giống loài cá song và sự khác nhau của vây lưng và gai lưng được quan sát trước tiên tới ngày thứ 10 sau khi nở và sau đó kéo dài ra. Ấu trùng bắt đầu chuyển môi trường sống từ trôi nổi sang sống đáy vào ngày thứ 40. Tổng số 750 cá hương được sản xuất từ 21.500 ấu trùng mới nở với chiều dài TL 22,8 ± 3,6 mm. Tiếp đó, Anocha Kiriyakit và ctv (2011) trong nghiên cứu lai giữa cá đực cá song vua (Epinephelus lanceolatus) và cá cái cá song chấm nâu (Epinephelus coioides) đã thực hiện thành công việc thụ tinh và ấp nở trứng. Sau khi rụng trứng (khoảng 1012 h sau khi tiêm liều thứ hai), trứng được thu, mẫu trứng thu sẽ được đổ vào trong đĩa petri có chứa 3 chất bổ sung và 2 chất chống đông lạnh. Tinh trùng tươi (10 µL) hay tinh đông lạnh (200 µL) được nhỏ vào trứng (sấp xỉ 9,0 x 105 tinh trùng/trứng) và trộn đều nhẹ nhàng trong 3 phút, 10 ml nước biển sạch (30 ‰) được chộn đều trong đĩa petri để cho tinh trùng và trứng hoạt động. Sau 15 phút, trứng được rửa và chuyển tới bình có thể tích 1 L có chứa 0,8 L nước. Đá khí có đường kính 1 cm được đặt trong bình 1 L để chộn đều trứng. Sau 2 giờ ấp, tắt đá khí để loại bỏ trứng hỏng là trứng chìm, trứng nổi được lấy mẫu và chuyển tới bình 1 L khác với thể tích 0,5 L nước, đá khí được đặt vào vị trí giữa của bình. Nhiệt độ nước (28 - 29 °C) được đảm bảo bằng việc đặt bình ấp vào trong 1 khay có kích thước (60 x 45 x 30 cm) tại độ sâu 10 cm sử dụng heater nâng nhiệt và trứng được ấp cho tới khi nở. Nghiên cứu sản xuất giống cá song lai giữa tinh của cá song vua (Epinephelus lanceolatus) và trứng của cá song hổ (Epinephelus fuscoguttatus) sử dụng kỹ thuật thụ tinh in-vitro được nghiên cứu thành công lần đầu tiên bởi các nhà khoa học tại trường đại học Sabah Malaysia vào năm 2006. Đây là kết quả của nhiều năm hợp tác nghiên cứu của Viện nghiên cứu biển Borneo, cơ quan phát triển nghề cá của Malaysia (LKIM) và đại học Kinki của Nhật Bản đã cho ra đời giống cá lai có các đặc điểm hình thái là sự kết hợp của cá đực cá song vua và cá cái cá song hổ. Con lai có sức đề kháng 8 cao với bệnh, sinh trưởng nhanh và đây được coi là bước cải tiến to lớn đối với ngành nuôi trồng thủy sản (http://www.ecoisland.com.sg/our-fishes/giant-tiger-hybridgrouper.html). Sau đó, Indonexia là quốc gia thứ hai thành công trong việc sản xuất giống cá song lai giữa tinh của cá song vua (Epinephelus lanceolatus) với trứng của cá song hổ (Epinephelus fuscoguttatus) nhưng các kết quả thu được còn rất ít như: con lai có đặc điểm hình thái giống cá bố mẹ, khả năng chống chịu bệnh và tốc độ sinh trưởng được tăng lên (http://terataisepuluh.blogspot.com/2013/02/hybrid-grouper-fish.html). Để nâng cao hiệu quả của việc sản xuất giống cá lai thì nuôi vỗ là một trong những bước đi đóng vai trò quan trọng cho việc thành công trong sản xuất giống cá lai bởi vì trứng và tinh chịu ảnh hưởng trực tiếp từ giai đoạn nuôi vỗ. Nghiên cứu và sản xuất cá song lai trong nước Ở Việt Nam, công nghệ sản xuất giống cá song lai vẫn chưa có nghiên cứu bài bản và cụ thể. Cuối năm 2011, Trung tâm Quốc gia giống Hải sản miền Bắc (Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản 1) đã nghiên cứu thăm dò sản xuất giống cá song lai Epinephelus hybrid (♂ Epinephelus lanceolatus x ♀ Epinephelus fuscoguttatus) trên cơ sở đàn cá song hổ và song vua hiện đang nuôi giữ tại Trung tâm. Kết quả ban đầu cho thấy những tín hiệu khả quan cho việc xây dựng quy trình công nghệ sản xuất giống đối tượng nuôi mới này. Các chỉ tiêu bước đầu đạt: Vào mùa sinh sản của cá song hổ, tỷ lệ cá cái thành thục đạt >60 %, trong khi đó tỷ lệ thành thục của cá đực song vua chỉ đạt >15 % (thành thục không đồng pha). Các chỉ tiêu khác như tỷ lệ thụ tinh đạt 45 %, tỷ lệ nở 30 %, tuy nhiên tỷ lệ sống thành cá giống còn thấp và mới đạt 0,6 - 0,9 %. Sản phẩm cá giống đạt 700 con được chuyển ra bè của Trung tâm Quốc gia giống Hải sản miền Bắc - Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản I để nuôi thử nghiệm. Cho đến nay sau 20 tháng nuôi thương phẩm cá đạt khối lượng 2,5 – 3,5 kg/con. Tóm lại, các nghiên cứu về sản xuất giống cá song lai tại Việt Nam còn rất ít, chủ yếu mang tính chất thăm dò, các chỉ tiêu sinh sản đạt ở mức rất thấp, tiềm năng phát triển nuôi lớn do cá lớn nhanh, ít bệnh, thị trường tiêu thụ tốt. Một số nghiên cứu đặc điểm sinh học, thức ăn của ấu trùng cá song lai. 9 Năm 1999, James và cs. thực hiện thử nghiệm lai giống giữa cá song hổ (Ephinephelus fuscoguttatus) và cá song ngụy trang (Epinephelus polyphekadion) chỉ ra rằng kích cỡ mới nở của ấu trùng con lai dao động 1,67 - 1,81 mm. Kỹ thuật sinh sản nhân tạo đã không ngừng được nghiên cứu và đã có những bước tiến đáng kể trong những thập niên vừa qua, đó là làm chủ các công nghệ sinh sản các loài cá song như: cá song hổ, cá song chấm nâu, cá song chuột, cá song vua... một thành tựu khác mới được biết đến đó là công nghệ lai giữa các loài cá song điển hình là: Epinephelus lanceolatus x Epinephelus fuscoguttatus, Epinephelus lanceolatus x Epinephelus coides, Epinephelus costae x E. Marginatus... (Epinephelus fuscoguttatus) (1,83–1,93 mm) và lớn hơn ấu trùng mới nở của (Epinephelus polyphekadion) (1,55-1,71 mm). Ấu trùng con lai và song hổ sinh trưởng nhanh hơn so với (Epinephelus polyphekadion) sau 25 ngày ương. Vào ngày thứ 35, kích cỡ trung bình của con lai (21,5 ± 0,629 mm) cao hơn đáng kể so với hai loài bố mẹ cá song hổ 18,80 ± 1,578 mm và cá song ngụy trang 15,8 ± 1,166 mm. Cá song lai đạt kích cỡ 3 cm mất 40 ngày, trong khi cá song hổ mất 45 ngày và cá song ngụy trang mất 50 ngày. Tốc độ sinh trưởng và biến thái nhanh là ưu điểm lớn đối với việc sản xuất giống thương mại, nó giúp tiết kiệm không gian, thời gian và tận dụng nguồn nhân công. Năm 2008, Koh và cs. nghiên cứu đặc điểm sinh học của ấu trùng con lai giữa cá song chấm nâu (Epinephelus coioides) và cá song hổ (Epinephelus fuscoguttatus), sự phát triển trứng và ấu trùng được quan sát trong điều kiện nhân tạo. Trứng mới rụng từ con cái (Epinephelus coioides) 7,5 kg/con có đường kính là 0,81 ± 0,02 mm và nặng 3.505 trứng/g. Sau khi thụ tinh với tinh nhận được từ con đực cá song hổ có đường kính 0,83 ± 0,02 mm. Trứng nở vào 17h30 phút đến 19h00 sau khi thụ tinh tại 29 °C và 30 ‰. Tỷ lệ thụ tinh và nở lần lượt là 93,9 % và 50,3 %. Ấu trùng mới nở có chiều dài toàn thân 1,52 ± 0,01 mm và chuyển động trên bề mặt nước. Ấu trùng bắt đầu ăn thức ăn ngoài vào ngày thứ 3 sau khi nở và cơ quan tiêu hóa được hình thành và mắt có sắc tố. Ấu trùng cho thấy loại sắc tố điển hình của giống loài cá song và sự khác nhau của vây lưng và gai lưng được quan sát trước tiên tới ngày thứ 10 sau khi nở và sau đó kéo dài ra. Ấu trùng bắt đầu chuyển môi trường sống từ trôi nổi sang sống đáy vào ngày thứ 40. Tổng số 750 cá hương được sản xuất từ 21.500 ấu trùng mới nở với chiều dài toàn thân 22,8 ± 3,6 mm. 10
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất