Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết sông của nguyễn ngọc tư...

Tài liệu Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết sông của nguyễn ngọc tư

.PDF
92
302
118

Mô tả:

Ơ ĐẠ ĐẠII HỌC CẦN TH THƠ ÂN VĂN KHOA KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NH NH Ữ VĂN BỘ MÔN NG NGỮ - - - ��� - - - LÊ TH THỊỊ THI MSSV: 6106430 Ệ THU ẬT TỰ SỰ TRONG TI ỂU THUY ẾT SÔNG NGH NGHỆ THUẬ TIỂ THUYẾ ỄN NG ỌC TƯ CỦA NGUY NGUYỄ NGỌ Lu Luậận văn tốt nghi nghiệệp Đạ Đạii học ữ Văn Ng Ngàành Ng Ngữ Cán bộ hướ ng dẫn: Th.S. GV. LÊ TH ÊN ướng THỊỊ NHI NHIÊ ơ, 2013 Cần th thơ 0 NG TỔNG QU ÁT ĐỀ CƯƠ ƯƠNG QUÁ ẦN MỞ ĐẦ U PH PHẦ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 2. Lịch sử vấn đề 3. Mục đích nghiên cứu 4. Phạm vi nghiên cứu 5. Phương pháp nghiên cứu ẦN NỘI DUNG PH PHẦ ƯƠ NG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG, TÁC GI Ả VÀ CH CHƯƠ ƯƠNG GIẢ ẨM TÁC PH PHẨ 1.1. Tự sự và tự sự học 1.1.1. Tự sự 1.1.2. Tự sự học ới thuy ật tự sự 1.2. Gi Giớ thuyếết về ngh nghệệ thu thuậ 1.2.1. Cốt truyện tự sự 1.2.2. Kết cấu tự sự 1.2.3. Ngôn ngữ trần thuật 1.2.4. Giọng điệu trần thuật ả và tác ph 1.3. Vài nét về tác gi giả phẩẩm 1.3.1. Tác giả 1.3.2. Tác phẩm 1.3.2.1. Hoàn cảnh sáng tác 1.3.2.2. Tóm tắt tác phẩm 1 ƯƠ NG 2: NGH Ệ THU ẬT TỔ CH ỨC CỐT TRUY ỆN VÀ CH CHƯƠ ƯƠNG NGHỆ THUẬ CHỨ TRUYỆ ỂU THUY ẾT SÔNG CỦA NGUY ỄN KẾT CẤU TRONG TI TIỂ THUYẾ NGUYỄ ỌC TƯ NG NGỌ 2.1. Ngh ật xây dựng cốt truy Nghệệ thu thuậ truyệện trong ti tiểểu thuy thuyếết Sông 2.1.1. Chi tiết nghệ thuật 2.1.1.1. Chi tiết về vấn đề mang tính thời sự 2.1.1.2. Chi tiết mảnh ghép cuộc đời và số phận con người 2.1.1.3. Chi tiết biểu trưng 2.1.2. Kết thúc bỏ lửng ật tổ ch ức kết cấu trong ti 2.2. Ngh Nghệệ thu thuậ chứ tiểểu thuy thuyếết Sông 2.2.1. Kết cấu thời gian, không gian đa chiều 2.2.1.1. Kết cấu thời gian đa chiều 2.2.1.2. Kết cấu không gian đa chiều 2.2.2. Kết cấu tầng bậc ƯƠ NG 3: NG ÔN NG Ữ VÀ GI ỌNG ĐIỆU TR ẦN THU ẬT CH CHƯƠ ƯƠNG NGÔ NGỮ GIỌ TRẦ THUẬ ỂU THUY ẾT SÔNG CỦA NGUY ỄN NG Ọ C TƯ TRONG TI TIỂ THUYẾ NGUYỄ NGỌ 3.1. Ng ữ tr ần thu ật Ngôôn ng ngữ trầ thuậ 3.1.1. Ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ 3.1.2. Sự đa dạng trong ngôn ngữ trần thuật ần thu ật 3.2. Gi Giọọng điệu tr trầ thuậ 3.2.1. Giọng triết lí 3.2.2. Giọng mộc mạc, hồn hậu 3.2.3. Giọng tâm tình ẬN KẾT LU LUẬ TÀI LIỆU THAM KHẢO MỤC LỤC 2 ẦN MỞ ĐẦ U PH PHẦ ĐẦU ọn đề tài 1. Lý do ch chọ Nghệ thuật tự sự là một vấn đề hấp dẫn đối với những nhà nghiên cứu. Khi tìm hiểu về vấn đề này của một tác phẩm, giúp ta khám phá ra những tầng lớp sâu kín về nghệ thuật, những nội dung độc đáo của một tác phẩm. Tìm hiểu về nghệ thuật tự sự giúp cho ta có cái nhìn khách quan hơn đối với tác phẩm. Và nghệ thuật tự sự là một trong những đối tượng nghiên cứu đặc thù của tự sự học. Trong đó, tự sự học là một phân nhánh của thi pháp học được xem như một khoa học nghiên cứu về cấu trúc của văn bản tự sự. Mặt khác, tự sự học cung cấp cho những nhà nghiên cứu về giới thuyết quan trọng trong việc khám phá, tiếp cận những giá trị của tác phẩm tự sự. Nguyễn Ngọc Tư là cây bút trẻ đầy hứa hẹn của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Những sáng tác của nhà văn mang đậm dấu ấn của con người Nam Bộ. Nguyễn Ngọc Tư đã khẳng định được vị trí trong văn đàn, trước hết đã vinh dự nhận được một số giải thưởng của Hội văn học thành phố Hồ Chí Minh và Báo tuổi Trẻ. Sau đó, tạo ng bất tận. Tác phẩm đã được tiếng vang lớn bằng sự ra đời của truyện ngắn Cánh đồ đồng tạo được ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả, và khiến cho giới phê bình bàn luận sôi nổi. Là nhà văn luôn tự làm mới mình, năm 2012, bằng một bước đi mới Nguyễn Ngọc Tư đã chuyển sang sáng tác tiểu thuyết “Sông ng””, tạo nên một làn sóng mới cho nền văn học Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và nền văn học Việt Nam đương đại nói chung. Tiểu thuyết Sông như một bước ngoặt thử nghiệm của Nguyễn Ngọc Tư. Không giống với những truyện ngắn trước đây, những nhân vật là con người chất phác, nồng hậu, còn trong tiểu thuyết đầu tay này nhân vật chính là những con người đi tìm lại “bản ngã” của chính mình, con người khát khao với hạnh phúc. Tiểu thuyết Sông chưa đầy 300 trang, song những trang viết ấy lại chuyển tải những vấn đề thời sự, về con người mang giới tính thứ ba, hay những bất cập của xã hội hiện nay, thông qua cái nhìn tinh tế và nhạy cảm nhưng không kém phần sâu sắc của một người nghệ sĩ. Đó là cái hay cái lạ về tiểu thuyết Sông của Nguyễn Ngọc Tư. Dưới góc độ của nhà nghiên cứu chúng tôi đi tìm hiểu về nghệ thuật tự sự để hiểu một cách đầy đủ và trọn vẹn hơn về giá trị nghệ thuật của tiểu thuyết Sông, cũng như về cái tình, cái hồn của nhà văn trong tác phẩm. Tiểu thuyết là thể loại tự sự cở lớn, là bức tranh hoành tráng tái hiện lại những khoảnh khắc của cuộc sống, chứa trong đó lịch sử nhiều cuộc đời, và tiểu thuyết được 3 xem như “sử thi của thời đại”. Ngày nay, xã hội càng phát triển năng động, vì thế tiểu thuyết đáp ứng được nhịp sống của xã hội hiện đại, phù hợp với tâm lí và thị hiếu của người đọc. Chuyển tải những mặt tích cực và tiêu cực của đời sống con người, có thể là những mảng nhỏ nhặt trong đời sống, như một lăng kính phản chiếu lại hiện thực cuộc sống con người. Chính vì thế tiểu thuyết có đóng góp đáng kể trong việc phát triển nền văn học cũng như thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Việc tìm hiểu về nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Sông của Nguyễn Ngọc Tư sẽ giúp ta hiểu rõ hơn về những vấn đề thời sự. Cũng như góp phần thúc đẩy sự phát triển của thể loại tiểu thuyết trong nền văn học Đồng bằng sông Cửu Long đang còn khiếm khuyết. Văn học Đồng bằng sông Cửu Long đến nay có những bước tiến đáng kể, nhưng gặp không ít khó khăn, trong việc khẳng định vị trí trong nền văn học. Vì một số khó khăn trong việc tiếp nhận những tác phẩm của người dân, và chưa có những tác phẩm có giá trị tư tưởng cao, không phải nơi đây không có những cây bút trẻ tài năng có tâm có nghề, bởi vì những nhà nghiên cứu về văn học của vùng “trũng” này còn quá ít, chưa đi sâu vào việc khai thác những giá trị đích thực của những tác phẩm, chuyển tải đến người đọc. Cũng chính điều đó người viết mong đóng góp nhỏ này có thể khai thác thêm vấn đề nghiên cứu của một tác phẩm, nhằm làm phong phú thêm nguồn tư liệu cho việc làm rõ giá trị của tác phẩm văn học. Bên cạnh đó mong bài viết này đưa ra cái nhìn khách quan hơn về tài năng của cây bút trẻ đầy hứa hẹn như Nguyễn Ngọc Tư, trong việc phát triển nền văn học vùng “trũng” cũng như nền văn học Việt Nam đương đại. Cũng như về mặt tích cực trong việc thoát khỏi phong cách sáng tác truyện ngắn, tản văn, tạp văn của Nguyễn Ngọc Tư trước đây. Đó là những lý do mà người viết chọn đề tài “Ngh Nghệệ thu thuậật tự sự trong ti tiểểu thuy thuyếết Sông của Nguy Nguyễễn Ng Ngọọc Tư” ư”.. 2. Lịch sử vấn đề Nguyễn Ngọc Tư là một cây bút trẻ, nhưng những tác phẩm của nhà văn đánh dấu những bước tiến đáng kể trong nền văn học vùng Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và nền văn học Việt Nam đương đại nói chung. Trong hơn mười năm sáng tác đối với một nhà văn thì khoảng thời gian không dài cũng không ngắn, trong đó Nguyễn Ngọc Tư đã cho ra đời hơn mười tập truyện ngắn, cùng nhiều tản văn và tạp 4 văn, một tiểu thuyết đầu tay. Với truyện ngắn đầu tay đã giúp nhà văn khẳng định được tài năng bằng giải thưởng của Hội văn học, một khởi đầu tốt giúp Nguyễn Ngọc Tư chuyển sang cây bút chuyên nghiệp hơn. Trong hai năm 2005- 2006, Nguyễn Ngọc Tư đã gặt hái được không ít thành công, làm xôn xao dư luận bằng những tác phẩm mang cái hồn riêng không lẫn vào đâu được, mang hương vị “sầu riêng”, được độc giả trong nước và ngoài nước ái mộ. Trong năm 2012, nhà văn đã cho ra đời tiểu thuyết Sông, một hướng rẻ mới trong sự nghiệp viết văn, bức phá ra khỏi phong cách viết truyện ngắn. Trong khoảng thời gian sáng tác, Nguyễn Ngọc Tư đã tạo nên những giá trị thật của chính những sáng tác, khẳng định vị trí xứng đáng trong văn đàn. Do đây là cây bút trẻ còn nhiều mặt hạn chế trong việc nghiên cứu về tác giả cũng như tác phẩm này, mà phần lớn những ý kiến, phản hồi được đăng tải nhiều trên Internet của những trang mạng như: Tuổi Trẻ, Báo văn nghệ, Dân Trí, Đài tiếng nói Việt Nam online, Văn Nghệ Đồng bằng sông Cửu Long, Blog cá nhân Nguyễn Ngọc Tư…. Trong bài phỏng vấn của trang mạng “Đà “Đàii ti tiếếng nói Vi Việệt Nam online”, Nguyễn Ngọc Tư đã tâm sự khi mình viết tiểu thuyết đầu tay “Đối với tôi, viết tiểu thuyết là một bước thử nghiệm thú vị, nếu tôi không thử viết tiểu thuyết thì có thể sau này tôi sẽ cảm thấy hối tiếc. Thực ra, có thể nói đây cũng chính là cố gắng của tôi, thay vì viết ngắn thì bây giờ tôi viết dài. Thay vì kể thiếu thì bây giờ kể thừa” [16]. Lời bộc bạch trên, cũng cho thấy được một phần con người cũng như phong cách viết văn của Nguyễn Ngọc Tư, một con người luôn muốn bức phá, luôn đi tìm cái mới, bức phá ra khỏi phong cách cũ để đi tìm chất “sáng” cho tiểu thuyết Sông cũng như những sáng tác sau này. Sáng tác cũng phải dấn thân cũng phải trải nghiệm mới có một bước tiến cho dù kết quả đem lại không được hoàn mĩ, nhưng đổi lại cho thấy sự cố gắng cũng như sự tôi luyện bản thân. Tiểu thuyết Sông là tiểu thuyết đầu tay của Nguyễn Ngọc Tư, nó ra đời chịu ảnh hưởng từ nhiều truyện ngắn khác của nhà văn, đặc biệt là tập truyện ngắn Cánh ng bất tận, tập truyện ngắn Gi đồ đồng Gióó lẻ và ch chíín câu chuy chuyệện kh kháác. Nguyễn Ngọc Tư đã viết về tiểu thuyết Sông bằng đam mê bằng việc thích khám phá, nhà văn đã nói: “Chỉ viết bằng sự mơ mộng, tưởng tượng về thế giới chưa từng tới, về những con người chưa từng thấy, những người chưa gặp hoàn toàn không vì một trải nghiệm nào” [16]. Dù Nguyễn Ngọc Tư viết bằng sự “mơ mộng, tưởng tượng” nhưng đó cũng là sự quyết tâm thay đổi phong cách viết truyện ngắn, cũng không thể đứng hoài một chỗ 5 trong ánh sáng của hào quang cũ được. Tuy tiểu thuyết Sông là một bước thử nghiệm, cái được cũng nhiều cái thiếu sót cũng có. Song vẫn thấy rõ được một Nguyễn Ngọc Tư luôn tự tin vào những gì nhà văn viết, viết bằng tất cả những gì mà tác giả trải nghiệm được, luôn muốn làm mới trang viết của mình bằng những thế giới khác, đây là sự thử thách với chính bản thân của tác giả để có một hướng đi mới trong sự nghiệp viết văn của mình. u tay Trong bài viết về “Nguy Nguyễễn Ng Ngọọc Tư ra mắt ti tiểểu thuy thuyếết đầ đầu tay”” nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên có nhận xét về tiểu thuyết Sông ng: “Ở Sông vẫn là không gian sông nước quen thuộc trong sáng tác của Nguyễn ngọc Tư. Sông là chuyển động, là dòng chảy. Với việc cho nhân vật ra đi men theo dòng sông, Tư đã làm được hai việc: vừa phản ánh hiện thực, kể, tả về những vùng đất dọc hành trình vừa men theo dòng chảy tâm trạng để nhân vật bộc lộ mình. Từng chương, từng chương của Sông hiện lên như truyện ngắn. Lối viết nhẫn nha, dẫn dụ tạo nên sự hấp dẫn từ những mảng miếng tưởng như rời rạc, chấp vá, câu chuyện dần mở ra theo từng trang sách. Sông như đời người với những khúc quanh. Sông vừa quen vừa lạ, vừa là Tư của hiện tại vừa là Tư của chuyển tiếp…” [15]. Những nhân vật trong tiểu thuyết là những hình tượng nhân vật “bỏ đi”, đi để tìm về với chính con người thật của mình, tìm về cái gọi là “bản ngã”, tìm thấy được khát vọng của cuộc sống. Trong tiểu thuyết là những cuộc đời của nhiều số phận được ghép nối lại với nhau nhưng vẫn là những con người thân thuộc mà ta từng bắt gặp trong truyện ngắn, những cuộc đời ấy có thể ẩn hiện bóng dáng cho những số phận thật trong cuộc sống hiện thực ngày nay. Những lời nhận xét trên cũng một phần giúp người đọc hiểu được một phần về tiểu thuyết Sông của Nguyễn Ngọc Tư. Biên tập viên Trần Ngọc Sinh của NXB Trẻ, trong lần giới thiệu về tiểu thuyết Sông có đưa ra nhận xét: “Sông là sự đổi mới toàn diện của Nguyễn Ngọc Tư. Đẹp. Đáo để. Trần tục và hư ảo. Truyện kết thúc bằng dấu chấm hỏi về số phận một con người - không do dự, cô đã đẩy mầm móng ý tưởng vừa nhú lên sang tay người đọc, để họ nuôi dưỡng chúng bằng trải nghiệm, qua việc đọc cuốn sách” [15]. Lời nhận xét của Biên tập viên Trần Ngọc Sinh một lần nữa khẳng định lại sự thay đổi trong phong cách viết văn của Nguyễn Ngọc Tư. Một tác phẩm được khen ngợi là “Đẹp. Đáo để. Trần tục và hư ảo”, nó như thổi ánh sáng vào tiểu thuyết Sông, tuy lời nhận xét ngắn gọn nhưng bao hàm cho cả tiểu thuyết về nội dung và nghệ thuật. Trong đó có đề cập 6 đến việc kết thúc tác phẩm, do những bạn đọc nuôi dưỡng những gì họ cho là đúng với hoàn cảnh và những con người thật của hiện tại. Một kết thúc không có hậu nhưng đó mới chính là phong cách viết văn của Nguyễn Ngọc Tư. Bạn đọc đã quen với phong cách viết truyện ngắn cũng như tản văn và tạp văn của Nguyễn Ngọc Tư, nhưng có sự thay đổi đáng kể trong cách viết mới, người đọc cần ngẫm nghĩ và nhận định lại những giá trị mà tiểu thuyết Sông mang lại. Nhà phê bình Nguyễn Thế Thanh nhận xét: “Tôi nghĩ Sông đặc biệt với Tư bởi cô đã bước ra khỏi vùng quen thuộc của mình. Vùng quen thuộc của Tư là truyện ngắn. Một vùng quen thuộc khác là tản văn rất hấp hẫn người đọc. Bây giờ Ngọc Tư bỏ lại sau mình tất cả những thói quen ấy, sở trường ấy để bước vào một thử thách mới là tiểu thuyết. Bản thân cô không nghĩ rằng sẽ viết một tác phẩm hoành tráng, cô chỉ biết là cô sẽ tự đổi mới chính mình. Cách viết lạ lẫm hơn. Cách xây dựng nhân vật cũng lạ lẫm hơn. Có người nhận xét về cuốn tiểu thuyết Sông của Nguyễn Ngọc Tư là nó đẹp, nó hư ảo và nó cũng đáo để nữa” [16]. Trong lời nhận xét trên, chủ yếu đề cập đến vấn đề tự đổi mới mình trong phong cách viết tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, không đi theo con đường cũ của truyện ngắn, tản văn và tạp văn. Tiểu thuyết Sông ra mắt độc giả trong năm 2012, tác giả đã đưa chuyện đồng tính vào tác phẩm, như một nét mới trong việc phản ánh hiện thực xã hội với vấn đề nóng bỏng này. Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên cho rằng: “Đưa chuyện đồng tính vào, tôi cho đó là một sự gia giảm cần thiết và hợp lý, với liều lượng vừa phải và hoàn toàn ăn nhập với câu chuyện đi tìm bản ngã ở tiểu thuyết “Sông”. Đủ để không gây cảm giác tác giả đang muốn dùng điều đó để câu khách - điều đó đương nhiên không có ở Nguyễn Ngọc Tư” [17]. Như nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên đã nhận xét cho dù là những con người đồng tính nhưng họ vẫn cần lắm sự khao khát sống đúng với chính bản thân con người mình, với cách đưa nhân vật như thế vào tác phẩm tạo nên hiệu ứng cao hơn trong việc thể hiện tâm lý cũng như sự đấu tranh trong con người họ được đẩy lên mức cao nhất. Trong bài báo “Kh Khảảo về sự bi biếến mất”, bài viết này đã đưa ra cách nhìn nhận về giọng điệu trong tiểu thuyết Sông: “Cũng phải nói thêm, nhờ sự thoáng chốc tan biến của Sông khi đọc lên, ngay từ đầu, nghi lễ khai sinh không còn vẫy gọi giọng điệu vang dội như hộp âm bốn chữ rải đều Cánh đồng bất tận, Biển người mênh mông, Thương quá rau răm, Khói trời lộng lẫy, Biến mất ở thư viện,…mà đơn độc chỉ dẫn về 7 một đích ngắm sự biểu đạt ngắn ngủi vụt hiện, tan chảy triền miên của hiện thực trước mặt. Từ đó lối viết tiểu thuyết này cũng có vài biến đổi dựa trên đà sẵn có của một phong cách văn chương đậm chất Nam Bộ” [18]. Tuy Nguyễn Ngọc Tư đã vượt qua cái bóng của giọng văn cũ, nhưng những trang viết vẫn đậm chất Nam Bộ không thể nào xóa nhòa, hay đây chính là nét riêng của nhà văn, một đứa con của vùng đồng bằng đầy nắng gió. Cũng chính nhà văn từng nhận định về tiểu thuyết Sông, nó không đạt như mong đợi, vẫn còn nhiều ý kiến về những mặt mà tác phẩm chưa đạt, trong việc tái hiện đời sống và những cung bậc trạng thái cảm xúc. Như câu nói của Nguyễn Ngọc Tư: “Vừa bước ra khỏi ngôi nhà ấm cúng kia thôi, gặp phải trận mưa đầu tiên” [14]. Quả thật, khi viết tiểu thuyết Sông Nguyễn Ngọc Tư cố bức phá ra khỏi phong cách viết truyện ngắn, tản văn và tạp văn, cố thoát mà không được, vì chịu ảnh hưởng nhiều từ những thành công trên. Khi tiểu thuyết Sông ra mắt bạn đọc cũng có nhiều ý kiến trái chiều về tác phẩm này, nó không tạo nên kịch tính và hấp dẫn người đọc, còn quá nhẹ nhàng ở chương kết thúc. ở cu Tác giả Nguyễn Võ Khang Hạ trong bài viết “Hơi th thở cuộộc sống trong ti tiểểu thuy thuyếết Sông của Nguy Nguyễễn Ng Ngọọc Tư” có bàn đến việc tác phẩm còn đôi chỗ chưa đạt, “theo tôi thì có đôi ba chỗ dở. Nhưng trong bài viết này tôi chỉ mạn phép lạm bàn một điều ở chương bốn, nói về bế và bà mẹ chồng giả bệnh ho giữ con dâu ở lại với mình trên chiếc ghe bán tạp hóa có tên rất lạ: Chợ Trôi. Đáng buồn là tác giả đã cho người đọc “ăn đồ nguội” từ truyện ngắn “Kịch ở Làng” nguyên cả đoạn văn dài với tên nhân vật… y chang, có “edit” dăm ba từ, lỗi chính tả” [19]. Lời lạm bàn cho thấy rõ khiếm khuyết của tác phẩm. Cho nên, sự đầu tư kĩ cho việc tạo chi tiết, tình huống cho tác phẩm cũng góp phần tạo nên một cốt truyện đặc sắc. ã” , tác giả Hoài Trong bài bình luận văn nghệ về “Sông và hành tr trìình bản ng ngã” Phương đưa ra lời nhận xét: “Đọc “Sông” ta cảm nhận được những “áp lực” đè lên Nguyễn Ngọc Tư. Điều đó dễ hiểu. Từ độ “Cánh đồng bất tận” đến nay đã là một khoảng thời gian đủ cho người đọc mong đợi một sự bức phá, hoặc chí ít một sự khác đi. Chưa kể Sông còn là tiểu thuyết đầu tiên của cây bút văn xuôi xuất sắc này. Có phải vì áp lực vô hình đó mà ở Sông, ta gặp một giọng văn dường như có chút phân vân, chênh chao, đôi chỗ gồng lên” [20]. Một vướng mắc khi nhà văn bắt đầu viết tiểu thuyết đầu tay, giọng văn vẫn ẩn hiện đâu đó trong những trang viết sự gò ép, lời nhận 8 xét đưa ra cái nhìn rõ hơn về giọng văn cố thoát khỏi những ràng buộc cũ, đi tìm một giọng văn đặc thù riêng của chính mình. Đây là lời nhận xét rõ hơn về phần nghệ thuật của tác phẩm, giúp cho những độc giả đưa ra cái nhìn toàn diện hơn về tác phẩm. Những lời nhận định, đánh giá trên xoay quanh những mặt được và hạn chế của tiểu thuyết Sông đa phần là đánh giá về sự bức phá khỏi phong cách viết truyện ngắn, tạp văn và tản văn của Nguyễn Ngọc Tư, chưa có những bài viết nghiên cứu sâu cũng như vẫn còn ít những ý kiến bàn luận về nghệ thuật tự sự của tiểu thuyết Sông ng. Những nhận định, đánh giá trên giúp cho người viết có thể tham khảo và tìm hiểu sâu hơn về nghệ thuật tự sự bằng việc lấy cốt truyện, kết cấu tự sự, giọng điệu trần thuật và ngôn ngữ trần thuật, làm đối tượng để khảo sát, tìm hiểu một cách có hệ thống về tiểu thuyết Sông. Để hiểu rõ và toàn vẹn, cũng như có cái nhìn khách quan hơn về nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Sông của Nguyễn Ngọc Tư. ch nghi 3. Mục đí đích nghiêên cứu Nghiên cứu về đề tài “Ngh Nghệệ thu thuậật tự sự trong ti tiểểu thuy thuyếết Sông của Nguy Nguyễễn Ng Ngọọc Tư” chúng tôi hướng vào những mục tiêu sau: Thứ nhất, tìm hiểu về tác phẩm Sông để thấy rõ hơn về nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Sông của Nguyễn Ngọc Tư, thông qua ngòi bút hồn hậu đậm chất Nam Bộ, cũng như mạnh dạn đưa vào tiểu thuyết vấn đề giới tính thứ ba bằng ngôn ngữ và giọng văn trần thuật hết sức linh hoạt. Xây dựng một cốt truyện sự kiện có những mối quan hệ ràng buộc với nhau để tạo nên hiệu quả về việc làm sáng tỏ chủ đề, một vấn đề về hiện thực của xã hội. Đồng thời cốt truyện tác phẩm có những chi tiết nghệ thuật đặc sắc giúp nổi bật lên những hình tượng nhân vật, cũng như không gian và thời gian nghệ thuật. Qua đó, có thể nhận ra nhiều mặt mà xã hội Việt Nam đang phải đối mặt với vấn đề nan giải này. Có những con người đi tìm về đúng bản ngã của chính mình, khát khao sống đúng con người thật, mà những điều đó thật khó thực hiện. Thông qua những vấn đề trên, tìm hiểu thêm về những vấn đề thời sự, cũng như những đóng góp trong việc thúc đẩy việc phát triển của văn học đương đại, ngoài ra có sự phá cách trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, góp phần tạo nên sự đa dạng trong sáng tác. Thứ hai, qua tác phẩm Sông có thể hiểu thêm về quan niệm cuộc sống, những cách nhìn, cách suy ngẫm có thể là triết lí đời thường về những vấn đề mà nhà văn đã đưa vào tác phẩm thông qua việc tìm hiểu nghệ thuật tự sự ở các khía cạnh: cốt truyện 9 tự sự, kết cấu, giọng điệu và ngôn ngữ trần thuật. Cũng như làm rõ giá trị thẩm mĩ của tiểu thuyết Sông. Thứ ba, mục đích nghiên cứu của đề tài này còn phục vụ mục đích học tập, tìm hiểu thêm về vấn đề thời sự xã hôi. Ngoài ra, còn giúp người viết nắm vững kiến thức về lí luận. 4. Ph Phạạm vi nghi nghiêên cứu Trong phạm vi nghiên cứu về đề tài “Ngh Nghệệ thu thuậật tự sự trong ti tiểểu thuy thuyếết Sông của Nguy Nguyễễn Ng Ngọọc Tư” ư”, do nhu cầu nghiên cứu, khả năng giới hạn của bản thân và nguồn tư liệu nên người viết chỉ khảo sát sâu về tiểu thuyết Sông, về nghệ thuật tự sự của tiểu thuyết, những giá trị mà tiểu thuyết chuyển tải đến những bạn đọc. Tìm hiểu về tác giả Nguyễn Ngọc Tư, một đứa con của vùng đất tận cùng của Tổ quốc. Bên cạnh đó người viết còn khảo sát thêm một số sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, và một số sáng tác của một số nhà văn khác, đặc biệt thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, để có cái nhìn mới, lạ và hay về cây bút trẻ này. Tư liệu khảo sát chính là tiểu thuyết Sông, bên cạnh đó người viết còn tham khảo tư liệu về “Lí lu luậận văn học”, “Thi ph phááp học”, “Từ điển văn học”, “Tự sự học”. Khi tìm hiểu về nghệ thuật tự sự cần phải liên hệ với những vấn đề lí luận và thi pháp, để làm rõ và có sức thuyết phục cao hơn về giá trị của tác phẩm. ươ ng ph áp nghi 5. Ph Phươ ương phá nghiêên cứu Nhằm đạt hiệu quả cao trong việc làm sáng tỏ đề tài, thì cốt yếu người viết thực hiện bước đầu tiên là tìm hiểu và đọc những vấn đề có liên quan đến phạm vi nghiên cứu. Bước tiếp theo là sử dụng phối hợp các phương pháp sau: Phương pháp phân tích chứng minh: trên những vấn đề lí luận và tác phẩm cụ thể, người viết đi tìm hiểu, phân tích, lập luận, giải thích, bằng những dẫn chứng cụ thể, nhằm làm rõ nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Sông. Phương pháp hệ thống: nhằm mục đích nhìn nhận, đánh giá một cách có hệ thống các sự kiện, chi tiết nghệ thuật, tình huống xảy ra với các nhân vật trong cốt truyện, cũng như mối quan hệ giữa các nhân vật, những yếu tố góp phần tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm như: giọng điệu, ngôn ngữ,… Từ đó làm rõ vấn đề mà đề tài đã đặt ra về nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Sông. 10 Phương pháp tổng hợp: trên cơ sở những vấn đề về tìm hiểu nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Sông thông qua phương pháp phân tích chứng minh và phương pháp hệ thống, từ đó tổng hợp lại những vấn đề mà tác phẩm đạt được cũng như hạn chế của tác phẩm, nhằm chọn ra những vấn đề nổi bật làm sáng tỏ đề tài. 11 ẦN NỘI DUNG PH PHẦ ƯƠ NG 1: CH CHƯƠ ƯƠNG Ả VÀ TÁC PH ẨM MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG, TÁC GI GIẢ PHẨ 1.1 .T ự sự và tự sự học 1.1.T .Tự 1.1.1. Tự sự Việc phân chia loại thể văn học từ xưa đã có và gặp không ít khó khăn. Trong đó, có nhiều cách phân chia văn học thành nhiều loại thể khác nhau, nhưng được sự đồng tình và ủng hộ nhiều nhất từ các nhà nghiên cứu lí luận học là cách chia văn học thành ba loại hình cơ bản nhất là: tự sự, trữ tình và kịch. Theo tác giả của công trình Lí lu luậận văn học, tự sự là “hiện thực tái hiện qua những cảm xúc, tâm trạng, ý nghĩ của con người, được thể hiện trực tiếp qua những lời lẽ bộc bạch, thổ lộ, tác phẩm tự sự phản ánh đời sống trong tính khách quan của nó - qua con người, hành vi, sự kiện, được kể lại bởi một người kể chuyện nào đó”. [7; tr.375]. Theo Lại Nguyên Ân, loại hình tự sự được hiểu là: “tái hiện hành động diễn ra trong thời gian và không gian, thực hiện các biến cố trong cuộc đời các nhân vật…” [1; tr.359]. Nếu tác phẩm trữ tình phản ánh hiện thực chủ yếu thông qua những biểu hiện của cảm xúc, suy tưởng, thì tác phẩm tự sự phản ánh hiện thực đời sống qua những sự kiện, biến cố. Vì vây, tính sự kiện có ý nghĩa quan trọng, là khả năng phản ánh cuộc sống một cách bao quát rộng lớn. Tính chủ quan trong tác phẩm tự sự được tác giả ẩn vào bên trong, tái hiện đời sống và thuyết phục người đọc chủ yếu ở tính khách quan. Và ở tự sự, có thể xây dựng được những tính cách phức tạp, mâu thuẫn, đa diện, đang hình thành; mặc dù không phải tác phẩm nào cũng làm được như vậy, nhưng khả năng tiềm tàng của tự sự là chỉ ra được cuộc đời trong tính toàn vẹn của nó, là khám phá được bản chất của cả một thời đại, là bộc lộ tính quy mô của hành vi sáng tạo. Tác phẩm tự sự không chỉ phản ánh thế giới bên ngoài còn phản ánh thế giới bên trong gồm tâm trạng, cảm xúc, ý nghĩ, gắn liền với giọng trần thuật trầm tĩnh. Nhà văn tự sự tái hiện toàn bộ thế giới, thể hiện mọi biểu hiện bên trong và bên ngoài con người, mà sự kiện là mối quan hệ của thế giới, tác giả tự sự có thể chọn và tạo ra không gian và thời gian. Chính điều đó giúp cho tác phẩm tự sự có khả năng bao quát cuộc sống trong phạm vi lớn. Giúp cho cốt truyện tự sự khác với cốt truyện kịch. 12 ật để tạo nên một tác Ngoài ra tác phẩm tự sự cũng cần những chi ti tiếết ngh nghệệ thu thuậ phẩm hoàn chỉnh, tác giả cũng tạo nên người trần thuật để phân tích, khêu gợi, bình luận hay làm sáng tỏ, giúp cho người đọc hiểu ý nghĩ thầm kín, hay hành động của nhân vật. Để có những điều đó nhà văn phải sáng tạo ra hình tượng người kể chuyện, các yếu tố nghệ thuật như ngôn ngữ, giọng điệu mang nét đặc trưng. Văn tự sự có một khả năng bao quát vô song mà chỉ có nghệ thuật điện ảnh là có thể sánh được. Tác phẩm thuộc thể loại tự sự trở thành một loại văn học có khả năng phản ánh hiện thực sâu rộng nhất, có vị trí ngày càng quan trọng trong đời sống tinh thần của người hiện đại. 1.1.2. Tự sự học Lí thuyết tự sự cung cấp một bộ công cụ cơ bản và sắc bén nhất giúp cho việc nghiên cứu đi sâu vào từng lĩnh vực nghiên cứu như điện ảnh, giao tiếp, phương tiện truyền thông, nghiên cứu văn hóa. “Nếu thiếu kiến thức cơ bản về tự sự học thì các phán đón trong các ngành nghiên cứu trên rất dễ phạm những sai lầm sơ đẳng và các kết luận có thể chỉ là lâu đài xây trên cát” [11; tr.11]. Trong lời nói đầu của công trình nghiên cứu “Tự sự học”, tác giả Trần Đình Sử có đề cập đến vấn đề: “Tự sự học (Narratology) là một lĩnh vực nghiên cứu đặc thù của Lí luận văn học, lấy nghệ thuật, tự sự làm đối tượng, phần nào đó tương ứng với “thi học” nghĩa hẹp, là lĩnh vực lấy thi ca làm đối tượng nghiên cứu. [11; tr.7]. Tự sự học vốn là một nhánh của thi pháp học hiện đại, hiểu theo nghĩa rộng “nghiên cứu cấu trúc của văn bản tự sự và các vấn đề liên quan hoặc nói cách khác là nghiên cứu đặc điểm nghệ thuật trần thuật của văn bản tự sự nhằm tìm một cách đọc” [11; tr.11]. Tư sự học không đóng khung trong tiểu thuyết mà vận dụng cả hình thức “tự sự” khác, như tôn giáo, lịch sử, điện ảnh, khoa học, triết học, chính trị. Trong văn học, tự sự có trong thơ, thơ trữ tình, trong kịch, chứ không chỉ là trong truyện ngắn, tiểu thuyết, ngụ ngôn… như một phương thức tạo nghĩa và truyền thông tin. Tự sự nằm trong bản chất con người bởi con người là một động vật biết tự sự. Chỉ có tự sự văn học là phức tạp nhất, đáng để nghiên cứu nhất. Tự sự học có từ thời Platon, Aistote. Đến tự sự học hiện đại được manh nha hình thành từ cuối thế kỉ trước. Tự sự học đến nay có thể chia làm ba thời kì: Tự sự học trước chủ nghĩa cấu trúc “nghiên cứu các thành phần và chức năng của tự sự” [11; 13 tr.13]; tự sự học cấu trúc chủ nghĩa đi tìm mô hình của hình thức tự sự. Đặc điểm của lí thuyết tự sự chủ nghĩa cấu trúc là lấy ngôn ngữ học làm hình mẫu, xem tự sự học là sự mở rộng của cú pháp học, còn trữ tình là sự mở rộng của ẩn dụ, và “mục đích của chủ nghĩa cấu trúc là nghiên cứu bản chất ngôn ngữ, bản chất ngữ pháp của tự sự nhằm tìm một cách đọc tự sự mà không cần đối chiếu giản đơn tác phẩm tự sự với hiện thực khách quan” [11; tr.14-15]; và tự sự học hậu cấu trúc, một bộ môn “quan tâm tới các phương thức biểu đạt ý nghĩa khác nhau, lấy văn bản làm cơ sở” [11; tr15]. Hình thức tự sự là phương tiện biểu đạt ý nghĩa của tác phẩm. Quá trình phát triển của lí thuyết tự sự, nhà lí luận tự sự Mĩ Gerald Prince chia làm ba nhóm theo ba loại hình. Nhóm một là những nhà tự sự học chịu ảnh hưởng của các nhà hình thức chủ nghĩa Nga như V.Propp. Nhóm hai lấy G.Genette làm tiêu biểu đã xem nguồn gốc của tự sự là dùng ngôn ngữ nói hay viết mà biểu đạt, nên vai trò của người trần thuật là quan trọng nhất. Nhóm ba đại diện là Gerald Prince và Seymour Chatman, họ coi trọng phương pháp nghiên cứu tổng thể, hay dung hợp. Lí thuyết tự sự học hiện đại cho ta thấy sự phức tạp của cấu trúc tự sự. Tác giả không bao giờ hiện diện trong tiểu thuyết như là “một người kể, người phát ngôn, mà chỉ xuất hiện như một tác giả hàm ẩn, một cái Tôi thứ hai của nhà văn, với tư cách là người mang hệ thống quan niệm và giá trị trong tác phẩm” [11; tr.18]. Lí thuyết tự sự chỉ ra “kết cấu của tầng bậc trần thuật, mà người trần thuật ở bậc càng cao thì càng xuất hiện sau, và nhiệm vụ của nó là cung cấp, giới thiệu người trần thuật ở bậc thấp, phân biệt trần thuật chính, trần thuật phụ, siêu trần thuật…” [11; tr.18]. Lí thuyết tự sự cho thấy rõ “sự biến dạng thời gian bằng các biện pháp rút gọn, tỉnh lược, cảnh, kéo dài, dừng lại, lặp lại, và các hình thức đổi thay tính liên tục của sự kiện” [11; tr.18], chính điều đó giúp ta có thể quan sát một cách cụ thể hơn về cơ chế của nghệ thuật tự sự. Lí thuyết tự sự có thể chỉ ra “góc nhìn, điểm nhìn, tiêu cự trần thuật với mô hình trần thuật” [11; tr.18]. Ngoài ra, tự sự học hiện đại cũng đi sâu vào nghiên cứu “về hành vi ngôn ngữ tự sự và các hình thức của nó, tiếp tục nghiên cứu về cấu trúc của tình tiết, đơn vị cơ bản của tình tiết, loại hình hóa cốt truyện” [11; tr.18-19]. Và tự sự học hiện đại tiếp tục nghiên cứu cấu trúc của tình tiết, đơn vị cơ bản của tự sự, các kiểu tổ hợp tình tiết, loại hình hóa cốt truyện. Tự sự học giúp hiểu rõ mọi hình thức tự sự, nghệ thuật và phi nghệ thuật. Mở ra khả năng nghiên cứu truyền thống tự sự trong mỗi nền văn học. Lí thuyết tự sự cung 14 cấp những khái niệm về cấu trúc văn bản tự sự, cho phép nhận ra các đặc điểm trên một cách khoa học. Ví dụ Milena Dolezel nghiên cứu mô hình tự sự trong tiểu thuyết cuối Thanh ở Trung Quốc, Andrew Placks, người Mĩ nghiên cứu nghệ thuật tự sự của tiểu thuyết chương hồi cổ điển Trung Quốc mà ông gọi là “Tứ đại kì thư”… Lý thuyết tự sự sẽ cho ta thấy không chỉ là kĩ thuật trần thuật của các thể loại, các nhà văn, mà cho thấy cả truyền thống văn hóa ở đằng sau nó. Và văn học Việt Nam cũng có truyền thống tự sự lâu đời. ới thuy 1.2 1.2.. Gi Giớ thuyếết về ngh nghệệ thu thuậật tự sự 1.2.1. Cốt truy truyệện tự sự Cốt truyện trong các thể văn học là một thành phần thiết yếu của tác phẩm tự sự và kịch, nhưng ít có trong tác phẩm trữ tình. Đặc biệt, trong tác phẩm tự sự cốt truyện được xem là một trường hành động của các nhân vật và để tác giả lý giải những tính cách của nhân vật. Theo Lại Nguyên Ân cốt truyện là: “Sự phát triển hành động; tiến trình các sự việc, các biến cố trong tác phẩm tự sự và kịch, đôi khi cả trong tác phẩm trữ tình” [1; tr.113]. Cốt truyện có chức năng quan trọng là thể hiện các mối quan hệ của các đời sống nhân vật, tức là tạo nên xung đột của một tác phẩm tự sự. Qua đó, phát triển mối quan hệ giữa các nhân vật đồng thời là nơi để tác giả bộc lộ các tính cách của nhân vật nhằm làm sáng tỏ chủ đề và tư tưởng của một tác phẩm tự sự. Trần Đình Sử cho rằng cốt truyện là: “yếu tố của tác phẩm tự sự. Theo định nghĩa truyền thống đó là tất cả hành động, biến cố được phát triển trong tiến trình kể chuyện” [9; tr.99]. Trong công trình Lí lu luậận văn học các tác giả cho rằng “cốt truyện thực chất là cái lõi diễn biến của truyện từ xảy ra cho đến kết thúc” [7; tr.304]. Còn trong Từ điển văn học cốt truyện là: “một phương diện của lĩnh vực hình thức nghệ thuật, nó chỉ lớp biến cố của hình thức tác phẩm. Chính hệ thống biến cố (tức cốt truyện) đã tạo ra sự vận động của nội dung cuộc sống được miêu tả trong tác phẩm. Tính truyện (có cốt truyện) là một phẩm chất có giá trị quan trọng của văn học, sân khấu, điện ảnh và các nghệ thuật cùng loại” [5; tr.324]. Chức năng của cốt truyện là làm sao bộc lộ được các mâu thuẫn của đời sống các nhân vật, tức là làm sao thể hiện được các xung đột; gắn kết các sự kiện thành một chuỗi; khắc họa nhân vật… 15 Có các kiểu cốt truyện như là: cốt truyện “biên niên” và cốt truyện “đồng tâm” hoặc cốt truyện “đơn tuyến” và cốt truyện “đa tuyến”. Ngoài ra, có những tác phẩm không có cốt truyện hoặc cốt truyện đơn giản, sơ lược. Cho dù truyện thuộc loại lớn hay nhỏ, cốt truyện thường được nêu theo tiến trình vận động của các sự kiện được miêu tả trong đó, từ hình thành cho đến kết thúc, bao gồm các thành phần chính: thắt nút, phát triển các hành động, cao trào, mở nút. Các thành phần ấy có một chức năng riêng, khi tìm hiểu một tác phẩm cần có sự nhận thức một cách linh hoạt về các thành phần đó để lí giải nội dung và tư tưởng tác phẩm. Thắt nút là sự xuất hiện các sự kiện đánh dấu điểm khởi đầu của mối quan hệ tất yếu sẽ tiếp tục phát triển. Phát triển là toàn bộ sự kiện và vận động của các mối quan hệ nảy sinh từ thắt nút. Cao trào là sự phát triển đến đỉnh điểm các sự kiện, tạo nên bước ngoặt lớn cho sự phát triển của truyện. Mở nút là sự kiện tiếp theo của cao trào, đánh dấu sự kết thúc và phát triển của các mối quan hệ, giải quyết xung đột trong tác phẩm. Ngoài ra cốt truyện có thể có phần trình bày và vĩ thanh. Trình bày là quá trình thai nghén xung đột. Vĩ thanh là phần kể lại những sự việc xảy ra, tương lai của các nhân vật. Nhưng cốt truyện không nhất thiết đủ các thành phần trên và tách bạch rõ ràng. Chính điều đó nên trật tự trần thuật có ý nghĩa là khám phá ý nghĩa tâm lý, tư tưởng, nhận thức của sự kiện đối với nhân vật. Cốt truyện trong một tác phẩm đôi khi cũng có sự lặp lại theo một môtip nào đó. Như vậy việc xây dựng cốt truyện có ý nghĩa quan trọng đối với một nhà văn, là nơi để nhà văn phán ánh những hiện thực xã hội cũng như những mâu thuẫn của đời sống con người. Góp phần xây dựng tình huống truyện trong một tác phẩm cần đến những chi ti tiếết ngh nghệệ thu thuậật nổi bật lên chủ đề cũng như hình tượng văn học đặc sắc. Trần Đình Sử viết: “chi tiết là những bộ phận nhỏ, tự nó không có ý nghĩa độc lập, nhưng lại biểu hiện được ý nghĩa của các chỉnh thể mà chúng thuộc vào” [9; tr.82]. Chi tiết nghệ thuật là dụng ý tinh tế của tác giả văn học để xây dựng nên tình huống truyện và làm tiền đề cho cốt truyện phát triển hợp lí. Là một phương tiện cơ bản để thể hiện nhân vật tính cách sao cho sinh động và hấp dẫn. Tác phẩm tự sự tái hiện cuộc sống khách quan nên có sự khởi đầu và kết thúc. úc tác ph Vì vậy, kết th thú phẩẩm là: “một trong những thành phần của cốt truyện thường tiếp theo sau ngay đỉnh điểm, đảm nhiệm chức năng thể hiện tính trạng thái cuối cùng 16 của xung đột được mô tả trong tác phẩm” [4; tr.157]. Hay “kết thúc tác phẩm, tác giả nói một ý kiến khái quát, một lời cảm ơn công chúng, v.v…” [5; tr.325]. Việc nhìn nhận vấn đề cuộc sống của mỗi người trong tác phẩm có cách suy nghĩ khác nhau, chính vì thế tác giả của tác phẩm tự sự thường dừng lại ở mức độ miêu tả sự việc nào đó, tạo nên một kết thúc bỏ ngỏ. Tiểu thuyết được xem là “sử thi của thời đại”, chính vì vậy mà nó gần giống như hiện thực cuộc sống, cũng phải tuân theo quy luật tự nhiên, được các tác giả tạo cho tác phẩm bằng kết thúc mở. Với lối kết thúc này thường đưa ra vấn đề mà không bàn luận, khiến cho người đọc có cảm giác câu chuyện còn tiếp diễn và kéo dài ra nửa. Nhà văn tạo cho tác phẩm kết thúc mở hay bỏ lửng vấn đề để người đọc liên tưởng đến sự việc đó sẽ diễn ra, cảm nhận và suy ngẫm về những vấn đề bằng cái nhìn đa diện, đa chiều, có thể những vấn đề được đề cập chịu ảnh hưởng từ nhiều mặt của cuộc sống. Chính là tuân theo quy luật đồng sáng tạo. Tuy nhiên, tác phẩm là đứa con tinh thần của tác giả, vì thế việc kết thúc một tác phẩm như thế nào vẫn mang bản chất và quan điểm của tác giả trong đó. 1.2.2. Kết cấu tự sự Tác phẩm văn học là đứa con tinh thần của quá trình tư duy nghệ thuật của nhà văn. Vì vậy, về nguyên tắc một tác phẩm văn học là một chỉnh thể, để tạo nên một tác phẩm hoàn chỉnh nhà văn phải lao động cật lực để chọn những chi tiết đặc sắc, sắp xếp các sự kiện, hình tượng, miêu tả chi tiết nghệ thuật như thế nào,… Phải đảm bảo nguyên tắc các yếu tố đó trong tổng thể có mối quan hệ bổ trợ nhau và tương đối bền vững. Nên kết cấu đóng vai trò quan trọng trong việc tạo thành một tác phẩm văn học hoàn chỉnh. Theo Lại Nguyên Ân “kết cấu là sự sắp xếp, phân bố các thành phần hình thức nghệ thuật; tức là sự cấu tạo tác phẩm, tùy theo nội dung và thể tài. Kết cấu gắn kết các yếu tố của hình thức và phối thuộc chúng với tư tưởng. Các quy luật của kết cấu – là kết quả của nhận thức thẩm mỹ, phản ánh những liên hệ bề sâu của thực tại” [1; ữ văn học thì: “Kết cấu là toàn bộ tổ chức phức tr.167]. Hay theo Từ điển thu thuậật ng ngữ tạp và sinh động của tác phẩm… Tổ chức tác phẩm không chỉ giới hạn ở sự tiếp nối bề mặt, ở những tương quan bên ngoài giữa các bộ phận chương, đoạn mà còn bao hàm sự liên kết bên trong, nghệ thuật kiến trúc nội dung cụ thể của tác phẩm… Kết cấu là phương tiện cơ bản và tất yếu của khái quát nghệ thuật. Kết cấu phải đảm nhiệm chức 17 năng đa dạng: bộc lộ tốt chủ đề, tư tưởng của tác phẩm; triển khai, trình bày hấp dẫn cốt truyện;… tạo nên tính toàn vẹn của tác phẩm như là một hiện tượng thẩm mĩ” [4; tr.156 – 157]. Kết cấu tạo nên tính toàn vẹn cho tác phẩm văn học. Tạo nên tính mạch lạc cho văn bản, vì kết cấu tác phẩm văn học là sự sắp xếp, bố trí hệ thống nhân vật, sự kiện, phương thức trần thuật, cũng như các thủ pháp văn phong,... sao cho logic. Kết cấu còn tạo nên sự thống nhất giữa chủ đề - tư tưởng với hệ thống tính cách. Giúp cho tư tưởng thống nhất và chủ đề được triển khai tập trung. Kết cấu có nhiệm vụ quan trọng giúp cho cốt truyện được sắp xếp thành từng chương, đoạn, lớp, cảnh phù hợp. Trong Từ điển văn học kết cấu là: “chỉ sự sắp xếp, phân bố các thành phần hình thức nghệ thuật – tức là sự cấu tạo tác phẩm, tùy theo nội dung và thể tài. Kết cấu gắn kết các yếu tố của hình thức và phối thuộc chúng với tư tưởng. Các quy luật của kết cấu là kết quả của nhận thức thẩm mĩ, phản ánh những liên hệ bề sâu của thực tại” [5; tr.715]. Trong công trình Lí lu luậận văn học, nhóm tác giả đưa ra khái niệm về kết cấu “là toàn bộ tổ chức nghệ thuật sinh động của tác phẩm” [7; tr.295]. Hay trong công trình Dẫn lu luậận nghi nghiêên cứu văn học của G.N Pôxpêlôp cho rằng: “kết cấu bao hàm sự sắp xếp nhân vật (“hệ thống” của chúng), sự sắp đặt các tình tiết của cốt truyện và trật tự thông báo về tiến trình các sự kiện, sự thay thế các thủ pháp trần thuật, và tương quan nhau của các chi tiết của cái…được miêu tả, và tương quan các chương, đoạn, khổ, các câu riêng biệt” [3; tr.206]. Mọi tác phẩm văn học dù lớn hay nhỏ đều có kết cấu, kết cấu như một phương tiện cơ bản nhất trong tác phẩm nghệ thuật. Nhà văn là một nhà ảo thuật tài ba trong chính những sáng tác của mình, vì từ những trải nghiệm của bản thân đã nhào nặn những kinh nghiệm ấy, cũng như tư tưởng, cảm xúc về hiện thực đời sống, hay những nhận thức về cái mới chưa ai đề cập đến để đưa vào trong tác phẩm. Từ đó, dẫn đến tác phẩm văn học không tách rời giữa nội dung cuộc sống và tư tưởng được tác giả chuyển tải vào trong tác phẩm văn học. Chức năng quan trọng của kết cấu là tạo cho tác phẩm trở nên mạch lạc, có “vẻ duyên dáng của sự trật tự” (Hoax). Ngoài khái niệm kết cấu, trong công trình Lí lu luậận văn học còn bàn thêm về kết cấu, được xem như một phần tất yếu trong tác phẩm văn học, “kết cấu là toàn bộ tổ chức tác phẩm trong tính độc đáo, sinh động, gợi cảm của nó. Cách tổ chức của thể loại, bố cục chung của một thể văn, nguyên tắc của một luật thơ cụ thể và cả mô hình 18 tư duy của một tác giả cố nhiên là quan trọng, nhưng kết cấu tác phẩm trong phần sâu sắc nhất của nó là sự liên kết theo công thức, biện pháp sẵn có, mà là liên kết theo sự hiện ra hiệu quả tư tưởng” [7; tr.296]. Kết cấu được xem như một phần tất yếu trong tác phẩm văn học. Không phải một tác phẩm văn học nào cũng được sắp xếp theo khuôn mẫu, từ những hình tượng nghệ thuật rồi mới có kết cấu, mà kết cấu xuất hiện cùng lúc với ý đồ nghệ thuật của tác phẩm. Chình vì thế, có thể nói “kết cấu là phương tiện khái quát nghệ thuật” [7; tr.296]. Thông qua kết cấu, nhà văn đưa vào tác phẩm những yếu tố làm sao cho nổi bật những cái quan trọng, tạo được ấn tượng mạnh đối với người đọc. Tác giả không chỉ sắp xếp, liên kết các hiện tượng, con người mà đó là cả quá trình vật lộn vất vả để đưa vào tác phẩm những chân lí, những vốn sống, những tư tưởng của tác giả thông qua con đường chủ yếu là kết cấu. Lựa chọn kết cấu phù hợp có sức tác động mạnh trong nhiệm vụ khái quát tư tưởng – cảm xúc được ấn tượng và có sức thuyết phục đến người đọc. Kết cấu có mối tương quan với nội dung còn có mối tương quan với hình thức, để tạo nên sự hài hòa và cân đối, khi nào hai mối tương quan này phát huy tác dụng. Khi nó phục vụ cho nội dung chân thật và sinh động. Đối với các thể loại văn học để có nguyên tắc tổ chức riêng, về quy luật, phương thức, bất biến và bền vững nhưng sự thể hiện của nó lại sinh động tùy thuộc vào mỗi tác phẩm thuộc thể loại gì mà có sự thay đổi tạo nên nét riêng. Kết cấu cũng có sự vận động và phát triển theo thời kì văn học. Như kết cấu trong tác phẩm truyền thống tuân theo trật tự thời gian trần thuật: cái gì có trước kể trước cái gì có sau kể sau, hay tổ chức theo hệ thống nhân vật: tác phẩm có mở đầu và kết thúc rõ ràng. Đối với tiểu thuyết hiện đại thì kết cấu có sự thay đổi nhằm tạo nên sức hấp dẫn đối với người đọc như kết cấu mở, kết cấu tâm lí, kết cấu ngược, kết cấu chia theo tuyến nhân vật… Các kiểu kết cấu này có thể chứa đựng nhiều sự kiện, biến cố, các tuyến nhân vật, chi tiết nghệ thuật nhiều hơn, nhằm tái hiện bức tranh về đời sống được chân thực và sinh động hơn, chuyển tải được nhiều tư tưởng sâu sắc, hay những trải nghiệm của tác giả vào trong tác phẩm, góp phần tạo nên một tác phẩm cụ thể và khách quan hơn dưới góc nhìn chủ quan của tác giả. Bất cứ hiện tượng nào được xây dựng lại một cách sáng tạo trong tác phẩm nghệ thuật, đều là hình tượng nghệ thuật, thông thường và quan trọng nhất là hình 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng