Nghiên cứu ăn mòn sắt trong môi trường axit HCl, có sử dụng chất ức chế NaNO2
MỞ ĐẦU
Ăn mòn là một hiện tượng rất phổ biến của kim loại. Vấn đề ăn mòn
xuất hiện trong tất cả khía cạnh của công nghệ, nó gây ra những hậu quả
nghiêm trọng như làm hư hại các thiết bị, giảm hiệu suất của máy móc, gây ô
nhiễm các sản phẩm thực phẩm,… Thậm chí ăn mòn còn gây ra những tai hoạ
rất lớn cho các lò phản ứng hạt nhân, máy bay, tên lửa, các thiết bị tự động.
Không chỉ có vậy, ăn mòn còn thường là trở ngại trong việc tung ra những
sản phẩm mới thuộc lĩnh vực công nghệ cao và trong các lĩnh vực cơ khí
chính xác do chúng thường xảy ra một cách không thể lường trước được.
Trong nhiều trường hợp, ăn mòn có thể trở thành yếu tố ngăn cản sự thành
công của các công nghệ mới nhiều hứa hẹn.
Có thể nói ăn mòn gây ra những thiệt hại vô cùng to lớn cả về trực tiếp
lẫn gián tiếp. Những thiệt hại gián tiếp là không thể tính được, thường lớn hơn
nhiều so với thiệt hại trực tiếp. Vì vậy, vào năm 1969, Chính phủ Anh đã
thành lập một Uỷ ban nghiên cứu để xác định những tổn thất đối với quốc gia
và đưa ra những biện pháp để làm giảm những tổn thất do sự ăn mòn gây ra.
Khi kết quả nghiên cứu ở Anh được áp dụng có điều chỉnh ở Đức đã làm tăng
tổng sản phẩm quốc nội (GNP). Trong giai đoạn 1968-1969, người ta ước tính
chi phí cho ăn mòn ở Đức vào khoảng 19 tỷ mark (tương đương 9 tỷ USD) và
nước Đức đã có thể giảm bớt 4,3 tỷ mark nếu như áp dụng các biện pháp ngăn
chặn sự ăn mòn. Tổn thất do ăn mòn kim loại hàng năm bằng 1,85% đến
4,8% tổng thu nhập quốc dân (GDP) và thực sự đây là những con số khổng lồ.
Thí dụ, ở Mỹ (1975) là 70 tỷ USD, ở Anh (1985) là 10 tỷ bảng Anh và ở Liên
Xô (cũ) 1987 là 90,7-105,9 tỷ USD. Ngoài thiệt hại trực tiếp về vật chất (đến
20% tổng lượng kim loại sản xuất hàng năm) ăn mòn kim loại còn gây ra
những thiệt hại gián tiếp khác như giảm tuổi thọ làm việc của máy móc, thiết
bị, công trình, làm suy giảm chất lượng sản phẩm, gây ô nhiễm môi trường,
gây ra mất an toàn lao động, ảnh hưởng nghiêm trọng đến phát triển bền
vững. Nước ta là một nước nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm mưa nhiều, có bờ biển
chạy dài nên kim loại bị ăn mòn rất nhiều và rất nặng. Trong môi trường axit
thì kim loại bị ăn mòn khá mạnh, vì vậy để giảm sự ăn mòn người ta đã sử
dụng chất ức chế, chất ức chế là những hợp chất khi đưa vào môi trường ăn
mòn với lượng rất nhỏ nhưng có tác dụng làm chậm xảy ra ăn mòn hoặc giảm
tốc độ ăn mòn.
Chính vì vậy nghiên cứu quá trình ăn mòn và biện pháp phòng chống
ăn mòn hữu hiệu sẽ giúp một quốc gia bảo vệ được các nguồn lực kinh tế
đáng kể trong các lĩnh vực công nghệ. Công nghệ vật liệu mới đã có những
thành tựu đầy hứa hẹn nhưng chắc chắn kim loại vẫn là vật liệu quan trọng
nếu không muốn nói vẫn là vật liệu chủ chốt trong tương lai.
Với hy vọng góp phần nghiên cứu quá trình ăn mòn kim loại ở nước ta
em đã chọn đề tài: “Nghiên cứu ăn mòn sắt trong môi trường axit HCl, có
sử dụng chất ức chế NaNO2”.
* Mục tiêu đề tài của em:
- Tổng quan về ăn mòn và bảo vệ kim loại nói chung và ăn mòn và bảo
vệ kim loại trong môi trường axit nói riêng.
- Tổng quan về các phương pháp bảo vệ, đặc biệt là phương pháp bảo vệ
bằng cách dùng chất ức chế NaNO2
- Khảo sát và thảo luận về sự phụ thuộc của tốc độ ăn mòn vào nhiệt độ,
thời gian, nồng độ HCl và nồng độ chất ức chế NaNO2.
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN
1.1. ĂN MÒN VÀ BẢO VỆ KIM LOẠI
Ăn mòn kim loại gây tổn hại to lớn cho nền kinh tế, trực tiếp đến 4-5%
thu nhập quốc dân (GDP) hoặc mất đến 10% tổng sản lượng kim loại sản xuất
hàng năm, nhưng nếu tính đến những thiệt hại gián tiếp sẽ còn lớn hơn rất
nhiều. Trong môi trường axit, kim loại bị gây tác động không nhỏ đến quá
trình ăn mòn kim loại. Trong thời đại công nghiệp hóa mạnh mẽ của đất
nước, những hoạt động xã hội và sản xuất của chúng ta lại gây tác động, gây ô
nhiễm cho môi trường và đồng thời cũng góp phần làm tăng tốc độ quá trình
ăn mòn kim loại.
Nghiên cứu những yếu tố môi trường axit tác động đến các quá trình ăn
mòn kim loại để nhận thức được quy luật nhằm kiểm soát và hạn chế ăn mòn
kim loại, giảm thiểu ảnh hưởng đến thiệt hại cho kinh tế cũng như cho an ninh
quốc phòng của đất nước là trách nhiệm nghề nghiệp của mỗi chúng ta hiện
nay. Nhằm nhìn nhận những kết quả và hiệu quả của hoạt động nghiên cứu và
ứng dụng trong lĩnh vực bảo vệ kim loại từ một số công trình được công bố
trên các tạp chí, sách xuất bản.
1.1.1. Định nghĩa ăn mòn kim loại.
Lịch sử tiến hóa của xã hội nhân loại gắn liền chặt chẽ với việc sản xuất
và sử dụng các vật liệu cấu trúc mà vật liệu quan trọng nhất là các kim loại và
hợp kim của chúng. Dưới tác dụng của môi trường xâm thực, đại đa số các
kim loại không bền nhiệt động học đều bị phá hủy do ăn mòn
Ăn mòn kim loại là sự phá hủy kim loại do tương tác hóa học hoặc điện
hóa của kim loại với môi trường xung quanh. Hàng ngày ta thường gặp các
quá trình ăn mòn như sự rạn nứt do gỉ của các ống nối thoát khí, các bộ phận
giảm xóc, các vỏ ô tô hay các cấu kiện xây dựng.
Theo định nghĩa này sự suy thoái kim loại do các nguyên nhân vật lí
hoặc cơ học như sự gẫy, nứt do quá tải của cầu sắt, cần trục…, sự xâm thực,
sự mài mòn hay sự trương nở của các chất thạch cao phân tử không được gọi
là sự ăn mòn.
Ăn mòn là sự phá hủy kim loại do hậu quả của phản ứng kim loại với
môi trường xung quanh. Những biến đổi không có sự tham gia của các pha
ngoài, như bệnh của thiếc làm biến dạng các cấu trúc của nó thành các lưới, ở
dưới 150C thiếc trắng biến thành thiếc xám…không được gọi là sự ăn mòn.
Trong một vài trường hợp, tương tác hóa học kèm theo những biến đổi
vật lý được gọi là sự phong hóa-ăn mòn, sự ăn mòn xâm thực hay là sự ăn
mòn mệt mỏi.
Ăn mòn sắt và các hợp kim của nó tạo thành gỉ do sự hình thành các oxit
sắt hidrat hóa trong các sản phầm ăn mòn. Sắt và hợp kim của nó thường bị
gỉ. Các hợp kim không chứa sắt cũng bị ăn mòn nhưng các sản phẩm của nó
không gọi là gỉ.
1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu ăn mòn.
Người ta có thể nói rằng, ăn mòn là một bệnh mà kim loại dễ bị mắc.
Các nhà nghiên cứu ăn mòn được xem như các thày thuốc của kim loại, chuẩn
đoán những tác hại của ăn mòn và cho những điều chỉ dẫn cần thiết. Sự ăn
mòn kim loại làm biến đổi một lượng lớn các sản phẩm này thành các sản
phẩm ăn mòn, làm thay đổi hoàn toàn tính chất của sản phẩm. Sự ăn mòn kim
loại đưa đến những hậu quả nặng nề hơn và làm hao tổn các kim loại. Nó làm
biến đổi những tính chất kĩ thuật quan trọng của các kim loại như tính ổn
định cơ học, độ mềm dẻo và một vài tính chất hóa lí như độ cứng, độ phản xạ,
độ dẫn điện…Do đó, khi đánh giá những mất mát do ăn mòn, ta phải khảo sát
tất cả những hậu quả do ăn mòn gây ra. Những mất mát do ăn mòn có thể chia
thành những mất mát trực tiếp và những mất mát gián tiếp.
Những mất mát trực tiếp bao gồm chi phí thay thế các chi tiết bị ăn mòn
(máy móc, ống dẫn…) phí tổn cho các phương tiện bảo vệ (mạ điện, mạ niken
cho thép hay phủ sơn, sử dụng các chất ức chế…)
Theo các số liệu thống kê gần đây, thiệt hại do ăn mòn kim loại gây ra ở
Mĩ là khoảng 4% tổng sản lượng quốc gia (GNP) (tức là trên 300 tỉ
USD/năm) và ở Anh cũng vào khoảng gần 4% GNP(tức là khoảng 30 tỉ đồng
bảng anh/năm). Người ta tính, khoảng một phần ba lượng kim loại khái thác
sẽ không sử dụng được nữa hàng năm do bị ăn mòn phá hủy, nhưng hai phần
ba lượng kim loại bị ăn mòn được phục hồi trong các lò mác tanh, vậy lượng
kim loại bị loại bỏ hoàn toàn không thể sử dụng được nữa bằng khoảng 10%
lượng kim loại khai thác. Ngày nay , tổng sản lượng sắt khai thác trên thế giới
khoảng trên 800 triệu tấn/năm. Mỗi năm lượng sắt không thể sử dụng được do
ăn mòn khoảng 80 triệu tấn. Thêm vào đó ăn mòn gây ra những hậu quả
nghiêm trọng là làm hư hại các thiết bị(thiết bị phân phối nước, các trung tâm
nhiệt điện, các nhà máy, thiết bị giao thông vận tải…), mất mát sản phẩm
(nước, hơi, dầu mỏ…), giảm hiệu suất, làm bẩn các sản phẩm thực phẩm…Vì
vậy, sự thiệt hại gián tiếp là không thể tính được và thường cao hơn sự thiệt
hại trực tiếp. Sự ăn mòn có thể gây ra những tai họa rất to lớn cho các lò phản
ứng hạt nhân, các máy bay, tên lửa và các thiết bị tự động.
Những thiệt hại do ăn mòn kim loại gây ra nghiêm trọng như vậy nên
nghiên cứu ăn mòn kim loại và phòng chống ăn mòn kim loại là công việc hết
sức quan trọng.
1.1.3. Phân loại các quá trình ăn mòn.
Theo cơ chế, ăn mòn kim loại có thể phân làm 2 loại: ăn mòn hóa học và
ăn mòn điện hóa
a. Ăn mòn hóa học: Là phản ứng hóa học dị thể giữa bề mặt của kim loại
và môi trường xung quanh, nghĩa là phản ứng biến đổi kim loại thành ion.
Tương tác giữa kim loại với môi trường lỏng không dẫn điện hay với các khí
khô là thí dụ điển hình của ăn mòn hóa học. Sự oxi hóa kim loại bởi oxy hay
tương tác của các kim loại với các khí hoạt động khác (SO2, H2S, các
halogen, hơi nước, CO2) ..Ở nhiệt độ cao là các dạng đặc biệt, nhưng rất quan
trọng của ăn mòn hóa học.
b. Ăn mòn điện hóa:
Là dạng ăn mòn phổ biến-là tương tác điện hóa của bề mặt kim loại với
môi trường xung quanh, tuân theo các quy luật động học điện hóa, nói khác
đi, ăn mòn điện hóa dung dịch, ăn mòn điện hóa là phản ứng phản ứng oxi
biến đổi kim loại thành ion. Khác với phản ứng oxi hóa - khử đồng thể xảy ra
ở dung dịch, ăn mòn điện hóa là phản ứng oxi hóa - khử dị thể xảy ra làm
nhiều giai đoạn và ở nhiều nơi khác nhau của bề mặt kim loại. Do sự tồn tại
của các ion trong dung dịch và các electron tự do trên kim loại, sự ăn mòn
điện hóa sảy ra ở 2 quá trình sau:
+) Quá trình anốt: Xảy ra ở các khu anot của bề mặt kim loại. Quá trình
anot là quá trình biến đổi trực tiếp kim loại thành ion hiđrat hóa trong dung
dịch.
+) Quá trình catot: Xảy ra ở các khu catot của bề mặt kim loại, làm cho
các electron dư của quá trình anot bị đồng hóa do 1 vài chất nhận electron,
được gọi là các quá trình khử phân cực.
*) Phụ thuộc vào điều kiện ăn mòn, người ta phân ra các kiểu ăn mòn
phổ biến sau:
-Ăn mòn khí quyển
-Ăn mòn chất điên ly
-Ăn mòn dưới đất
-Ăn mòn điện
-Ăn mòn dưới tác dụng của điện thế
-Ăn mòn sinh học
-Ăn mòn toàn bộ
-Ăn mòn hang hốc
-Ăn mòn cục bộ
-Ăn mòn điểm
-Ăn mòn giũa các tinh thể
-Ăn mòn xuyên tinh
1.1.4. Ăn mòn trong môi trường axit.
Trong nước loại bỏ khí hay trong các axit không có chất oxi hóa, một số
kim loại bị ăn mòn do các phản ứng catot khử hydro đồng thời xảy ra. Do đó,
quá trình kiểm tra tốc độ ăn mòn trong các trường hợp này là quá trình khử
hydro.
Trong trường hợp ăn mòn có giải phóng hydro, xảy ra phản ứng phóng
điện các ion hidroxoni:
2H3O+ + 2e
2H2O+2H
2H2O+H2
Các ion hidroxoni phóng điện phải bị hấp phụ trên bề mặt kim loại, các
ion đó phải nằm trong lớp Helmholtz của lớp điện kép. Mối liên hệ giữa nồng
độ ion hidroxoni hấp phụ[H3O+]s và nồng độ các ion hidroxoni trong dung
dịch [H3O+]o exp (-F
Trong đó
/RT)
là thế trên bề mặt lớp helmholtz
Phương trình động học của quá trình phóng điện có thể viết:
i= kF [H3O+]s exp (-W1/RT) năng lượng hoạt động hóa của phản ứng
phụ thuộc vào thế của lớp helmoholtz. Giữa năng lượng hoạt hóa và thế điện
cực có mối liên hệ:
W1=W0-
(E-
)
Thực hiện các phép biến đổi và thay W0=WH.
ta có:
Dòng catot:
ic=k1F[H3O+]o exp[-
/RT(E+(1- ) .
-WH)]
Dòng anot:
ia=k2FCH exp [
(E+(1- ) .
-WH)]
Dòng phóng điện tổng quát:
iC=ic-ia. vì ic > > ia nên có thể coi ic ~ iC
ta tính được thế ăn mòn:
E=const+RT/
ln[H3O+]o- (1- ) .
-( RT/
).ln iC+WH.
1.2. SẮT VÀ TÍNH CHẤT ĂN MÒN CỦA VẬT LIỆU SẮT (Fe)
1.2.1. Đặc điểm của sắt:
a, Vị trí, cấu tạo
- Kí hiệu: Fe
- Vị trí: chu kì IV, phân nhóm VIII B
- Cấu hình electron
1s22s22p6 3s2 3p63d64s2
b. Tính chất vật lý.
- Là kim loại có màu trắng xám, có tính dẻo, dễ dát mỏng
- Có từ tính
- Khối lượng riêng là 7,87g/m3
- Nhiệt độ sôi là 2870oC
- Nhiệt độ nóng chảy là 1359oC
c. Tính chất hoá học .
* Tác dụng với oxi:
-Ở nhiệt độ thường:
3Fe + 2O2 = Fe3O4
-Ở nhiệt độ cao
Fe + H2O(h)
FeO + H2
* Tác dụng với halogen:
2Fe + 3Cl2 = 2 FeCl3
* Tác dụng với lưu huỳnh:
Fe + S = FeS
* Tác dụng với nước:
Fe + H2O
Fe3O4 + H2
* Tác dụng với dung dịch axit:
- Tác dụng với axit loãng:
Fe + H2SO4 → FeSO4 + H2
- Tác dụng với axit đặc:
Fe + 4HNO3 → Fe(NO3)3 + NO
+ 2H2O
* Tác dụng với muối của kim loại yếu hơn:
Fe + CuSO4 → FeSO4 + Cu
1.2.2. Tính chất ăn mòn của vật liệu kim loại sắt.
Sắt là nguyên tố kim loại rất quan trọng trong đời sống và kỹ thuật. Sắt có
ái lực hóa học rất mạnh với oxy, do đó trong tự nhiên sắt chỉ tồn tại dưới
dạng oxit sắt. Oxit sắt dễ hòa tan trong axit do đó sắt bền vững trong môi
trường kiềm hơn môi trường axit.
Sắt ít bền với ăn mòn vì các nguyên nhân sau
- Điện thế điện cực tiêu chuẩn của sắt E0Fe2+/Fe =0,44V không bền về
phương diện nhiệt động
- Quá thế hydro của sắt ηFeH2 thấp nên trong môi trường axit sắt bị ăn
mòn khá nhanh.
Sắt có hóa trị 2 và 3 nên giản đồ của sắt bị ăn mòn khá phức tạp. Các
phản ứng và phương trình của điện thế điện cực tương ứng được liệt kê như
sau:
Fe =Fe2+ + 2e
EcbFe2+/Fe = -0.44 +0.0295 lgaFe2+
Fe +2H2O = Fe(OH)2 +2H+ +2e
Fe +2H2O = H FeO2- +3H+ +3e
Fe2+ +3H2O = Fe(OH)3 +3H+ +e
Fe3+ +3H2O = Fe(OH)3 + 3H+
1.3. CÁC PHƯƠNG PHÁP BẢO VỆ CHỐNG ĂN MÒN KIM LOẠI.
Có nhiều giải pháp khác nhau để chống ăn mòn vật liệu, phải xuất phát
từ trình độ phát triển kinh tế và công nghiệp của mỗi nước ở thời điểm cũng
như mức độ quan trọng của công trình và nhu cầu sản xuất cho một sản phẩm
mà lựa chọn cho thích hợp.
Các phương pháp chung nhất để chống ăn mòn vật liệu trình bày ở sơ
đồ sau:
Chống ăn
mòn vật liệu
Thiết kế
Lựa chon
vất liệu
Xử lý bề
mặt
Xử lý môi
trường
Bảo vệ điện
hóa
Từ định nghĩa ăn mòn kim loại là sự phá huỷ do tương tác của kim loại
với môi trường, suy ra có 3 nguyên tắc cơ bản để bảo vệ kim loại:
- Thay đổi thành phần tính chất của kim loại
- Thay đổi thành phần tính chất của môi trường
- Ngăn cách kim loại tiếp xúc với môi trường xâm thực
1.3.1. Phương pháp che phủ
Việc bảo vệ kim loại bằng các lớp che phủ là một trong những phương
pháp phổ biến nhất. Điểm mấu chốt của phương pháp này là nhằm cô lập bề
mặt kim loại khỏi môi trường xâm thực. Các lớp che phủ bảo vệ phải đáp ứng
một số yêu cầu chung như: lớp bảo vệ không bị ăn mòn hay bị ăn mòn với tốc
độ yếu hơn nhiều so với tốc độ ăn mòn của kim loại cần bảo vệ; lớp che phủ
phải đủ độ dày và có độ bám dính tốt… Tuỳ theo yêu cầu thực tế, người ta có
thể sử dụng lớp che phủ kim loại hoặc lớp che phủ không kim loại.
- Các lớp che phủ kim loại
Có 2 loại phủ kim loại là phủ catôt và phủ anôt. Nếu lớp che phủ có thế
âm hơn thế của kim loại cần bảo vệ (kim loại nền), lớp che phủ được gọi là
lớp che phủ anôt; ngược lại, khi thế của kim loại che phủ dương hơn thế của
kim loại nền thì ta có lớp che phủ catôt.
- Các lớp che phủ phi kim loại
Các lớp che phủ phi kim loại gồm các lớp che phủ bằng các chất vô cơ
và hữu cơ. Các lớp che phủ hữu cơ thường là các màng polime. Sơn và sơn
lắc được dùng rộng rãi nhất trong thực tế chống ăn mòn kim loại do chúng dễ
che phủ lên các chi tiết có nhiều loại hình dạng, kích thước, dễ dàng bịt kín
các lỗ, các vết rạn nứt, và không làm thay đổi tính chất của kim loại nền.
a. Phương pháp nóng chảy: Phủ kẽm, chì, thiếc lên các chi tiết máy.
- Phủ kẽm: Nung nóng kẽm ở nhiệt độ 450-480 oC sau đó nhúng chi tiết
vào, lớp kẽm sẽ bám lên bề mặt chi tiết.
- Phủ thiếc: Nhúng chi tiết vào thiếc nóng chảy ở 270-300oC. Áp dụng
cho ngành luyện kim.
- Phủ chì: Nhúng chi tiết vào chì nóng chảy ở 350oC. Bảo vệ chi tiết
trong công nghiệp hóa học.
b. Mạ kim loại: Làm đẹp, chống ăn mòn. Đặt chi tiết mạ vào cực catot (-) .
Kim loại nguyên chất cần mạ đóng vai trò là anot. Dung dịch mạ thường là
cromtrioxit CrO3, H2SO4 và H2O, dung dịch được đun nóng 48-55oC tạo ra
dòng điện một chiều chạy qua dung dịch và mạ lên chi tiết.
Trước khi mạ phải làm sạch chi tiết để tăng độ bám dính.
c. Phun
Phương pháp này tiến hành với các kim loại bảo vệ: Al, Cu, Zn.
Kim loại được phun là một dây kim loại đắp vào súng phun, dây kim loại
đốt nóng, các hạt kim loại nóng chảy sẽ phun vào bề mặt chi tiết bằng luồng
khí nén và bám chặt vào bề mặt chi tiết.
d. Cán dính kim loại
Thường thực hiện cho các kim loại tấm. Cán dính vào tấm kim loại một
lớp kim loại mỏng để bảo vệ là đồng, nhôm, niken.
1.3.2. Phương pháp điện hoá học
Thực chất của phương pháp này là làm cho thế của kim loại cần bảo vệ
thay đổi theo hướng đưa kim loại vào vùng được bảo vệ (bảo vệ catôt) hoặc
vào vùng thụ động (bảo vệ anôt).
Bảo vệ catôt là một phương pháp được sử dụng thường xuyên để chống
ăn mòn các cấu trúc và các thiết bị đặt trong môi trường xâm thực (nước biển,
đất,…). Phương pháp này được áp dụng cho tất cả các kim loại nhưng phổ
biến nhất là cho thép trần hay thép mạ.
- Phương pháp bảo vệ catôt bằng điện cực “hy sinh”. Trong phương
pháp này, kim loại cần bảo vệ được ghép nối với một điện cực “hy sinh” là
một kim loại khác có thế âm hơn rất nhiều. Bản chất của phương pháp này là
phân cực kim loại cần bảo vệ bằng dòng điện tích âm nghĩa là liên tục cung
cấp electron cho kim loại bị ăn mòn nhờ điện cực “hy sinh”.
- Phương pháp bảo vệ catôt bằng dòng điện ngoài. Bản chất của
phương pháp này cũng giống với phương pháp bảo vệ catôt bằng điện cực “hy
sinh” nhưng ở đây nguồn cung cấp electron cho kim loại cần bảo vệ là nguồn
điện một chiều từ bên ngoài. Kim loại cần bảo vệ được nối với điện cực âm
của nguồn điện ngoài. Tuy nhiên phương pháp này có nhược điểm là dòng
bảo vệ đôi khi rất lớn làm tiêu tốn điện năng, do vậy cần xem xét sao cho phù
hợp với điều kiện cụ thể.
1.3.3. Phủ bằng kim loại
Để kim loại không bị gỉ, người ta phủ lên kim loại các vật liệu chống
ăn mòn và chống gỉ cao.
1.3.4 Phủ bằng vật liệu phi kim loại:
a. Sơn: Là phương pháp công nghiệp bảo vệ kim loại được sử dụng rộng
rãi (65-80%) tổng sản phẩm.
b. Ê may: Nó coi như silicat không hòa tan( thủy tinh) , ê may dùng để
phủ lên các vật liệu gang, thép trong công nghiệp thực phẩm.
- Nhúng chi tiết vào thùng ê may nóng chảy 1200-1300oC rồi làm nguội.
+ Chịu ăn mòn cao trong muối, axit nhưng lớp phủ giòn.
c. Bôi dầu mỡ.
- Là biện pháp bảo quản kim loại cho vật liệu, dụng cụ, các thiết bị xếp
trong kho.
- Dầu mỡ khó làm nhiệm vụ chống gỉ vì trong quá trình làm việc, nhiệt
độ và cọ sát sẽ làm mất đi.
d. Phủ một lớp chất dẻo.
- Thường dùng cao su để phủ lên bề mặt chi tiết, để bảo vệ các mặt trong
của các thùng chứa khi vận chuyển axit.
e. Bảo vệ bằng lớp axit:
- Để tạo lớp axit trên sắt, thép người ta dùng dung dịch có thành phần:
+ xút ăn da: 700-750 g/l (130-140oC)
+Natri nitrat: 200-250 g/l (130-140oC)
+Natri nitrit: 50-70 g/l (130-140oC)
Nung nóng chi tiết 1- 2h tạo lên trên bề mặt sắt, thép có màu xanh- đen.
Khả năng chống ăn mòn không cao lắm nên ta bôi thêm dầu mỡ.
Có rất nhiều phương pháp chống ăn mòn kim loại nhưng phương pháp sử
dụng chất ức chế để làm giảm quá trình ăn mòn được sử dụng rộng rãi nhất.
Chất ức chế NaNO2 là một chất độc nhưng giảm lượng ăn mòn rất tốt nên ta
chú ý khi dùng chất ức chế này, và phải dùng với lượng nhất định.
1.4. BẢO VỆ KIM LOẠI BẰNG CHẤT ỨC CHẾ.
1.4.1. Một vài nét lịch sử.
Từ xa xưa, khi chế tạo súng săn, các thợ thủ công đã biết sử dụng men
bia hoặc hồ tinh bột để hạn chế quá trình hòa tan kim loại khi tẩy gỉ.
Công bố đầu tiên về chất ức chế vào năm 1811 là sử dụng muối kẽm để
giảm tốc độ ăn mòn sắt trong môi trường trung tính. Bằng sáng chế đầu tiên
được công bố ở nước Anh với việc sử dụng hỗn hợp dầu thực vật và đường
mật làm phụ gia chất ức chế khi tẩy gỉ các tấm thép.
Nghiên cứu và sử dụng chất ức chế phát triển mạnh trong khoảng giữa
hai kỳ đại chiến thế giới do yêu cầu to lớn và bức thiết của kỹ thuật quân sự.
Những công trình lớn nghiên cứu cơ chế hoạt động, bảo vệ và các tính
chất hóa lý của chất ức chế cũng như quan hệ giữa kim loại và chất ức chế nở
rộ vào những năm 50 của thế kỷ. Từ năm 1960 đến nay, cứ 5 năm một lần,
hội nghị thế giới về chất ức chế lại được tổ chức ở trường đại học tổng hợp ở
Ferrara ở Ý. Ở Mỹ trong những năm 1960 đã sản xuất khoảng 100000 tấn
chất ức chế với tổng kinh phí khoảng 100000000 đô la. Tổng sản lượng ức
chế sản xuất ra trên thế giới là 700000 tấn/năm, trong đó khoảng 300-350000
tấn là ức chế hòa tan trong dầu. Hiện nay chính thức có khoảng 5000 chất,
hỗn hợp được phân loại là chất ức chế. Ngoài ra còn có nhiều hợp chất được
sử dụng làm chất ức chế nhưng chưa được phân loại.
Sử dụng chất ức chế là phương pháp hữu hiệu để bảo vệ kim loại khỏi bị
ăn mòn, trong một số trường hợp đây là phương pháp duy nhất.
VD: việc hạn chế độ hòa tan của kim loai khi tẩy gỉ, chống giòn hydro,
bảo quản các thiết bị hoàn chỉnh khi vận chuyển hoặc lưu kho….
1.4.2. Định nghĩa và phân loại.
a. Định nghĩa:
Chất ức chế là những hợp chất khi đưa vào môi trường ăn mòn với lượng
rất nhỏ nhưng có tác dụng làm chậm xảy ra ăn mòn hoặc giảm tốc độ ăn mòn.
Ức chế chống ăn mòn kim loại là một trong những biện pháp bảo vệ kim
loại hiệu quả, đơn giản và đã được sử dụng từ rất lâu. Các chất ức chế đã
được sử dụng rộng rãi chủ yếu là rất vô cơ như: Chromat, nitrit… và các chất
hữu cơ như: urotrobin, diphenyl amin, alkanoamin… các chất chromat là
những chất ức chế thông thường nhất được sử dụng trong sơn cũng như trong
dung dịch axit, tuy nhiên những chất này có tính độc cao, khi sử dụng có ảnh
hưởng xấu đến môi trường. Hiện nay, một số nước công nghiệp phát triển trên
thế giới đã cấm sử dụng những hợp chất này. Nhiều nghiên cứu đã cố gắng
tìm kiếm những hợp chất thân thiện với môi trường nhằm thay thế những hợp
chất độc hại trên.
b.Phân loại.
Hoạt động của chất ức chế trên ranh giới kim loại/dung dịch rất phức tạp,
khó xác định ảnh hưởng nào là quyết định đến quá trình ăn mòn, vì vậy tồn tại
nhiều cách phân loại khác nhau. Chẳng hạn có thể phân loại theo phản ứng
điện cực (phản ứng anot, catot) mà chất ức chế tác động; phân loại theo môi
trường; phân loại theo thành phần hóa học của chất ức chế. Fischer chia ức
chế làm 2 loại:
1. Ức chế pha làm giảm tốc độc các quá trình vật lý, hóa học trên ranh
giới giữa kim loại và dung dịch điện li. Ức chế pha kìm hãm quá trình:
-Chuyển điện tích
-Hình thành hoặc phân hủy các tinh thể kim loại
-Các phản ứng hóa học dị thể giữa kim loại và chất điện li
2. Chất ức chế trong chất điện li làm giảm tốc độ các quá trình vật lý và
hóa học xảy ra trong lòng chất điện li. Nhiệm vụ của chúng là kìm hãm các
quá trình sau:
-Vận chuyển các chất tham gia phản ứng đến và ra khỏi bề mặt kim loại.
-Các phản ứng hóa học trong lòng dung dịch
1.4.3. Giải thích cơ chế hoạt động, bảo vệ của chất ức chế.
Để giải thích cơ chế hoạt động, bảo vệ của chất ức chế tồn tại 3 lý thuyết
sau:
a. Lý thuyết hấp phụ.
Hấp phụ là động thái đầu tiên và quan trọng nhất của mọi quá trình ức
chế. Sự có mặt của màng ức chế hấp phụ trên bề mặt làm thay đổi tính chất
của ranh giới phân chia, làm tăng quá thế của phản ứng điện cực và giảm tốc
độ ăn mòn. Theo thuyết này người ta đi sâu nghiên cứu bản chất và độ bền
của lực hấp phụ, thành phần và cấu trúc lớp hấp phụ, ảnh hưởng của bản chất
kim loại và chất ức chế đến quá trình hấp phụ đó.
b. Thuyết quá thế.
Ăn mòn kim loại trong axit quyết định bởi quá trình khử phân cực hydro;
trong môi trường kiềm và trung tính - khử phân cực oxi. Các chất ức chế làm
tăng quá thế những quá trình này, do vậy sự ăn mòn bị chậm lại.
VD: Bằng cách liên kết ion hydro vào cấu trúc phân tử hoặc cấu trúc keo
của mình các chất ức chế hữu cơ làm tăng quá thế phóng điện của ion hydro.
Đó là cơ sở giải thích, chẳng hạn vì sao gelatin lại có khả năng bảo vệ sắt,
kẽm, cadibi trong môi trường axit.
c. Thuyết tạo màng.
Theo thuyết này, quá trình ức chế được giả định do một lớp sản phẩm tạo
ra trên bề mặt kim loại khi có tương tác, tương hỗ giữa ức chế, kim loại và
thành phần môi trường. Màng bảo vệ trong trường hợp này có đặc tính đa
chiều, nghĩa là một lớp có chiều dày khả kiến. Khi đó lớp hấp phụ chỉ có đặc
tính hai chiều.
Chất ức chế bảo vệ kim loại trong điều kiện khí quyển được phân làm 2
nhóm: ức chế tạo màng và ức chế bay hơi.
Nguyên tắc sử dụng chất ức chế để bảo vệ kim loại khỏi bị ăn mòn khí
quyển là bảo toàn và củng cố lớp oxi bền chắc, có tính bảo vệ được tạo ra trên
bề mặt kim loại khi kim loại tiếp xúc với môi trường.
VD: Như chất ức chế tạo màng dùng trong quá trình tảy gỉ sẽ không làm
giảm tốc độ tan gỉ, ngược lại nó xúc tác nhanh quá trình chất ức chế sẽ lập tức
hấp phụ lên bề mặt kim loại đã làm sạch gỉ, ngăn cách quá trình hòa tan kim
loại, nhờ thế chẳng những kích thước của bề mặt kim loại được đảm bảo mà
còn tránh được những thay đổi không mong muốn chất lượng của bề mặt kim
loại. Ví dụ như tránh hiện tượng giòn hydro…ức chế tạo màng còn được dùng
làm phụ gia nâng cao khả năng bảo vệ kim loại, phương tiện bảo quản.
Ức chế pha hơi (VPI) ưu điểm nổi bật của VPI là dễ áp dụng, có thể bảo
vệ trực tiếp các thiết bị hoàn chỉnh, thậm chí cả các phần thiết bị đã có các lớp
phủ khác. Nhược điểm chính là cho đến nay khoa học vẫn chưa tìm ra một
loại ức chế vừa bảo vệ kim loại đen vừa bảo vệ kim loại màu. Đa số các chất
ức chế gây ăn mòn kim loại màu và có ảnh hưởng đến chất dẻo, do vậy việc
bảo vệ thiết bị gồm nhiều loại vật liệu khác nhau còn là vấn đề nan giải.
Ức chế pha hơi được cho vào một không gian kín (túi bằng chất dẻo)
trong đó có chứa các chi tiết cần bảo vệ, yêu cầu cơ bản là trong mọi phần của
không gian đó cần có đủ nồng độ ức chế cần thiết, do vậy, nếu hợp chất có áp
suất hơi cao, nồng độ bảo vệ sẽ nhanh chóng được thiết lập, tuy nhiên tổn hao
ức chế quá nhanh sẽ rút ngắn thời hạn bảo vệ. Nếu áp suất hơi ức chế quá
thấp, ngay ban đầu, nồng độ ức chế trên bề mặt chi tiết sẽ thấp không ngăn
được quá trình ăn mòn kim loại. Áp suất hơi thích hợp là 10 -2-10-4mmHg ở
20-250C. Để bảo vệ thép, một gam ức chế có thể đảm bảo cho 550 m3.
Quá trình phát huy tác dụng của ức chế pha hơi bao gồm các bước sau:
-Chuyển thành pha hơi trong một không gian kín
-Phân li hoặc thủy phân khi có mặt nước (ở pha hơi)
-Khuếch tán các phân tử ức chế hoặc sản phẩm chuyển hóa của chúng
đến bề mặt kim loại.
-Các phân tử đó hấp phụ lên bề mặt kim loại (trước hết trên các trung
tâm hoạt động)
-Hấp phụ hơi nước hoặc cấu tử gây ăn mòn khác có mặt trong không
gian đó lên những vị trí còn trống hay lên cả lớp phân tử ức chế(và các sản
phẩm chuyển hóa của chúng) đã được hấp phụ trước.
-Phản ứng tương hỗ giữa các phân tử ức chế với các phân tử dung dịch
điện li vừa xuất hiện, phân li hoặc thủy phân tiếp
-Tham gia các quá trình phản ứng điện cực.
Chất ức chế tạo màng và pha hơi thường có chung một gốc hoặc một
nhóm chức. Hoạt động điện hóa cửa các nhóm chức đó là như nhau trong cả 2
trường hợp.
1.4.4. Chất ức chế NaNO2.
Sodium nitrite (NaNO2)
Công thức hóa học: NaNO2
Tính chất:
- Tinh thể trắng trong suốt hoặc hơi vàng.
- Dễ tan trong nước và hút ẩm mạnh.
Quy cách: 25 kg bao PP/ PE
Xuất xứ: Đức / Trung Quốc
Ứng dụng: dùng trong công nghiệp sơn tĩnh điện, chất ăn mòn axit, chất
tẩy trắng, chất ức chế ăn mòn, chất chống độc v.v...
Bảo quản:
- Bảo quản nơi khô ráo thoáng mát
- Tránh nơi ẩm ướt và hơi nóng
CHƯƠNG II: DỤNG CỤ VÀ HÓA CHẤT
1. THIẾT BỊ, HÓA CHẤT
1.1. THIẾT BỊ
- Pipet(0,5;1;5;10ml);(Trung Quốc)
- Máy đục lỗ
- Máy mài mép
-Cốc chịu nhiệt (250,1000ml); (Trung Quốc)
-Máy sấy
-Tủ sấy
-Dây đồng
-Đũa thủy tinh
-Nhiệt kế
-Cân 4 số
- Xem thêm -