Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu ảnh hưởng của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến sự biến động đất nông...

Tài liệu Nghiên cứu ảnh hưởng của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến sự biến động đất nông nghiệp huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội

.PDF
87
516
60

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN --------------------- Phan Đức Tuấn NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA VÀ ĐÔ THỊ HÓA ĐẾN SỰ BIẾN ĐỘNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC Hà Nội - Năm 2012 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN --------------------- Phan Đức Tuấn NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA VÀ ĐÔ THỊ HÓA ĐẾN SỰ BIẾN ĐỘNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành: Khoa học Môi trường Mã số: 608502 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TSKH Nguyễn Xuân Hải Hà Nội - Năm 2012 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1 Chương 1- TỔNG QUAN TÀI LIỆU ...................................................................... 3 1.1 Một số khái niệm ............................................................................................... 3 1.2 Nghiên cứu ngoài nước ...................................................................................... 3 1.3 Nghiên cứu trong nước .................................................................................... 11 1.4 Nghiên cứu ảnh hưởng của công nghiệp hóa, đô thị hóa đến sự biến động đất nông nghiệp vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc ...................................................... 17 Chương 2- ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...... 30 2.1 Đối tượng nghiên cứu ...................................................................................... 30 2.2 Nội dung nghiên cứu ....................................................................................... 30 2.3 Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 31 Chương 3- KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .................................................................. 33 3.1 Điều kiện tự nhiên huyện Đông Anh ................................................................ 33 3.1.1. Vị trí địa lý ............................................................................................ 33 3.1.2. Thời tiết, khí hậu ................................................................................... 34 3.1.3 Địa hình ................................................................................................. 35 3.2 Điều kiện kinh tế- xã hội.................................................................................. 39 3.3 Ảnh hưởng của công nghiệp hóa, đô thị hóa đến diện tích đất nông nghiệp khu vực nghiên cứu ...................................................................................................... 41 3.3.1 Tình hình phát triển công nghiệp ............................................................ 41 3.3.2 Tình hình phát triển đô thị ...................................................................... 44 3.3.3 Ảnh hưởng của công nghiệp hóa, đô thị hóa đến diện tích đất nông nghiệp ....................................................................................................................... 46 3.4 Ảnh hưởng của công nghiệp hóa, đô thị hóa đến chất lượng đất nông nghiệp khu vực nghiên cứu ...................................................................................................... 55 3.5 Nguyên nhân làm suy giảm chất lượng đất nông nghiệp do quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa ........................................................................................... 63 3.6 Đề xuất các biện pháp trong quản lý và sử dụng hiệu quả quỹ đất nông nghiệp 66 3.6.1. Các giải pháp hạn chế ô nhiễm môi trường đất ...................................... 66 3.6.1.1 Giải pháp về quy hoạch KCN, đô thị gắn với bảo vệ môi trường ......... 66 a. Lồng ghép BVMT với quy hoạch phát triển KT-XH của vùng .................... 66 b. Xem xét môi trường đối với quy hoạch phát triển công nghiệp ................... 67 c. Phát triển trồng cây xanh và bảo tồn mặt nước trong các đô thị và các khu công nghiệp huyện Đông Anh ......................................................................... 68 3.6.2 Giải pháp giáo dục môi trường ............................................................... 69 3.6.3 Giải pháp quan trắc môi trường .............................................................. 70 3.6.4 Giải pháp công nghệ xử lý chất thải ....................................................... 70 3.6.5 Giải pháp về khoa học công nghệ ........................................................... 70 KẾT LUẬN ........................................................................................................... 72 TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 73 PHỤ LỤC ............................................................................................................. 76 DANH MỤC BẢNG Nội dung Bảng 1.1 Danh sách các KCN đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tr. 18 tính đến tháng 10 năm 2009 ở các tỉnh trong vùng KTTĐPB Bảng 1.2. Dân số và tỷ lệ đô thị hóa các tỉnh vùng KTTĐPB 21 Bảng 1.3. Diễn biến diện tích năng suất sản lượng một số cây trồng chính 23 của 4 tỉnh thành phố: Hà Nội, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hải Dương Bảng 1.4. Giá trị sản xuất nông nghiệp theo giá cố định 1994 28 Bảng 1.5. Giá trị sản xuất bình quân/ha đất canh tác (giá trị thực tế) 28 Bảng 3.1. Phân bố sử dụng đất đai trong toàn huyện Đông Anh 35 Bảng 3.2. Dân số huyện Đông Anh tính từ năm 2005 đến năm 2011 40 Bảng 3.3. Cơ cấu dân số huyện Đông Anh chia theo giới tính 40 Bảng 3.4. Tỷ suất sinh tính từ năm 2005 đến năm 2011 40 Bảng 3.5. Danh sách các công ty trong khu công nghiệp, chế xuất huyện 43 Đông Anh Bảng 3.6. Dân số và tỷ lệ đô thị hóa huyện Đông Anh 45 Bảng 3.7. Biến động sử dụng đất nông nghiệp từ năm 2000 đến năm 2005 47 Bảng 3.8. Biến động đất lâm nghiệp giai đoạn 2000- 2005 48 Bảng 3.9. Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp huyện Đông Anh năm 2006 49 Bảng 3.10. Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp năm từ năm 2008- 2011 51 Bảng 3.11. Biến động sử dụng đất nông nghiệp giai đoạn 2006- 2011 53 Bảng 3.12. Cơ cấu sử dụng đất phần nông thôn đến năm 2020 huyện Đông 54 Anh Bảng 3.13. Thành phần dinh dưỡng trong bùn cát sông Hồng và sông 56 Đuống Bảng 3.14. Kết quả phân tích nước thải 63 Bảng 3.15. Hàm lượng kim loại nặng trong một số loại phân bón hóa học 65 (mg/kg) Bảng 3.16. Hàm lượng kim loại nặng trong một số loại phân hữu cơ 65 DANH MỤC HÌNH Nội dung tr. Hình 1.1. Các nguyên nhân làm suy thoái đất tại châu Á- Thái Bình Dương 9 Hình 3.1. Giá trị trung bình của As trong nước khu vực nghiên cứu 57 Hình 3.2. Giá trị trung bình của Hg trong nước khu vực nghiên cứu 57 Hình 3.3. Giá trị trung bình của Cd trong nước khu vực nghiên cứu 58 Hình 3.4. Giá trị trung bình của Pb trong nước khu vực nghiên cứu 59 Hình 3.5. Giá trị trung bình của Pb trong đất khu vực nghiên cứu 60 Hình 3.6. Giá trị trung bình của Cd trong đất khu vực nghiên cứu 61 Hình 3.7. Giá trị trung bình của Hg trong đất khu vực nghiên cứu 61 Hình 3.8. Giá trị trung bình của As trong đất khu vực nghiên cứu 62 BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT BH Bắc Hồng BVMT Bảo vệ môi trường CL Cổ Loa CNH Công nghiệp hóa ĐTH Đô thị hóa ĐBSH Đồng bằng sông Hồng GDP Tổng sản phẩm nội địa KC Kim Chung KCN Khu công nghiệp KN Kim Nỗ KTTĐPB Kinh tế trọng điểm phía Bắc KTXH Kinh tế xã hội NH Nam Hồng QCVN Quy chuẩn Việt Nam QH&TKNN Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp TD Tiên Dương TNHH Trách nhiệm hữu hạn TTCN Tiểu thủ công nghiệp UBND Ủy ban nhân dân VN Vân Nội LỜI MỞ ĐẦU Sau khi mở rộng, diện tích đất nông nghiệp Hà Nội mới có khoảng 192 nghìn ha (chiếm 54,7% diện tích tự nhiên), trong đó đất sản xuất nông nghiệp trên 160 nghìn ha. Diện tích đất này được quy hoạch đến năm 2020 nhằm: Phát triển nông nghiệp sinh thái, ven đô hình thành các vùng sản xuất hàng hóa quanh các đô thị, các vành đai rau an toàn, hoa, cây ăn quả sạch, phát triển rừng và cây xanh phục vụ cho các đô thị, khu công nghiệp, đảm bảo môi trường sinh thái của Thủ đô. Từng bước ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp, trước mặt tập trung vào khâu chọn giống, công nghệ canh tác tiên tiến và các sản phẩm mũi nhọn, xây dựng các trung tâm công nghệ cao. Sản xuất nông nghiệp Hà Nội sẽ tập trung chủ yếu vào các sản phẩm có thế mạnh của Thủ đô. Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa ở Thành phố Hà Nội, bên cạnh những mặt tích cực là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã hội nhanh để cải thiện chất lượng cuộc sống của con người, tất yếu sẽ phát sinh hàng loạt các vấn đề quan tâm: sự gia tăng mật độ dân số và phương tiện giao thông, đất đai bị suy giảm về số lượng và chất lượng, tài nguyên thiên nhiên được khai thác triệt để hơn, các chất thải ngày càng gia tăng về chủng loại lẫn số lượng, ô nhiễm môi trường từ đó cũng tăng nếu không có các biện pháp phòng ngừa, quản lý và xử lý tốt các chất thải. Trong những năm gần đây, đã có nhiều nghiên cứu có liên quan đến công nghiệp hóa, đô thị hóa phục vụ cho phát triển bền vững của vùng. Tuy nhiên, các nghiên cứu này hầu hết tập trung vào 12 vấn đề bảo vệ môi trường nói chung cho các khu công nghiệp, đô thị. Các nghiên cứu ảnh hưởng đến diện tích đất chỉ mang tính thông kê, ảnh hưởng đến chất lượng thì hầu như chưa có, ảnh hưởng đến môi trường đất chỉ mang tính chất cục bộ ở xung quanh một số khu công nghiệp cũ, làng nghề và một số vùng thâm canh cao. Nhiều mô hình nông nghiệp công nghệ cao đã 1 được xây dựng đem lại hiệu quả kinh tế cao, nhưng vốn đầu tư lớn, khó áp dụng trên diện rộng đặc biệt là đối với những hộ nông dân có nhiều đất nông nghiệp bị thu hồi. Những nghiên cứu về hệ thống các giải pháp để bố trí cơ cấu cây trồng, vật nuôi thích hợp với điều kiện khí hậu, đất đai của từng vùng trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trên một đơn vị diện tích, tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu vẫn khá ít và thiếu tính liên ngành. Kinh nghiệm của các nước tiên tiến cho thấy, cùng với quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, vấn đề bảo vệ và sử dụng hợp lý đất nông nghiệp là rất quan trọng, đặc biệt vùng đất chuyên canh cho năng suất cao. Vùng ven đô với sản xuất nông nghiệp, nông thôn ổn định, hiệu quả không chỉ hỗ trợ vùng nội đô mà còn tạo ra sự phát triển toàn diện, đồng bộ bền vững của cả vùng góp phần xây dựng Thành phố Hà Nội trở thành trung tâm lớn về chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học công nghệ, đầu mối giao lưu quốc tế trong xu hướng phát triển bền vững của cả nước. Vì vậy, cần thiết thực hiện đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến sự biến động đất nông nghiệp huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội”. 2 Chương 1- TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1 Một số khái niệm Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn là quá trình chuyển khu vực nông thôn từ nông nghiệp cổ truyền thành khu vực có nền kinh tế thị trường phát triển với hệ thống phân công lao động đạt trình độ cao, dựa trên nền tảng kỹ thuật- công nghệ hiện đại và hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu trong khuôn khổ quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa toàn bộ nền kinh tế. Đây cũng là quá trình đô thị hóa, cải biến xã hội nông thôn lên trình độ văn minh cao hơn, bảo đảm cho mọi người dân có đời sống vật chất và tinh thần ngày càng được nâng cao. Đô thị hóa là hiện tượng kinh tế- xã hội liên quan đến các dịch chuyển về mặt kinh tế- xã hội, văn hóa, không gian, môi trường sâu sắc gắn liền với những tiến bộ khoa học kỹ thuật, tạo đà thúc đẩy sự phân công lao động, chuyển đổi nghề nghiệp, hình thành các nghề nghiệp mới; thúc đẩy sự dịch cư vào trung tâm các đô thị và thúc đẩy phát triển kinh tế làm thay đổi đời sồng xã hội và văn hóa, nâng cao mức sống người dân và làm thay đổi cả lối sống và hình thức giao tiếp xã hội… Nông nghiệp hóa đô thị là một ngành sản xuất, chế biến và buôn bán thực phẩm, chất đốt (thể hiện tính cơ giới cao) dựa trên các vùng đất và mặt nước nằm xen kẽ, rải rác trong các đô thị và vùng ngoại ô. Theo cách hiểu truyền thống thì “nông nghiệp đô thị” là nông nghiệp trong các vùng cận thành phố hoặc đang trong quá trình đô thị hóa. Người ta còn hay gọi với tên gọi khác là nông nghiệp tiền ven đô thị hay nông nghiệp ven đô [9]. 1.2 Nghiên cứu ngoài nước 1.2.1 Nghiên cứu về mối quan hệ tương tác giữa phát triển công nghiệp và đô thị đến phát triển nông nghiệp và nông thôn Hiện nay, trên thế giới có nhiều quan điểm về vấn đề này. Trong đó, có thể kể tới 3 quan điểm tiếp cận là: 3 Quan điểm về tích lũy nông nghiệp trong quá trình chuẩn bị cho công nghiệp hóa. Theo quan điểm này, B.Johnson, J.Mellor cho rằng phát triển một nền nông nghiệp vững mạnh và năng động là tiền đề thúc đẩy công nghiệp hóa và tăng trưởng kinh tế. Quan điểm này thực chất nhấn mạnh vào việc khai thác càng nhiều càng càng tốt các nguồn lực của nông nghiệp và nông thôn để phục vụ cho công nghiệp hóa- đô thị hóa, coi nông nghiệp là nguồn tích lũy để phát triển công nghiệp. Lý thuyết phát triển công nghiệp hóa tập trung mà đại diện là Geoffrey, Hainsworth, Richard Bergeron… coi việc phát triển kinh tế trên cơ sở thúc đẩy nhanh phát triển công nghiệp và dịch vụ, bỏ qua phát triển nông nghiệp. Lý thuyết này hầu như không chú ý tới các vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn, coi nông thôn là địa bàn cấp đất cho đô thị hóa và là thị trường cung cấp lao động cho công nghiệp. Lý thuyết phát triển cân bằng mà đại diện là E.F.Schumachor, David C.Colander, Ray Cohn, Mark Morlork, cho rằng: trong kinh tế, khái niệm trung tâm của sự khôn ngoan là tính bền vững. Lý thuyết này coi trọng đầu tư cho nông nghiệp trên cơ sở tích lũy từ nông nghiệp và thương mại quốc tế, đề cao vai trò chủ động của con người là trọng tâm phát triển nhằm nâng cao năng suất, hiệu quả và lợi nhuận trong sản xuất. Các nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới về phát triển đô thị và sản xuất nông nghiệp cũng đã chỉ ra rằng: việc mở rộng đô thị trước hết lấy vào đất nông nghiệp và các khu vực cư trú của các sinh vật khác như vùng đật ngập nước, rừng… để mở mang đường xá, nhà cửa, các khu công nghiệp, thương mại du lịch, phát triển cơ sở hạ tầng và tập trung dân cư nên các hệ sinh thái trong đô thị có thể bị phá hoại hoặc được quản lý chặt chẽ. Nhiều sức ép về môi trường cũng làm thay đổi các yếu tố tự nhiên của các hệ sinh thái đô thị. Thảm thực vật bị ô nhiễm ở mức độ cao, các sông ngòi tự nhiên bị bồi lắng và lấp dần bởi rác và các chất ô nhiễm khác, bề mặt che phủ bị bê tông hóa làm ngăn cản nguồn nước mưa bổ sung cho nước dưới đất…[1]. 4 1.2.2 Nghiên cứu ảnh hưởng của công nghiệp hóa, đô thị hóa đến số lượng đất nông nghiệp Kinh nghiệm của các nước châu Á vốn lấy cây lúa nước là cây lương thực chính cho thấy qua mấy chục năm tiến hành công nghiệp hóa, đô thị hóa thì tỷ lệ mất đất canh tác từ 0,2- 2%/năm. Tỷ lệ mất đất canh tác trong thập niên 1980- 1990 của Trung Quốc là 0,5%/năm, Hàn Quốc 1,4%/năm, Đài Loan 2%/năm, Nhật Bản 1,6%/năm. Diện tích đất canh tác bị mất chủ yếu là đất lúa đã đe dọa an ninh lương thực. Để tăng sản lượng, nhiều nước đã tăng năng suất bằng cách sử dụng phân bón hóa học với liều lượng cao và kết quả là làm cho môi trường đất bị ô nhiễm. Trung Quốc: trong những năm 1990, thời kỳ đầu của quá trình cải cách, mở cửa, tốc độ đô thị hóa của Trung Quốc diễn ra rất nhanh chóng. Diện tích đất canh tác ngày càng bị thu hẹp, ước tính diện tích đất canh tác bị mất hàng năm trên 1 triệu ha, trong khi dân số Trung Quốc vẫn tiếp tục tăng. Để giải quyết vấn đề này chính phủ Trung Quốc đã xây dựng các mô hình xí nghiệp hương trấn (tên gọi chung của các xí nghiệp hoạt động ở nông thôn) hoạt động như các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhằm chuyển giao các thành tựu của công nghệ sinh học (lai tạo giống lúa, cây trồng và vật nuôi), thủy lợi hóa, cơ giới hóa và hóa học hóa nông nghiệp tại các vùng nông nghiệp ven đô để tạo ra sản phẩm hàng hóa có giá trị kinh tế cao phục vụ cho cư dân đô thị và xuất khẩu. Nhật Bản: quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa tại Nhật Bản diễn ra trong thời gian trước khi trở thành một cường quốc về công nghiệp. Tài nguyên đất đai của Nhật Bản hạn hẹp với diện tích đất canh tác nông nghiệp chưa đầy 14% diện tích lãnh thổ và chỉ có khoảng 0,8 ha đất nông nghiệp trên một gia đình. Vào giai đoạn 1979- 1999, diện tích đất nông nghiệp giảm bình quân 1%/năm (tương đương với 48,7 nghìn ha/năm), diện tích này chuyển sang mục đích phát triển đô thị và hình thành các khu công nghiệp. Theo số liệu thống kê, diện tích đất nông nghiệp giảm từ 5,4 triệu ha xuống còn 4,9 triệu ha, và tỷ trọng nông nghiệp của Nhật Bản chiếm chưa đầy 1% tổng giá trị sản xuất hàng năm (số liệu năm 2007). 5 Trình trạng thiếu lao động trầm trọng vào cuối thập niên 50, xu hướng này kéo dài cho tới tận ngày nay là một thách thức lớn đối với quá trình phát triển kinh tế. Sau khi bắt đầu tăng trưởng kinh tế nhanh chóng ở những năm 50 của thế kỷ 20, nhu cầu lớn về lao động tại các trung tâm công nghiệp đô thị khiến cho càng nhiều người rời bỏ nông thôn. Một phần lớn trong lực lượng làm nghề nông khi đó là những người trên 45 tuổi. Bên cạnh đó, rất nhiều người chỉ làm nghề này theo thời vụ và hơn một nửa lực lượng lao động là phụ nữ. Nếu năm 1960, 26,8% lực lượng lao động là nông dân thì đến năm 1995 chỉ còn 5,1%, và đến năm 2005 số cư dân trong khu vực nông thôn chỉ còn khoảng 21% so với tổng dân số toàn quốc. Để đảm bảo an ninh lương thực, tăng thu nhập cho người lao động ở khu vực nông thôn và những người bị mất đất canh tác, Chính phủ Nhật Bản đã xây dựng một đường lối phát triển trong nông nghiệp để củng có và xây dựng một hệ thống nông nghiệp bền vững hướng tới xuất khẩu các mặt hàng đặc biệt với giá trị kinh tế cao ra nước ngoài. Việc phát triển sản xuất tập trung vào các mặt hàng nông sản thực phẩm có giá trị kinh tế cao, sử dụng ít công lao động, không chiếm nhiều diện tích, đưa các quy trình tiến bộ về công nghệ sinh học vào sản xuất (sản xuất trong nhà kính, nhà lưới, nuôi trồng thủy canh…). Hình thành các trang trại canh tác lúa quy mô lớn, áp dụng biện pháp canh tác tiên tiến nhằm làm giảm giá thành và tăng năng suất cây trồng, các mạng lưới thu mua sản phẩm tiếp cận trực tiếp với người sản xuất. Hàn Quốc: cách đây 30 năm tổng sản phẩm quốc nội của Hà Quốc chỉ đứng ngang với các nước nghèo châu Phi và châu Á thì hiện nay, tổng sản phẩm quốc nội của Hàn Quốc xếp hạng 10 trên thế giới. Hàn Quốc cũng là một nước phát triển có sự tăng trưởng kinh tế nhanh nhất, với tốc độ tăng trương GDP bình quân là 5% mỗi năm- một phân tích gần đây nhất bởi Goldman Sachs năm 2007 đã chỉ ra GDP bình quân đầu người của đất nước này nhảy vọt từ 100 USD vào năm 1963 lên mức kỷ lục 10.000 USD vào năm 1995 và 25.000 USD vào năm 2007. 6 Trong những năm 1970 đến 1980, kinh tế Hàn Quốc tập trung vào ngành công nghiệp nặng và sản xuất ô tô. Với sự hỗ trợ của chính phủ, các cơ sở công nghiệp hình thành nhanh chóng như POSCO, Hyundai Heavy Industries và Samsung Heavy Industries, Hyundai Kia Automotive Group, đưa Hàn Quốc đứng vào các nước có nền công nghiệp hóa, đô thị hóa phát triển trên thế giới. Tổng diện tích đất sản xuất nông nghiệp của Hàn Quốc là 2,1 triệu ha (chiếm 17% diện tích bán đảo Triều Tiên), quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa đã làm diện tích đất nông nghiệp của Hàn Quốc mất hàng năm khoảng 1,4%/năm (28,8 nghìn ha/năm) cho phát triển công nghiệp, du lịch và các hoạt động ngoài nông nghiệp. Việc hình thành các khu công nghiệp, đô thị đã lấy đi những vùng đất mầu mỡ của Hàn Quốc và gây xói mòn đất đai, ô nhiễm do rác thải sinh hoạt và sản xuất, sức khỏe của con người bị đe dọa. Để sản xuất nông nghiệp trong điều kiện đất canh tác vùng ven đô ít, giá công lao động cao, từ đầu những năm 1990 nông nghiệp Hàn Quốc chuyển sang nông nghiệp công nghệ cao nhờ ứng dụng thành tựu của công nghệ sinh học, hóa học và điện tử vào nông nghiệp. Đài Loan: diện tích đất canh tác của Đài Loan rất nhỏ chỉ khoảng 851,5 nghìn ha và có tới 72% hộ nông dân có dưới 1 ha đất canh tác. Do ảnh hưởng của quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa, diện tích đất canh tác nông nghiệp hàng năm bị mất khoảng 17,03 nghìn ha, trong đó hình thành 128 cụm điểm dân cư thành thị với 5,97 nghìn ha. Do diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp và dân số lao động nông nghiệp ngày càng giảm nên nông nghiệp chủ yếu áp dụng ở quy mô sản xuất nhỏ có tính chất gia đình với các biện pháp thâm canh và thực hiện cơ giới hóa. Diện tích đất trồng lúa giảm để chuyển sang trồng rau, quả phục vụ cho nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Dân số và lao động nông nghiệp ngày càng giảm và chuyển lên các khu công nghiệp, đô thị tập trung. Theo số liệu thống kê tại Đài Loan nào năm 1994, tổng số đất canh tác nông nghiệp đã chuyển sang sử dụng cho các khu đô thị và công nghiệp không dưới 370 nghìn ha, 55% lực lượng lao động được tuyển dụng trong ngành dịch vụ. Ngoài ra, một số lớn nhân viên được 7 thu dụng vào các cơ quan xã hội, phục vụ cá nhân cũng như cộng đồng, những công ty tài chính, bảo hiểm và bất động sản [13]. 1.2.3 Nghiên cứu ảnh hưởng của công nghiệp hóa, đô thị hóa đến chất lượng đất nông nghiệp Theo kết quả nghiên cứu của Bộ Nông nghiệp Mỹ, trong những năm 19701980, do ảnh hưởng của công nghiệp hóa, những vùng đất mầu mỡ thích hợp cho canh tác nông nghiệp bị lấy đi, sản xuất lương thực chuyển lên các vùng đất cao, chặt phá rừng và canh tác trên đất dốc không có các biện pháp bảo vệ đất đã làm cho đất tại các khu vực canh tác bị xói mòn nghiêm trọng. Hàng năm tại các vùng đất canh tác nông nghiệp của Mỹ mất khoảng 3 tỷ tấn đất mặt. Để khắc phục tình trạng này, Chính phủ và Bộ Nông nghiệp Mỹ đã phải tiêu tốn khoảng 2 tỷ USD để phục hồi 16 triệu ha đất canh tác chuyển sang phương thức trồng cỏ và trồng rừng. Kết quả là đến giai đoạn 1991- 1995, diện tích được phục hồi. Để khắc phục hậu quả các chất độc hại tồn dư trong đất và làm sạch nguồn nước, Chính phủ Mỹ đã phải chi rất nhiều tiền vào công tác này, lợi nhuận của nông nghiệp Mỹ mất đi khoảng 1,2 tỷ USD/năm. Các nguyên nhân làm cho đất bị ô nhiễm gồm: Đất đai bị thoái hóa. Chặt phá rừng đầu nguồn. Suy giảm lượng nước dự trữ trong đất về số lượng và chất lượng, suy giảm lượng nước ngầm. Suy giảm nguồn tài nguyên biển và bờ biển, mất hệ sinh thái hoặc suy giảm hệ sinh thái, sinh vật. Đất đai bị nhiễm mặn. Rác thải, chất thải công nghiệp và đô thị ngấm vào đất. Sử dụng các chất độc hại, tồn dư hóa chất bảo vệ thực vật. 8 Đất đai bị xói mòn, sa mạc hóa và hoang mạc hóa. Quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa đã nảy sinh ra vấn đề ô nhiễm chất thải ảnh hưởng đến môi trường đất. Trung quốc là nước có tốc độ công nghiệp hóa và đô thị hóa cao nhất tại châu Á hiện tại, hàng năm lượng chất thải công nghiệp và đô thị tạo ra rất lớn. Năm 1990, cứ tạo ra được 1 USD sản phẩm thì Trung Quốc cũng tạo ra 2 kg chất thải công nghiệp (EASCAP,1995). Tuy nhiên, lượng rác thải này giảm đi chút ít vào năm 1995 thế kỷ 20 và môi trường cũng giảm bớt đi sự ô nhiễm (NEPA, 1993). Nông nghiệp tại các nước châu Á- Thái Bình Dương là ngành sản xuất chủ yếu từ hàng thế kỷ qua. Nhưng gần đây, đất đai dùng cho sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp, để tạo ra năng suất cao người lao động đã sử dụng phân hóa học, thuốc trừ sâu, chất kích thích sinh trưởng với một số lượng lớn, nồng độ cao và do đó gây ô nhiễm đất, xói mòn đất đai và gây hại cho con người. Hình 1.1. Các nguyên nhân làm suy thoái đất tại châu Á- Thái Bình Dương (Nguồn: [1]) Thống kê của FADINAP năm 1993 cho thấy: Sản xuất nông nghiệp tại các nước thuộc châu Á- Thái Bình Dương đã sử dụng một số lượng lớn phân bón hóa học, nếu trong những năm 1968-1970 lượng phân bón sử dụng khoảng 11 triệu tấn 9 thì đến những năm 1988- 1990 lượng phân bón này là 52 triệu tấn. Sản xuất nông nghiệp tại các nước Bắc Hàn, Nam Hàn, Trung Quốc, Malaysia bình quân sử dụng 125 kg phân bón hóa học/ha (EASCAP, 1995). Tại khu vự châu Á- Thái Bình Dương hiện có khoảng 25% trong tổng số diện tích đất dành cho sản xuất nông nghiệp bị xói mòn và nghèo dinh dưỡng như tại: Bangladesh, Brunei Darussalam, Fiji, Ấn Độ, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Nepal, Papua New Guinea, Philippines, Quần đảo Solomon Island, Sri Lanka, Thái Lan và Việt Nam (Dent và ctv, 1992). Đô thị hóa và công nghiệp hóa cũng còn là một nguyên nhân gây nên tình trạng suy thoái đất, rừng và các hệ động thực vật. Tại Trung Quốc, diện tích đất nông nghiệp chỉ còn 16,6% so với tỷ lệ trên thế giới là 27%, đất đai bị xói mòn, mặn hóa, kiềm hóa, ngập úng và khô hạn xảy ra phổ biến; diện tích đất bị xâm thực chiếm tới 38% tổng diện tích đất đai, diện tích hoang mạc và sa mạc hóa ngày càng gia tăng, trung bình khoảng 2.460 km2/năm (WCMC, 1995). Tại các nước châu Âu, theo ước đoán có từ 1- 3 triệu ha đất bị nhiễm mặn, và các nước vùng Địa Trung Hải bị ảnh hưởng nhiều nhất. Sự biến đổi khí hậu toàn cầu càng làm cho tình hình ngày càng tồi tệ hơn (Van- Camp và ctv, 2004). Đất đai bị axit hóa hay còn gọi là lắng đọng axit trong đất. Nguyên nhân này thường liên quan đến các vùng có mức độ công nghiệp hóa cao hoặc sự tập trung khá nhiều các nhà máy công nghiệp. Đất bị axit hóa là kết quả của các khí phát thải của các nhà máy công nghiệp (có chứa SO2, CO2 hoặc NO3), hoặc trong quá trình vẫn chuyển băng cơ giới, chôn lấp rác thải. Sau một khoảng thời gian, các chất độc lắng đọng và kết hợp với nước hoặc các chất có trong đất hình thành nên các axit có nồng độ cao và gây độc cho cây trồng. Hơn nữa, lượng axit này sẽ phá hủy kết cấu đất và giải phóng các kim loại nặng khác như nhôm (Al) và mangan (Mn), 2 hợp chất này gây hại cho cây trồng và làm chua đất ở nồng độ cao. Theo ước tính, tại Nga có khoảng 5 triệu ha đất canh tác có nồng độ axit cao (UNEP, 2000) và cũng có khoảng 25% diện tích đất canh tác của Ba Lan có hàm lượng axit đất cao với pH < 10 4,5 (Korytkowsky và Wojewódzki, 1993). Một số nghiên cứu về tài nguyên đất và bảo vệ tài nguyên đất của UNEP đối với châu Âu cho thấy hàng năm các nước thuộc khu vực này mất khoảng 30 tỷ USD do đất bị lắng đọng axit. 1.3 Nghiên cứu trong nước 1.3.1 Nghiên cứu mối quan hệ tương tác giữa phát triển công nghiệp và đô thị đến phát triển công nghiệp và nông thôn Ở Việt Nam, quá trình công nghiệp hóa được thực hiện từ những năm 1960, kể từ sau đổi mới, nền kinh tế càng phát triển thì quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa diễn ra càng nhanh. Đến nay số dân cư đô thị đã chiếm tới 28% tổng dân cư toàn quốc với khoảng 700 trung tâm đô thị lớn nhỏ. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến hết tháng 7 năm 2007 cả nước đã có 150 khu công nghiệp được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên 32,3 ngàn ha. Việc xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội có vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa và có tác động rõ đến phát triển nông nghiệp và nông thôn như: tạo ra thị trường tiêu thụ nông sản, thúc đẩy nhanh sự chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, tạo cơ hội cho việc ứng dụng các thành tựu trong chọn tạo giống, kỹ thuật canh tác,... hình thành các khu nông nghiệp công nghệ cao để tạo ra khối lượng sản phẩm hàng hóa đáng kể góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đồng thời, góp phần chuyển đổi nền nông nghiệp truyền thống, thúc đẩy phát triển nông nghiệp nông thôn theo hướng nông nghiệp hàng hóa mạnh, có sức cạnh tranh cao trên thị trường nội địa và xuất khẩu. 1.3.2 Nghiên cứu ảnh hưởng của công nghiệp hóa, đô thị hóa đến số lượng, chất lượng và sản xuất nông nghiệp Chỉ tính riêng trong vòng 5 năm từ năm 2001 - 2005 diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi để phục vụ cho xây dựng các khu công nghiệp và mở mang đô thị đã tới 336.440 ha, chiếm gần 4% diện tích đất sản xuất nông nghiệp. Con số này trong vài năm gần đây tuy chưa có số liệu khảo sát chính thức nhưng chắc chắn còn lớn hơn. Việc thu hồi đất chỉ trong 5 năm đó theo khảo sát của Bộ NN&PTNT đã 11 tác động đến đời sống của 627.495 hộ nông dân, 950.000 lao động, trung bình cứ thu hồi 1 ha đất nông nghiệp là khiến cho 10 lao động nông thôn mất việc làm. Sau khi bị thu hồi, 60% số hộ vẫn chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, 9% số hộ làm dịch vụ, 6% số hộ sinh kế bằng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, còn lại là các ngành nghề khác. Đáng chú ý là chỉ có 13% số hộ có thu nhập tăng hơn trước, trong khi có tới 53% số hộ thu nhập giảm so với trước . Trong 3 năm từ 2003 - 2005, Viện QH&TKNN đã tiến hành điều tra chỉnh lý xây dựng bản đồ đất 64 tỉnh/thành thuộc phạm vi cả nước theo một quy trình và khuôn dạng thống nhất về hệ thống phân loại, về độ dốc và địa hình tương đối. Riêng các tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc đã được thực hiện trong năm 2004. Tất cả các bản đồ này đều đã được số hóa, biên tập và quản lý dưới dạng cơ sở dữ liệu. Kết quả tổng hợp được cho thấy toàn vùng có 11 nhóm đất với 37 loại đất chính. Mặc dù chất lượng bản đồ đất đã được cập nhật và cải thiện đáng kể, nhưng trong điều kiện điều tra bổ sung theo tuyến chưa thể chỉnh lý chi tiết được về mức độ và độ sâu xuất hiện kết von, đá lẫn, mức độ glây, sự biến động về loại đất và tính chất lý hóa học của đất do ảnh hưởng của công nghiệp hóa, đô thị hóa. Vì thế, hạn chế độ chính xác trong việc đề xuất bố trí sử dụng đất cho từng cây trồng ở quy mô cấp huyện cũng như vùng chuyên canh . Nghiên cứu cơ sở khoa học và các giải pháp kinh tế kỹ thuật nhằm phát triển nông nghiệp, nông thôn ven đô thành phố Hà Nội, Lê Quốc Doanh cho rằng quá trình đô thị hoá vừa tạo ra những ảnh hưởng tích cực cho nông nghiệp vừa có những ảnh hưởng tiêu cực. Tích cực là vì nó tạo ra thị trường tiêu thụ sản phẩm, thu hút lao động dư thừa từ nông nghiệp... Tiêu cực là gia tăng ô nhiễm, ngập úng, mất đất nông nghiệp, không gian nông thôn bị phá vỡ. Lợi thế của nông nghiệp đô thị so với những vùng nông nghiệp khác không chỉ là điều kiện tự nhiên, đất đai, khí hậu mà là khoảng cách với thị trường. Khai thác lợi thế này, nông nghiệp Hà Nội đang hướng đến việc sản xuất các sản phẩm tươi sống và có khối lượng lớn. Nông nghiệp đô thị Hà Nội đang phát triển hình thành các vành đai nông nghiệp khác nhau, được 12 phân biệt bởi các mức độ đa dạng, khả năng thâm canh, khả năng thích ứng với những điều kiện mới của quá trình đô thị hoá ở mỗi vùng . Theo Phạm Ngọc Đăng, việc mở rộng không gian đô thị và các khu công nghiệp sẽ dẫn đến chiếm dụng đất nông nghiệp, ảnh hưởng đến vấn đề an toàn lương thực quốc gia nói chung và ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân ngoại thành nói riêng như: mất đất, mất kế sinh nhai, các ảnh hưởng này có tính lâu dài và phức tạp. Đô thị hóa dẫn đến tài nguyên đất bị khai thác triệt để, tỷ lệ diện tích cây xanh và mặt nước trong đô thị bị giảm, gây nên ngập úng cục bộ ở nội thành cũng như ngoại thành. Sản xuất công nghiệp tăng trưởng, phát sinh nhiều chất thải gây ô nhiễm môi trường nước, đất, không khí và chất thải rắn ngày càng tăng thêm. Đô thị hóa cũng làm tăng dòng người di dân từ nông thôn ra thành thị làm tăng sức ép về nhà ở và vệ sinh môi trường đô thị...[4]. Tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, do ảnh hưởng của chính sách thu hút đầu tư và mở cửa nền kinh tế, vấn đề đô thị hóa và công nghiệp hóa phát triển mạnh mẽ từ những năm đầu thập kỷ 90, khi mà lần đầu tiên có sự đầu tư của nước ngoài vào lĩnh vực công nghiệp với quy mô lớn tại TPHCM, đó là sự ra đời của khu chế xuất Tân Thuận (1991) và khu chế xuất Linh Trung (1993), sau đó bắt đầu tăng tốc khoảng năm 1996 với sự hình thành hàng loạt các KCN ở TPHCM và mở rộng ra các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa Vũng Tàu. Đến năm 2000 vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đã có 33 khu công nghiệp và khu chế xuất được cấp phép thành lập với tổng diện tích 7.106 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp gần 4.800 ha. Ngoài ra, còn hàng trăm cơ sở sản xuất được cấp phép đầu tư mới, nằm phân bố rải rác trong vùng. Điều này đã làm trầm trọng thêm những vấn đề hết sức nan giải trước đó về tình trạng đông dân, ô nhiễm nước và không khí, chất thải rắn, ùn tắc giao thông và nhiều vấn đề xã hội khác. Đất đai bị thu hẹp, tài nguyên bị khai thác triệt để hơn và không tránh khỏi nguy cơ bị cạn kiệt . Để bảo vệ môi trường trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa tại TPHCM và vùng phụ cận, Lâm Minh Triết đã đề xuất nhóm các giải pháp tổng thể, 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất