Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghi thức lễ tân trong công sở hành chính-lý luận và thực tiễn...

Tài liệu Nghi thức lễ tân trong công sở hành chính-lý luận và thực tiễn

.PDF
59
1438
82

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA LUẬT LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT NIÊN KHÓA: 2011 – 2014 Đề tài: NGHI THỨC LỄ TÂN TRONG CÔNG SỞ HÀNH CHÍNH-LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Giảng viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện: Võ Duy Nam Bộ môn Luật hành chính Nguyễn Thị Dương MSSV: B110043 Lớp : LK1163B1 Cần Thơ, 04/2014 Lời cảm ơn! Nhờ sự tâm huyết, tận tình của quý thầy cô là giảng viên, cán bộ, nhân viên Trường Đại học Cần Thơ, cùng với sự phấn đấu không ngừng của bản thân, đến nay em đã hoàn thành tốt quá trình học tập, nghiên cứu tại trường. Qua gần ba năm, bản thân đã được trau dồi và trưởng thành rất nhiều cả về tri thức lẫn nhân cách đủ để làm hành trang cho cuộc sống tương lai. Qua đây, em xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô Khoa Luật Trường Đại Học Cần Thơ đã yêu thương, chỉ bảo tận tình, đã truyền đạt cho em những kiến thức quý báu trong suốt thời gian qua. Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn thầy Võ Duy Nam đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành luận văn này . Trong quá trình nghiên cứu, mặc dù đã cố gắng, song, với trình độ hiểu biết còn hạn chế, trải nghiệm thực tế chưa nhiều nên tất yếu sẽ còn nhiều thiếu sót nhất định. Do đó, rất mong nhận được sự thông cảm, đóng góp ý kiến của quý Thầy, Cô cũng như các bạn sinh viên để đề tài được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn! SVTH:Nguyễn Thị Dương MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1 1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................................... 2 2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 3. Đối tượng và khách thể của đề tài .................................................................................. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu .............................................................. 5. Kết cấu đề tài ................................................................................................................. CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGHI THỨC LỄ TÂN TRONG CÔNG SỞ HÀNH CHÍNH ................................................................................................................ 1.1 Lý luận luận chung về Nghi thức Lễ tân trong công sở hành chính .............................. 1.1.1 Khái niệm chung về công sở và công sở hành chính ....................................... 1.1.2 Khái niệm chung về Nghi thức nhà nước và Nghi thức Lễ tân ........................ 1.2 Lược sử về Nghi thức Lễ tân trong công sở hành chính ............................................... 1.3 Vai trò và ý nghĩa của Nghi thức Lễ tân trong công sở hành chính............................... 1.3.1 Vai trò và ý nghĩa của Nghi thức Lễ tân nhà nước .......................................... 1.3.2 Vai trò và ý nghĩa của Nghi thức Lễ tân ngoại giao ........................................ CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NGHI THỨC LỄ TÂN TRONG CÔNG SỞ HÀNH CHÍNH............................................................................... 2.1 Chức năng nhiệm vụ của Lễ tân nhà nước.................................................................... 2.2 Yêu cầu của việc thực hiện các Nghi thức lễ tân nhà nước ........................................... 2.3 Nghi thức lễ tân trong đối nội ...................................................................................... 2.3.1 Nghi thức lễ tân khi tiếp đãi khách đến công sở ............................................... 2.3.2 Nghi thức lễ tân trong tổ chức ngày kỷ niệm, nghi thức trao tặng, đón nhận hình thức khen thưởng, danh hiệu thi đua .......................................................................... 2.4 Nghi thức lễ tân nhà nước trong đối ngoại ................................................................... CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN VÀ KIẾN NGHỊ ĐỂ HOÀN THIỆN CÁC NGHI THỨC LỄ TÂN TRONG CÔNG SỞ HÀNH CHÍNH ................................................... 3.1 Thực trạng ................................................................................................................... 3.1.1 Thuận lợi .................................................................................................................. 3.1.2 Hạn chế..................................................................................................................... 3.2 Giải pháp, đề xuất ........................................................................................................ KẾT LUẬN ...................................................................................................................... TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... Đề tài: Nghi thức lễ tân trong công sở hành chính-lý luận và thực tiễn MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Sự sống của con người là tổng hòa các mối giao tiếp. Đó là mối giao tiếp giữa con người với con người, giữa con người với xã hội và giữa con người với thiên nhiên. Giao tiếp là hoạt động bản chất của vạn vật nhằm sinh tồn. Trong xã hội loài người hoạt động giao tiếp lại càng không thể thiếu nhằm trao đổi thông tin, nhận thức, tư tưởng, tình cảm để bày tỏ mối quan hệ, cách ứng xử, thái độ giữa các thành viên của xã hội loài người với nhau và với thế giới xung quanh. Trong hoạt động quản lý nhà nước, một bối cảnh đặc biệt của giao tiếp xã hội, khi các chủ thể giao tiếp có những thuộc tính giao ước xã hội khác nhau, việc áp dụng một cách hợp lý và thuần thục những cơ cấu nghi thức tương thích là tiền đề quan trọng để đạt được hiệu quả giao tiếp tốt nhất. Nhà nước là một thiết chế tổ chức có cơ cấu phức tạp với chức năng quản lý đời sống cộng đồng của các tầng lớp dân cư trên địa bàn lãnh thổ nhất định. Để thực hiện các quyết định quản lý của mình, nhà nước áp dụng các biện pháp mang tính quyền lực nhà nước như thuyết phục, kỷ luật, cưỡng chế… tính quyền lực này được thể hiện bằng những phương tiện mang tính hình thức thuộc phạm trù nghi lễ như cách bày trí công sở, trang phục, nghi thức lễ tân… Những nghi thức, thủ tục mang tính lễ nghi là một bộ phận quan trọng không kém gì những quy định nêu trong những đạo luật. Nội dung của các nghi thức và thủ tục đó tạo nên khái niệm các nghi thức nhà nước. Nghi thức nhà nước nói chung được quy định tại các văn bản pháp luật của nhà nước, theo tập quán truyền thống dân tộc hoặc quốc tế mà các bên tham gia quan hệ thủ tục quản lý nhà nước phải tuân thủ hoặc thực hiện nghiêm chỉnh. Để đảm bảo một nền hành chính thực sự hiện đại, hoạt động hiệu quả và phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn, chúng ta không thể không nhắc đến vai trò của nghi thức nhà nước trong công sở hành chính. Nói cách khác, cán bộ công chức cần nắm rõ các nghi thức lễ tân trong công sở hành chính để có những kiến thức cần thiết trong công việc và đón tiếp khách… Đây không chỉ là xu hướng mà đã trở thành yêu cầu bức thiết đối với một nền hành chính hiện đại – nền hành chính ngày càng mang đậm tính chất phục vụ. Hơn nữa, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ hợp tác quốc tế giữa nước ta và các nước trên thế giới ngày càng mở rộng và phát triển. Các mối quan hệ hợp tác này đã góp phần tích cực cho sự phát triển kinh tế, chính trị và xã hội của đất nước, góp phần giữ vững ổn định an ninh, hòa bình trong khu vực và trên thế giới. Hàng năm, chính phủ và các đơn vị địa phương đã đón tiếp GVHD: Võ Duy Nam 1 SVTH : Nguyễn Thị Dương Đề tài: Nghi thức lễ tân trong công sở hành chính-lý luận và thực tiễn hàng trăm ngàn đoàn khách quốc tế vào làm việc tại Việt Nam, cũng như cử hàng trăm ngàn lượt cán bộ, chiến sỹ đi thăm, làm việc và học tập tại các nước; tổ chức hàng trăm hội thảo, hội nghị và các khóa tập huấn quốc tế nhằm tăng cường sự hợp tác quốc tế và nâng cao năng lực công tác trong các lĩnh vực liên quan cho cán bộ, công chức…Để đạt hiệu quả tối đa trong mọi hoạt động hợp tác như chia sẻ thông tin, kinh nghiệm, đào tạo, tập huấn thống nhất kế hoạch hợp tác và chương trình hoạt động chung, giao lưu văn hóa, thể thao… đòi hỏi các cán bộ, công chức phải hiểu rõ công tác lễ tân nhà nước. Công tác lễ tân được thực hiện trên cơ sở tổng hợp các quy định, tập quán quốc gia và quốc tế. Công tác lễ tân không những thể hiện chủ trương, chính sách đối nội, đối ngoại của Nhà nước mà còn thể hiện những nét văn minh và bản sắc văn hóa của một dân tộc. Thực hiện tốt công tác lễ tân là góp phần quan trọng vào sự thành công của công tác đối ngoại và ngược lại, nếu xảy ra sai sót sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả của công tác đối ngoại, thậm chí có thể gây căng thẳng cho quan hệ ngoại giao. Từ lý luận và thực tiễn đều cho thấy vai trò to lớn, mang tính quyết định của Nghi thức lễ tân nhà nước trong công sở hành chính, trong nền kinh tế-xã hội đang hội nhập và phát triển từng giờ. Tuy vậy, ta cũng phải nhìn nhận một cách khách quan những hạn chế các nghi thức nhà nước cho cán bộ, công chức làm công tác lễ tân nhà nước đang hằng ngày thực thi công vụ tại các cơ quan công quyền. Tất cả những điều nêu trên là lý do để chúng tôi chọn đề tài “Nghi thức lễ tân nhà nước trong công sở hành chính-lý luận và thực tiễn ” làm vấn đề nghiên cứu cho Khóa luận kết thúc khóa học tại trường Đại học Cần Thơ. 2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu thực trạng việc thực hiện Nghi thức lễ tân trong công sở hành chính; đồng thời đánh giá được những ưu và nhược điểm việc vận dụng Nghi thức lễ tân trong công sở hành chính. Trên cơ sở đó, chỉ ra những nguyên nhân cơ bản của những thực trạng và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả việc vận dụng Nghi thức lễ tân trong công sở hành chính trong quá trình thực thi công vụ. * Phạm vi nghiên cứu: đề tài không nghiên cứu tất cả các nội dung của công tác lễ tân mà chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản nhất liên quan đến Nghi thức nhà nước trong việc tổ chức, điều điều hành công việc tại cơ quan, công sở. 3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: đề tài tiến hành nghiên cứu Nghi thức lễ tân trong công sở hành chính : Nghi thức nhà nước và công việc lễ tân trong công sở hành chính GVHD: Võ Duy Nam 2 SVTH : Nguyễn Thị Dương Đề tài: Nghi thức lễ tân trong công sở hành chính-lý luận và thực tiễn * Khách thể nghiên cứu: những cán bộ, công chức trực tiếp làm công tác Lễ tân nhà nước và những người dân đến liên hệ, giải quyết công việc tại các cơ quan, tổ chức. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân…. Và bốn phương pháp nghiên cứu cụ thể là: phương pháp lịch sử; phương pháp duy vật biện chứng; phương pháp so sánh; phương pháp tổng hợp. Thông qua các phương pháp lịch sử; phương pháp duy vật biện chứng; phương pháp so sánh; phương pháp tổng hợp nhằm tổng hợp và so sánh làm nổi bật tầm quan trọng của Nghi thức lễ tân trong công sở hành chính. 5. Kết cấu đề tài Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo và lời kết. Đề tài gồm có 3 chương: Chương 1. Cơ sở lý luận về Nghi thức lễ tân trong công sở hành chính Chương 2. Quy định của pháp luật về Nghi thức lễ tân trong công sở hành chính Chương 3. Thực tiễn và kiến nghị để hoàn thiện các Nghi thức lễ tân trong công sở hành chính GVHD: Võ Duy Nam 3 SVTH : Nguyễn Thị Dương Đề tài: Nghi thức lễ tân trong công sở hành chính-lý luận và thực tiễn CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGHI THỨC LỄ TÂN TRONG CÔNG SỞ HÀNH CHÍNH 1.1 Lý luận chung về nghi thức lễ tân trong công sở hành chính 1.1.1 Khái niệm chung về công sở Theo nghĩa cổ điển, công sở là một tổ chức đặt dưới sự quản lý trực tiếp của nhà nước, để tiến hành một công việc chuyên ngành của Nhà nước. Ví dụ như các cơ quan hành chính Nhà nước, các Viện nghiên cứu, bệnh viện, trường học... Đây là một loại công sở nói chung có tư cách pháp nhân, phụ trách quản lý một loại công việc hay một loại hoạt động có tính chuyên ngành. Các tổ chức mang tính công ích, được Nhà nước công nhận thành lập, chịu sự điều chỉnh của Luật hành chính và các Bộ luật khác đều có nghĩa là công sở. Như vậy, công sở thực chất là một loại tổ chức và do đó có đặc trưng của một tổ chức. Xét về mặt nội dung công việc, hoạt động công sở nhằm thỏa mãn các lợi ích chung của cộng đồng, do vậy cần được sự bảo vệ và kiểm tra Nhà nước mới đảm thỏa mãn nhu cầu này. Xét về hình thức tổ chức, công sở là tập hợp các cơ cấu tổ chức, có phương tiện vật chất và con người được Nhà nước bảo trợ để thực hiện nhiệm vụ của mình. Hình thức có tổ chức của công sở do Nhà nước quy định và lệ thuộc vào phương thức điều hành của bộ máy Nhà nước. Hiện nay, nước ta có các loại công sở như công sở sự nghiệp, công sở hành chính... Xét trên ý nghĩa tổ chức Nhà nước, khái niệm công sở gần nghĩa với cơ quan trong hệ thống Nhà nước. Từ đó có thể coi công sở là trụ sở làm việc của cơ quan nhà nước, do Nhà nước lập ra. Tương tự, công sở là trụ sở làm việc của cơ quan của Đảng Cộng Sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội, đơn vị sự nghiệp công lập, có tên gọi riêng, có địa chỉ cụ thể, bao gồm công trình xây dựng, các tài sản khác thuộc khuôn viên trụ sở làm việc. Từ phân tích trên, có thể hiểu: công sở là các tổ chức mang tính chất công ích được nhà nước công nhận thành lập, chịu sự điều chỉnh của Luật hành chính và các luật khác. Công sở là các tổ chức thực hiện cơ chế điều hành, liểm soát công việc hành chính, là nơi soạn thảo và xử lý các văn bản để thực hiện công vụ, đảm bảo thông tin cho bộ máy quản lý nhà nước, là nơi phối hợp hoạt động và thực hiện nhiệm vụ được nhà nước giao cho đồng thời là nơi khiếu nại của dân. Công sở thực hiện nhiệm vụ (thường gọi là công việc) của khối gián tiếp, nhằm thực hiện chức năng của tổ chức, cơ quan. Ở đây, cán bộ công chức của bộ máy hành chính tham gia vào các hoạt động chung như xây dựng văn bản, xử lý hồ GVHD: Võ Duy Nam 4 SVTH : Nguyễn Thị Dương Đề tài: Nghi thức lễ tân trong công sở hành chính-lý luận và thực tiễn sơ, thông tin, tổ chức thực hiện các quyết định hành chính...theo chức trách của mình và theo một quy chế nhất định. Công sở hành chính có những nhiệm vụ chủ yếu: quản lý công vụ theo pháp luật; tổ chức phối hợp công việc giữa các bộ phận của cơ quan; tổ chức công tác thông tin trong cơ quan và giữa cơ quan với các cơ quan khác; thực hiện việc kiểm tra, theo dõi công việc của cán bộ, công chức thuộc cơ quan theo cơ chế chung và các quy chế khác do cơ quan, đơn vị ban hành dựa trên các quy định chung của nhà nước; tổ chức việc giao tiếp với dân, với các cơ quan trong bộ máy Nhà nước và các tổ chức xã hội, làm đại diện cho nhà nước để thực thi công vụ; tham mưu trong hoạt động chính sách, xây dựng pháp luật, các quy chế, quyết định cho cơ quan, tổ chức Nhà nước có thẩm quyền... công sở là nơi phục vụ công dân thông qua việc giao tiếp, giải quyết các công việc của dân,là hình ảnh nhìn thấy được của chính quyền, của các cơ quan nhà nước trong quy trình hoạt động của mình. 1.1.2 Lý luận chung về Nghi thức nhà nước và Nghi thức lễ tân Trong bất kỳ xã hội nào cũng luôn tồn tại các sự vật và các hiện tượng xã hội. Các sự vật, hiện tượng ấy nằm trong quá trình tác động của các hoạt động chính trị, văn hóa xã hội, kinh tế, khoa học, kỹ thuật, tôn giáo… Các hoạt động này diễn ra hết sức đa dạng và phong phú, phản ánh quá trình nhận thức và chinh phục thế giới tự nhiên, phản ánh quá trình nhận thức xã hội của loài người. Các hoạt động này dù có hướng tới thoả mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần của con người. Thế giới vật chất tồn tại và vô hạn trong sự vận động và biến đổi không ngừng, nó không phải là sự chuyển vị trí trong không gian mà theo nghĩa chung nhất, vận động là sự biến đổi nói chung. Ph.Ănggen viết: “vận động hiểu theo nghĩa chung nhất – tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể cả sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy” . Như vậy, bất cứ sự vật hiện tượng nào dù trong tự nhiên hay trong xã hội đều tồn tại trong trạng thái vận động, biến đổi không ngừng. Và trong trạng thái vận động, biến đổi không ngừng của xã hội, giao tiếp là hoạt động quan trọng trong đời sống xã hội, là nền tảng quan trọng để xây dựng nên xã hội. Nền văn minh nhân loại, nền văn hóa của mỗi dân tộc, quốc gia được kiến tạo thông qua hoạt động giao tiếp. Hoạt động giao tiếp có thể được thực hiện bằng các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, mà trong đó theo các nhà nghiên cứu thì vai trò cơ bản thuộc về phương tiện phi ngôn ngữ như điệu bộ, cử chỉ, trang phục… Nhưng dù được thực GVHD: Võ Duy Nam 5 SVTH : Nguyễn Thị Dương Đề tài: Nghi thức lễ tân trong công sở hành chính-lý luận và thực tiễn hiện như thế nào đi nữa hoạt động giao tiếp luôn luôn phải đặt trong những bối cảnh nhất định, được thực hiện bởi những cơ cấu nghi thức nhất định trong việc sử dụng các phương tiện giao tiếp tương ứng nhằm đạt tới mục tiêu đặt ra. Trong hoạt động quản lý nhà nước, một bối cảnh đặc biệt của giao tiếp xã hội, khi các chủ thể giao tiếp có những thuộc tính giao ước xã hội khác nhau, việc áp dụng một cách hợp lý và thuần thục những cơ cấu nghi thức tương thích là tiền đề quan trọng để đạt được hiệu quả giao tiếp tốt nhất. Nhà nước là một thiết chế tổ chức có cơ cấu phức tạp với chức năng quản lý đời sống cộng đồng của các tầng lớp dân cư trên địa bàn lãnh thổ nhất định. Để thực hiện các quyết định quản lý của mình, nhà nước áp dụng các biện pháp mang tính quyền lực nhà nước như thuyết phục, kỷ luật, cưỡng chế… tính quyền lực này được thể hiện bằng những phương tiện mang tính hình thức thuộc phạm trù nghi lễ như cách bày trí công sở, trang phục, nghi thức lễ tân… Những nghi thức, thủ tục mang tính lễ nghi là một bộ phận quan trọng không kém gì những quy định nêu trong những đạo luật. Như vậy, những nghi thức, thủ tục mang tính nghi lễ được thực hiện trong hoạt động giao tiếp quản lý nhà nước là một bộ phận quan trọng của các phương thức tiến hành hoạt động đó. Nội dung của những nghi thức và thủ tục đó kiến tạo cơ bản khái niệm nghi thức nhà nước. Nghi thức nhà nước là phương thức giao tiếp trong hoạt động quản lý nhà nước nói chung được quy định trong văn bản pháp luật của nhà nước và tập quán truyền thống của dân tộc và quốc tế mà các bên quan hệ phải tham gia và thực hiện. Nghi thức nhà nước bao gồm nhiều nội dung: - Các vấn đề liên quan đến hình thức công sở; - Các vấn đề liên quan đến giao tiếp của công chức trong thực hiện nhiệm vụ; - Các vấn đề liên quan đến cách thức thể hiện và sử dụng các biểu tượng quốc gia và thể thức văn bản nhà nước; - Các vấn đề liên quan đến công tác lễ tân như: việc đón, tiếp khách và các vấn đề liên quan đến tổ chức các hoạt động như hội họp, lễ hội, lễ kỷ niệm, lễ tấn phong… Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi chủ yếu quan tâm đến mối quan hệ thứ tư, đó là các vấn đề liên quan đến công tác lễ tân. Từ nội dung trên ta thấy khái niệm lễ tân là một nội dung của lễ nghi nhà nước. GVHD: Võ Duy Nam 6 SVTH : Nguyễn Thị Dương Đề tài: Nghi thức lễ tân trong công sở hành chính-lý luận và thực tiễn Lễ tân nhà nước là tổng hợp các nghi thức, thủ tục trong việc đón, tiễn, giao tiếp với khách nhằm giải quyết những công việc có liên quan đến quan hệ nội bộ nhà nước, giữa các nhà nước, cũng như giữa nhà nước với công dân. Hoạt động nghi thức lễ tân trong công sở hành chính diễn ra qua hai mối quan hệ cơ bản: Thứ nhất, nghi thức lễ tân trong mối quan hệ nội bộ nhà nước cũng như giữa nhà nước với công dân (đối nội). Thứ hai, nghi thức lễ tân trong mối quan hệ quốc tế, giữa các nhà nước - Lễ tân ngoại giao là nghi lễ, nghi thức, phép cư xử lịch thiệp, bình đẳng trong quan hệ đối ngoại. Lễ tân ngoại giao được thể hiện trong nghi lễ tổ chức các hoạt động đối ngoại, cách đón tiếp khách, cách sử dụng các biểu trưng quốc gia ( Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc gia, Quốc thiều…), sự đối xử lịch thiệp với các đại diện các quốc gia ( các vị lãnh đạo, nhà ngoại giao…), việc sắp xếp ngôi thứ, các liên hệ mang danh nghĩa nhà nước (điện, thư, thiếp chúc mừng, thể thức văn bản ngoại giao…) và các thủ tục ngoại giao. Hay nói cách khác, lễ tân ngoại giao là cách ứng xử trong giao tiếp với người nước ngoài, khi cần thể hiện được chủ quyền và lợi ích quốc gia, uy tín và quyền lợi dân tộc. 1.2 Lược sử về về Nghi thức lễ tân trong công sở hành chính “Trong đạo trị nước, lễ là cần hơn cả. Lễ để nhận rõ việc hiềm nghi, soi sáng chỗ vi ẩn, chia ra người trên kẻ dưới, tỏ rõ vật nọ phẩm kia. Lễ nghi 300 điều, uy nghi 3000 điều, chỗ nào cũng ngụ tinh thần của cổ nhân ở đó. Điển lễ thời cổ sâu kín tinh vi không thể nói hết được. Nước Việt ta dựng nước văn minh, thấm nhuần phong hóa Trung Hoa, mỗi đời nổi lên đều có lễ nghi, chất(phác) văn(hoa) bớt hay thêm, trước sau cùng so sánh, trong đó độ nghi tiết hoặc có khác nhau, xa cách hàng nghìn năm, biên chép thiết sót, nên phải tra cứu rõ ràng mà đính chính lại. Đây hãy nói đến những điều lớn như: quy chế mũ áo, nghi vệ xe kiệu, là để phân biệt người trên kẻ dưới; lễ tế trời ở đàn Nam Giao, tế tổ ở nhà Tôn Miếu, là để kính quỷ thần; việc vui mừng thì có lễ khánh hạ của triều đình; việc đau thương thì có lễ tuất tang của nhà nước; cũng là những lễ tiến tôn sách phong thì làm ở nơi cung phủ, những lễ tế cáo cầu đảo thì để tiếp với bách thần. Các lễ đều có quan hệ với đạo trời lẽ vật, với điển nước phép triều, các đời diên cách, kỹ, dối khác nhau, cần phải chia ra từng mối, từng ngành mà không thể thiếu sót được. Từ đời Đinh đời Lý trở về trước, nghi tiết còn đơn giản, đến đời Trần, đời Lê về sau, lễ chế mới nhiều, hoặc trước sơ lược mà sau tường tận hơn, hoặc trước GVHD: Võ Duy Nam 7 SVTH : Nguyễn Thị Dương Đề tài: Nghi thức lễ tân trong công sở hành chính-lý luận và thực tiễn không mà sau có, đều là do lễ nghĩa mà đặt, văn mỗi thời mỗi khác, nghi thức đã đặt, đều phải chép cả…”1[22]. Lễ vốn đã có từ trong xã hội nguyên thủy, dùng để chỉ những tập tục mang tính quy phạm ( tục lệ) mà các thành viên trong thị tộc, bộ lạc phải tuân thủ. Cùng với sự ra đời của nhà nước và phân hóa giai cấp, giai tầng các tục lệ được cải biên, chỉnh sửa phù hợp với điều kiện phát triển mới cơ cấu tổ chức quyền lực, tương quan chính trị và đời sống kinh tế - xã hội. Lễ là yếu tố được thể hiện và thể hiện rất rõ và mạnh mẽ trong đạo Khổng. Theo Kinh Lễ thì có đạo đức, nhân nghĩa mới thành. Chỉ có Lễ thì mọi quan hệ giữa người với người, giữa người với đất trời mới được thông suốt. Đã là người thì phải biết đến Lễ, học Lễ thông suốt. Cử chỉ, lời nói nhất thiết phải theo những khuôn phép nhất định, khuôn phép ấy là hợp với đạo của trời, của đất. “Trời cao đất thấp, muôn vật tản mát khác nhau, bởi thế phải đặt ra lễ để giữ gìn cho có trật tự. Lễ là định phận kẻ trên người dưới. Vương giả đời xưa dựng đặt ra mọi việc, việc gì cũng có lễ cả, như chế độ về áo xiêm, xe, kiệu; tế lễ có ở giao miếu; lễ cát hung thì độ số bao nhiêu, nghi chương thế nào, đều có phẩm trật. Đó là việc lớn của điển lễ phép tắc, không thể sai lầm rối lẫn được. Cho nên lễ để trị nước trước hết phải cẩn thận về những điều ấy” 2[22]. Các nhà nước phong kiến Trung Hoa, Việt Nam và một số nước Đông Á khác trước đây rất coi trọng lễ nghi, chế độ. Dưới thời phong kiến Lễ là một trong ngũ thường, là gốc của kẻ quân tử. Mọi hoạt động đều thấy hình ảnh của Lễ: + Quân lễ là những nghi thức dùng trong việc nhà binh như xuất quân, diễn tập, khải hoàn… + Tân lễ là những nghi thức được triều đình dùng trong tiếp đãi các tân khách như trong lễ triều kiến, sai sứ, triều hội, yến tiệc… + Gia lễ là những nghi thức mừng nhà vua và hoàng tộc như các lễ sinh nhật, lập thái tử, lập hoàng hậu,… + Cát lễ là những nghi lễ liên quan đến các đối tượng như thiên thần (mặt trời, mặt trăng, các tinh tú), thổ địa, nhân thần(tổ tiên, tiên thánh, tiên sư). + Hung lễ là những nghi thức về tống táng, thăm viếng gia đình có tang sự với các nghi lễ về trang phục, thời gian để tang của những người trong gia đình. Lễ tân ra đời từ rất sớm cùng với sự phát triển của xã hội. Ban đầu không ai đặt ra quy tắc, chỉ là thói quen giao tiếp. Các thói quen giống nhau được lặp đi lặp lại và hình thành những hình thức đơn giản của Lễ tân. Đó là những Nghi lễ biểu thị 1 2 [22] Lịch triều hiến chương loại chí, tập 2 - Phan Huy Chú. [22] Lịch triều hiến chương loại chí, tập 2 - Phan Huy Chú. GVHD: Võ Duy Nam 8 SVTH : Nguyễn Thị Dương Đề tài: Nghi thức lễ tân trong công sở hành chính-lý luận và thực tiễn sự tôn trọng của thị tộc- thị tộc, quốc gia- quốc gia để không làm tổn hại danh dự nước mình và uy tín quốc gia khác. Trước kia, nghi thức được áp dụng trong nghi thức đón tiếp các nước và phái đoàn ngoại giao được gọi là nghi thức triều đình, để chủ yếu phô trương sức mạnh, sự giàu có với nhau. Lễ tân tạo ra khoảng cách giữa vua chúa với thần dân, giữa nước lớn với nước nhỏ. Sau này được chia thành nghi lễ nhà nước và nghi lễ ngoại giao. Nghi lễ nhà nước là lễ tiết rất quan trọng của nhà nước, mang nặng tính quốc gia. Đối tượng là người trong nước, do lễ tân trong nước chuẩn bị, được tổ chức theo nghi thức quốc gia truyền thống. Áp dụng cho quốc khánh, quốc tang, lễ đăng quang nhậm chức hoặc tuyên dương công trạng thành tích. Nghi lễ ngoại giao là lễ tiết liên quan đến các quốc gia khác. Đối tượng chính là người nước ngoài, mang tính quốc gia và quốc tế. Được tổ chức theo tập quán quốc gia và quốc tế, do Lễ tân bộ ngoại giao chịu trách nhiệm. Được áp dụng cho đón tiếp đoàn người nước ngoài, tổ chức để trình thư uỷ nhiệm, trao huân huy chương cho người nước ngoài. Ngày nay, nghi thức nhà nước cần phải được hiểu là những phương thức giao tiếp trong hoạt động quản lý nhà nước nói chung, được quy định tại các văn bản pháp luật của nhà nước, theo tập quán truyền thống dân tộc, hoặc quốc tế mà các bên tham gia quan hệ thủ tục quản lý nhà nước phải tuân thủ và thực hiện nghiêm chỉnh. Ngay từ những ngày đầu của nền cộng hòa(1945), Đảng và nhà nước ta đã quan tâm đến công tác xây dựng lễ nghi nhà nước của chính quyền mới. Các văn bản pháp luật đã kịp thời được ban hành để điều chỉnh những vấn đề thuộc lĩnh vực này. Ngay sau khi tuyên ngôn độc lập, ngày 05/09/1945, Chính phủ của nước Việt Nam mới đã có sắc lệnh của Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa số 5 về bãi bỏ Cờ quẻ ly của chế độ cũ và ấn định Quốc kỳ mới của Việt Nam có “ nền mầu đỏ tươi, ở giữa có sao năm cánh màu vàng tươi”. Vào cuối những năm 50, sau khi hòa bình lặp lại, ngày 21/07/1956 Chính phủ đã ban hành ba văn bản quan trọng là Điều lệ số 973/TTg về việc dùng Quốc huy, Điều lệ số 974/TTg về việc dùng Quốc kỳ, Điều lệ số 975/TTg về việc dùng Quốc ca nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Năm 1976, quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có nghị quyết ngày 02/07 về tên nước, Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc Ca và thủ đô. Về vấn đề giao tiếp xã hội và lễ tân nhà nước, Hội đồng chính phủ ra quyết định số 56/CP ngày 18 tháng 03 năm 1975 về việc ban hành bản “thể lệ về tổ chức GVHD: Võ Duy Nam 9 SVTH : Nguyễn Thị Dương Đề tài: Nghi thức lễ tân trong công sở hành chính-lý luận và thực tiễn việc cưới, việc tang, ngày giỗ, ngày hội”; ngày 02 tháng 06 năm 1992 chính phủ ban hành nghị định số 182/HĐBT và kèm theo nó là “quy định một số nghi lễ nhà nước và tiếp khách nước ngoài”; Nghị định 82/2001/NĐ-CP ngày 06/11/2011 thay thế Nghị định 182/HĐBT ngày 02 tháng 06 năm 1992 Về nghi lễ Nhà nước và đón tiếp khách nước ngoài. Nghị định 145/2013/NĐ-CP do Chính phủ ban hành chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 16/12/2013 với một số điểm mới nhằm thay thế Nghị định 82/2001/NĐ-CP ngày 06/11/2011 Về nghi lễ Nhà nước và đón tiếp khách nước ngoài và Nghị định 154/2004/NĐ-CP ngày 09/8/2004 của Chính phủ về nghi thức Nhà nước trong tổ chức mittinh, lễ kỷ niệm, trao tặng và đón nhận Danh hiệu vinh dự Nhà nước, Huân chương, Huy chương, Cờ thi đua của Chính phủ, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ. Ngoài ra còn nhiều văn bản khác quy định về tổ chức việc cưới, việc tang, hội họp, về lễ phục, trang phục công chức, quy định một số nghi lễ nhà nước và tiếp khách nước ngoài… Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng nhiều vấn đề trong lĩnh vực này vẫn còn bị pháp luật bỏ ngỏ, mặc dầu vẫn biết đây là phạm vi điều chỉnh không thể chỉ hoàn toàn bằng pháp luật được. Những vấn đề liên quan đến nghi lễ nhà nước đã được pháp luật quy định cần phải được thực hiện nghiêm chỉnh. 1.3 Vai trò và ý nghĩa của nghi thức lễ tân trong công sở hành chính 1.3.1 Vai trò và ý nghĩa của nghi thức lễ tân trong vấn đề đối nội Lễ tân nhà nước là một biểu hiện quan trọng của văn hóa quản lý ( văn hóa hay nói cách khác là văn trị = cai trị + giáo hóa). Trong tuyên bố về những chính sách văn hóa, UNESCO Mêhicô 1982: “trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt, tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý trí, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà chúng ta xét đoán được những giá trị và thực thi những sự lựa chọn. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt mỏi những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt trội lên bản thân” GVHD: Võ Duy Nam 10 SVTH : Nguyễn Thị Dương Đề tài: Nghi thức lễ tân trong công sở hành chính-lý luận và thực tiễn Cán bộ công chức thực hiện tốt nghiệp vụ lễ tân nhà nước, góp phần nâng cao khả năng và kỹ năng nhận biết cái đẹp, sự tổng hòa những phẩm chất bên trong và bên ngoài, những khả năng thể chất và tinh thần – một hình thức lý tưởng giáo dục con người. Đó là sự tổng hòa mỹ-trí-dũng. Lễ tân hành chính là một nội dung tác nghiệp rất quan trọng, giúp cho việc mở rộng, củng cố, thúc đẩy việc giải quyết các mối quan hệ có liên quan đến chức năng quản lý của mỗi cơ quan, tổ chức, Nhà nước. Nghi thức lễ tân hành chính trong hoạt động của các cơ quan nhà nước xuất phát từ nhu cầu của Nhà nước, thể hiện và phục vụ chính sách, pháp luật của Nhà nước. Cho dù Nghi thức lễ tân hành chính không phải là nội dung chủ yếu của hoạt động hành chính nhưng lại là công việc cần thiết để tạo điều kiện cho hoạt động hành chính được tiến hành thuận lợi. Nghi thức lễ tân hành chính là bộ phận cấu thành của hoạt động hành chính để thực hiện các chức năng của hoạt động hành chính nhà nước. Nghi thức lễ tân vừa là công cụ chính trị của hoạt động hành chính của Nhà nước, vừa là phương tiện thực hiện và cụ thể hoá các nguyên tắc cơ bản của hoạt động hành chính. Lễ tân giao tiếp vừa thể hiện trọng thị đối với các đối tượng vừa đảm bảo thực hiện đúng đường lối, chính sách của nhà nước và nghi thức lễ tân nhà nước 1.3.2 Vai trò và ý nghĩa của nghi thức lễ tân ngoại giao Lễ tân ngoại giao thể hiện và phục vụ đường lối, chính sách đối ngoại của Nhà nước. Lễ tân ngoại giao không phải là nội dung chủ yếu của hoạt động ngoại giao nhưng lại là những công việc cần thiết để tạo điều kiện cho hoạt động ngoại giao tiến hành được thuận lợi. Nó là bộ phận cấu thành của hoạt động đối ngoại, không chỉ thực hiện chính sách đối ngoại của một Nhà nước mà còn thể hiện những nét văn minh và bản sắc văn hóa của một dân tộc. Do vậy, lễ tân thể hiện thái độ, quan điểm chính trị trong từng lễ tiết, như thái độ, hình thức đón tiếp thể hiện nội dung và mức độ quan hệ. Bất kỳ hoạt động ngoại giao nào giữa hai hoặc nhiều quốc gia đều cần tới các Nghi lễ tân ngoại giao: từ việc đón tiếp các phái đoàn chính thức, triệu tập các hội nghị quốc tế, đàm phán ký kết các hiệp định, đến việc bổ nhiệm, triệu hồi người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao, trình thư ủy nhiệm các vấn đề cụ thể như treo cờ, cử quốc thiều, trang phục trong các lễ tiết… Mọi hoạt động Nghi Thức lễ tân diễn ra tốt hay xấu đều có ảnh hưởng tốt hoặc xấu tới quan hệ của các nước. Nghi thức lễ tân ngoại giao vừa là công cụ chính trị của hoạt động đối ngoại của một Nhà nước, vừa là phương tiện thực hiện và cụ thể hóa các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. GVHD: Võ Duy Nam 11 SVTH : Nguyễn Thị Dương Đề tài: Nghi thức lễ tân trong công sở hành chính-lý luận và thực tiễn Nghi thức lễ tân ngoại giao tạo khung cảnh và bầu không khí cho mối quan hệ giữa các quốc gia được tiến hành thuận lợi; đề ra quy tắc cho các cuộc giao thiệp quốc tế; vận dụng các hình thức thích hợp trong các cuộc đàm phán ký kết các văn kiện quốc tế nhằm làm tăng giá trị và sự tôn trọng những điều đã ký kết. Nghi thức lễ tân ngoại giao cố gắng đảm bảo quyền bình đẳng cho các quốc gia, tạo điều kiện để mỗi quốc gia, ngay cả trong trường hợp thù địch với nhau, có sự tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng phẩm giá và quyền độc lập giữa các dân tộc, kể dân tộc nhỏ yếu nhất. GVHD: Võ Duy Nam 12 SVTH : Nguyễn Thị Dương Đề tài: Nghi thức lễ tân trong công sở hành chính-lý luận và thực tiễn CHƯƠNG 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NGHI THỨC LỄ TÂN TRONG CÔNG SỞ HÀNH CHÍNH 2.1 Chức năng, nhiệm vụ của lễ tân nhà nước Lễ tân là một nội dung quan trọng của nghi thức nhà nước. Nghị định 109/2008/QĐ-TTg ngày 08/08/2008 quy định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Lễ tân nhà nước trực thuộc bộ ngoại giao: Cục Lễ tân Nhà nước là tổ chức trực thuộc Bộ Ngoại giao, giúp Bộ trưởng Bộ Ngoại giao thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác lễ tân đối ngoại. Cục Lễ tân Nhà nước là Cục loại I, có tư cách pháp nhân, có con dấu hình Quốc huy, được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước theo quy định của pháp luật, trụ sở đặt tại thành phố Hà Nội. Cơ cấu tổ chức và biên chế: 1. Ban Nghi lễ đối ngoại. 2. Ban Ưu đãi, miễn trừ. 3. Ban Tổng hợp – Nghiên cứu. 4. Văn phòng. Các tổ chức trên là các tổ chức hành chính giúp Cục trưởng Cục Lễ tân Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Cục Lễ tân Nhà nước có nhiệm vụ và quyền hạn : Thứ nhất, tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Ngoại giao trong việc nghiên cứu, đề xuất, xây dựng để Bộ trưởng Bộ Ngoại giao ban hành hoặc trình các cấp có thẩm quyền ban hành các quy định về công tác lễ tân đối ngoại: - Nghiên cứu quy định, tập quán lễ tân Việt Nam và lễ tân quốc tế; - Chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức năng xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật về công tác lễ tân đối ngoại. - Chủ trì xây dựng, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các quy định về nghi lễ đối ngoại trong công tác đón tiếp khách nước ngoài; - Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng, hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện các quy định, chế độ ưu đãi, miễn trừ dành cho các Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan lãnh sự, Cơ quan đại diện thuộc Liên hiệp quốc, Tổ chức quốc tế liên Chính phủ tại Việt Nam và thành viên của các Cơ quan đại diện này; - Chủ trì xây dựng, hướng dẫn, kiểm tra thực hiện các quy định về thư tín trong giao dịch đối ngoại. GVHD: Võ Duy Nam 13 SVTH : Nguyễn Thị Dương Đề tài: Nghi thức lễ tân trong công sở hành chính-lý luận và thực tiễn Thứ hai, tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Ngoại giao chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về công tác lễ tân đối ngoại. Thứ ba, đề xuất để Bộ trưởng Bộ Ngoại giao tham mưu cho Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ trong công tác lễ tân đối ngoại: - Chủ trương, kế hoạch, biện pháp nâng cao và cải tiến công tác lễ tân đối ngoại phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước và tập quán quốc tế; - Nghi lễ trong công tác đón tiếp khách nước ngoài và tổ chức các sự kiện quan trọng tại Việt Nam hoặc do Việt Nam tổ chức ở nước ngoài. Thứ tư, tổ chức thực hiện công tác lễ tân đối ngoại: - Chủ trì về lễ tân, hậu cần đón tiếp các đoàn khách cấp cao nước ngoài, tổ chức quốc tế thăm, làm việc tại Việt Nam theo lời mời của Lãnh đạo Nhà nước, Chính phủ và khách mời của Lãnh đạo Đảng và Quốc hội khi có yêu cầu; - Chủ trì về lễ tân, hậu cần cho các đoàn Lãnh đạo cấp cao của Nhà nước, Chính phủ đi thăm, làm việc hoặc tham dự hội nghị quốc tế ở nước ngoài và các đoàn lãnh đạo cấp cao của Đảng, Quốc hội đi thăm, làm việc hoặc tham dự hội nghị quốc tế ở nước ngoài khi có yêu cầu; - Chủ trì về lễ tân trong việc tổ chức các hội nghị cấp cao quốc tế do Nhà nước Việt Nam đăng cai tổ chức tại Việt Nam; - Chủ trì về lễ tân cho lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Quốc hội dự các hoạt động lễ tân do Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan lãnh sự, Cơ quan đại diện thuộc Liên hợp quốc và Tổ chức quốc tế liên chính phủ tại Việt Nam mời; - Chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức năng tổ chức cho Người đứng đầu các Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan lãnh sự, Cơ quan đại diện thuộc Liên hợp quốc và Tổ chức quốc tế liên chính phủ tại Việt Nam tham dự các hoạt động do Nhà nước, Chính phủ Việt Nam mời; - Chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức năng tổ chức thực hiện quy trình chấp thuận, trả lời chấp thuận, đón tiếp, tổ chức lễ trình Quốc thư và tổ chức cho các Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước ngoài chào lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Quốc hội, tổ chức cho tập thể Đoàn Ngoại giao đi thăm các địa phương của Việt Nam; - Chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức năng quản lý và thực hiện chế độ ưu đãi, miễn trừ dành cho các Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan lãnh sự, Cơ quan đại diện thuộc Liên hợp quốc và Tổ chức quốc tế liên chính phủ tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam, các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia và thông lệ quốc tế; GVHD: Võ Duy Nam 14 SVTH : Nguyễn Thị Dương Đề tài: Nghi thức lễ tân trong công sở hành chính-lý luận và thực tiễn - Chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan của Bộ Ngoại giao thực hiện các thủ tục lễ tân đối ngoại đối với việc bổ nhiệm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền, Đại diện, Đại diện thường trực nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài tại Liên hợp quốc và các Tổ chức quốc tế liên chính phủ; - Chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức năng thông báo các quyết định của lãnh đạo Nhà nước, Chính phủ và quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến công tác lễ tân đối ngoại cho các Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan lãnh sự, Cơ quan đại diện thuộc Liên hợp quốc và Tổ chức quốc tế liên chính phủ tại Việt Nam; - Hướng dẫn, quản lý và phối hợp với các cơ quan chức năng bảo đảm chế độ ưu đãi, miễn trừ các nước dành cho các Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài và tại các Tổ chức quốc tế liên chính phủ phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế; - Phối hợp với các cơ quan chức năng tổ chức các sự kiện quan trọng của Việt Nam có mời khách cấp cao quốc tế, Đoàn Ngoại giao tham dự. Thứ năm, chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức năng tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ lễ tân cho cán bộ, công chức, viên chức ngành Ngoại giao, cán bộ, nhân viên Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài và các cơ quan, tổ chức khác khi có yêu cầu. Thứ sáu, quản lý tổ chức bộ máy, biên chế, tài chính và tài sản được giao theo quy định của pháp luật và phân cấp của Bộ Ngoại giao. Thứ bảy, thực hiện các nhiệm vụ khác theo ủy quyền hoặc phân công của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. 2.2 Yêu cầu của việc thực hiện các Nghi thức lễ tân nhà nước 2.2.1 Yêu cầu của các bộ, công chức thực hiện công tác lễ tân nhà nước Ngoài các tiêu chuẩn chung cần có của cán bộ, công chức thì cán bộ, công chức trực tiếp làm công tác lễ tân cần: có kiến thức tốt về công tác lễ tân quốc tế và quốc gia; am hiểu phong tục tập quán nước mình và nước bạn; phải có các đức tính: cẩn thận, tỷ mỉ, thận trọng, nhanh nhẹn, hoạt bát,chín chắn, không hấp tấp, vội vàng, nói năng lưu loát, biết tiếng địa phương và ngôn ngữ quốc tế thông dụng. Khi làm công tác lễ cần chú ý: + Mỗi lễ tiết phải có chương trình cụ thể, khoa học, chính xác, đầy đủ, phải có kế hoạch dự phòng; + Theo dõi chặt chẽ việc thực hiện; + Phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng, linh hoạt, nhạy bén với các bộ phận khác để thực hiện cho tốt. GVHD: Võ Duy Nam 15 SVTH : Nguyễn Thị Dương Đề tài: Nghi thức lễ tân trong công sở hành chính-lý luận và thực tiễn Việc tổ chức mít tinh, lễ kỷ niệm, trao tặng, đón nhận danh hiệu vinh dự nhà nước, đón tiếp khách nước ngoài đều cần phải tuân thủ theo các quy định về nghi thức nhà nước, và phải có biểu tượng quốc gia. Những biểu tượng quốc gia là một bộ phận cấu thành nên hệ thống các thủ tục nhằm thực hiện quyền lực nhà nước( thủ tục lập pháp, hành pháp và tư pháp) đồng thời là một bộ phận hình thức mang tính hỗ trợ quan trọng của chính những thủ tục đó. Bất kỳ một tổ chức, đơn vị nào cũng phải nắm được những nghi lễ này để hành xử cho đúng, cho tốt và có hiệu quả. Muốn thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, lễ tân trong nước phải nắm rõ các quy định của nhà nước khi sử dụng các biểu tượng quốc gia. Biểu tượng quốc gia là khái niệm dùng để chỉ các yếu tố cấu thành mang tính chất tượng trưng cho một quốc gia bao gồm: Quốc kỳ, Quốc ca, Quốc hiệu, Quốc huy. Từ xa xưa, hầu như mỗi dân tộc, quốc gia trên thế giới đã lựa chọn cho mình những biểu tượng nhất định. Những biểu tượng đó là Quốc hiệu, Quốc kỳ, Quốc Ca, Quốc ngữ, Quốc thiều…tức là những gì phần lớn tạo nên quốc thể. + Quy định về việc sử dụng Quốc hiệu Quốc hiệu là tên gọi của đất nước. Trong lịch sử, đất nước ta đã có nhiều tên gọi khác nhau như : Văn Lang, Âu Lạc, Giao Chỉ, Cửu Chân, Vạn Xuân, Đại Cồ Việt, Đại Việt, An Nam… Ngày 02/09/1945 nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Theo Sắc lệnh của Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa số 49/SL ngày 12/10/1945, tiêu đề các văn bản nhà nước được ghi là : “ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa”. Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, tên nước là : “ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Quốc hiệu cùng với tiêu ngữ: “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” cùng tạo thành tiêu đề văn bản, được in trên đầu trang nhất. + Quy định về việc sử dụng Quốc huy Quốc huy là huy hiệu của một nước hoặc hình tượng đặc trưng cho một nước. “Quốc huy nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình tròn, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh, xung quanh có bông lúa, ở dưới có nửa bánh xe răng và dòng chữ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” 3[1]. Quốc huy của bất cứ một quốc gia nào đều mang một thông điệp, một ý nghĩa nhất định, Quốc huy Việt Nam hình tròn, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh tượng trưng cho Đảng Cộng Sản Việt Nam, cho lịch sử cách mạng của dân tộc Việt và tiền đồ xán lạn của 3 [1] Khoản 2 điều 13 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 GVHD: Võ Duy Nam 16 SVTH : Nguyễn Thị Dương
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan