Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết nam bộ từ cuối thế kỷ xix đến năm 1932...

Tài liệu Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết nam bộ từ cuối thế kỷ xix đến năm 1932

.PDF
228
1
60

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------   -------- PHAN MẠNH HÙNG NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TIỂU THUYẾT NAM BỘ TỪ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẾN NĂM 1932 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN TP. Hồ Chí Minh, năm 2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------   -------- PHAN MẠNH HÙNG NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TIỂU THUYẾT NAM BỘ TỪ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẾN NĂM 1932 Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 62.22.34.01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS. Nguyễn Thị Thanh Xuân 2. PGS. TS. Lê Giang TP. Hồ Chí Minh, năm 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình nào khác. Tác giả luận án Phan Mạnh Hùng MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1 2. Đối tượng, phạm vi của luận án ......................................................................... 3 3. Lịch sử vấn đề ................................................................................................... 4 4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 21 5. Đóng góp mới của luận án ............................................................................... 22 6. Cấu trúc của luận án ........................................................................................ 22 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Một số vấn đề của tiểu thuyết và tiểu thuyết Nam Bộ............................... 24 1.1.1. Khái niệm tiểu thuyết ...................................................................... 24 1.1.2. Tiểu thuyết Nam Bộ - khái quát về lịch sử ...................................... 29 1.1.2.1. Giai đoạn hình thành và phát triển: 1887 đến 1932........... 29 1.1.2.2. Giai đoạn hội nhập: 1932 đến 1945 .................................. 38 1.1.3. Tiểu thuyết Nam Bộ - khái quát về đặc điểm................................... 40 1.1.3.1. Loại hình tiểu thuyết.......................................................... 40 1.1.3.2. Hình thức công bố ............................................................. 47 1.1.3.3. Chủ thể sáng tác................................................................ 51 1.1.3.4. Chủ thể tiếp nhận .............................................................. 60 1.2. Tự sự học – một khoa học về tiểu thuyết ................................................... 67 1.2.1. Tự sự học - khái niệm ..................................................................... 67 1.2.2. Tự sự học - quan niệm .................................................................... 69 1.2.3. Tự sự học - những tiêu điểm nghiên cứu ......................................... 72 Tiểu kết: ............................................................................................................. 76 Chương 2 TIỂU THUYẾT NAM BỘ TỪ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẾN 1932 – NHÌN TỪ KẾT CẤU TRẦN THUẬT 2.1. Các kiểu kết cấu trần thuật ........................................................................ 78 2.1.1. Kết cấu tuyến tính ........................................................................... 79 2.1.2. Kết cấu phi tuyến tính ................................................................... 101 2.2. Người kể chuyện và nhân vật ................................................................... 107 2.2.1. Mối quan hệ giữa người trần thuật và cốt truyện ........................... 108 2.2.2. Mối quan hệ giữa người trần thuật và nhân vật.............................. 123 Tiểu kết: .......................................................................................................... 137 Chương 3 TIỂU THUYẾT NAM BỘ TỪ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẾN 1932 – NHÌN TỪ NHÂN VẬT VÀ VIỆC KIẾN TẠO DIỄN NGÔN 3.1. Kiểu nhân vật............................................................................................ 142 3.1.1. Nhân vật anh hùng ........................................................................ 144 3.1.2. Nhân vật dục vọng ........................................................................ 153 3.1.3. Nhân vật oan khuất ....................................................................... 158 3.2. Các dạng thức tạo nghĩa diễn ngôn tự sự ................................................ 160 3.2.1. Dạng kể và tả ................................................................................ 163 3.2.2. Dạng đối thoại, độc thoại và lời nửa trực tiếp ................................ 186 3.2.3. Nhịp điệu câu văn xuôi ................................................................. 191 Tiểu kết: .......................................................................................................... 195 KẾT LUẬN....................................................................................................... 196 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN . 201 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 203 PHỤ LỤC ......................................................................................................... 218 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Tiểu thuyết viết bằng chữ Quốc ngữ La tinh xuất hiện khá sớm ở khu vực Nam Bộ, chỉ sau 25 năm tính từ khi triều đình nhà Nguyễn kí hiệp ước Nhâm Tuất (1862) chính thức chấp nhận sự có mặt của thực dân Pháp tại vùng đất này. Đó là một thời gian không dài lắm, nhưng đủ để cho ra đời một thế hệ nhà văn cùng với nền văn học mới: văn học chữ Quốc ngữ La tinh, ở đó văn xuôi gần như là thể loại chủ đạo. Sau những bước đi tiên phong trong việc cách tân văn học của các nhà văn Tây học như: Trương Vĩnh Ký (1837-1898), Trương Minh Ký (18551900), Diệp Văn Cương (1862-1929), Nguyễn Trọng Quản (1865-1911)… nền văn học Nam Bộ đã thực sự khởi sắc từ khi xuất hiện một lớp nhà văn thuộc thế hệ thứ hai từ sau năm 1910 như: Hồ Biểu Chánh (1885-1958), Lê Hoằng Mưu (18791942), Nguyễn Chánh Sắt (1869-1947), Phú Đức (1901-1970), Bửu Đình (18981931), Tân Dân Tử (1875-1955), Phạm Minh Kiên (?-?), Biến Ngũ Nhy (18861963)… Đội ngũ này đã tạo ra được một số lượng tiểu thuyết đồ sộ có hàng trăm cuốn với dung lượng dày mỏng khác nhau đã làm thay đổi gần như hoàn toàn bộ mặt của nền văn học Nam Bộ giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX. 1.2. Tiến trình hiện đại hóa văn học ở Việt Nam được bắt đầu ở Nam Bộ, và bắt đầu bằng một tiểu thuyết: truyện Thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản, công bố năm 1887. Tác phẩm này tưởng chừng như rơi thỏm vào bóng tối, bởi một thời gian khá dài, người ta chỉ biết Tố Tâm (1925) như là tiểu thuyết hiện đại đầu tiên. Kỳ thực, ngày hôm nay, khi tiếp xúc với văn bản truyện Thầy Lazarô Phiền, trên góc nhìn thể loại và thi pháp tự sự, chúng ta phải bất ngờ khi thấy sự khởi đầu của cái văn bản có số phận lặng lẽ này, lại là một khai phá mới. Một trong những khai phá mà chúng tôi muốn tập trung nói đến, đó là với tư cách là một tiểu thuyết trần thuật ở ngôi thứ nhất, truyện Thầy Lazarô Phiền đã mở ra một con đường thênh thang cho hàng loạt tiểu thuyết được xây dựng theo phương thức trần thuật này, làm nên tính hiện đại của tiểu thuyết và văn chương, đánh thức cái 2 tôi cá nhân trên phương diện sáng tạo và trong đời sống. Sẽ không thể nào hiểu đầy đủ và chính xác về tiến trình hiện đại hóa văn học ở Việt Nam, nếu không chạm đến cái con đường mà truyện Thầy Lazarô Phiền đã mở ra: nhân vật xưng tôi trực tiếp kể về mình, nhân vật xưng tôi phơi bày tâm trạng của chính mình với kẻ khác. Và sẽ thật không trọn vẹn nếu không khẳng định vai trò và đóng góp của tiểu thuyết Nam Bộ khi đã khai sinh ra dòng tiểu thuyết trinh thám võ hiệp mang dấu ấn kỹ thuật của phương Tây; dòng tiểu thuyết lịch sử mang âm hưởng hào hùng, khí phách dân tộc; dòng tiểu thuyết xã hội phản ánh gần như trọn vẹn đời sống văn hoá vật chất và tinh thần của con người phương Nam trong thời kỳ xã hội chuyển biến mạnh mẽ theo hướng hiện đại hoá nửa đầu thế kỷ XX. 1.3. Trong tiến trình hiện đại hóa, tiểu thuyết vốn được mệnh danh là thể loại tự sự chủ đạo lên ngôi, trở thành thể loại chủ lực của nền văn học mới. Tiểu thuyết thời kỳ đầu ở Nam Bộ thuộc loại hình văn học đại chúng, thiên về cốt truyện và nhân vật hành động: tập trung vào thủ pháp kể chuyện. Tiểu thuyết Nam Bộ cho thấy sự dung hợp kỹ thuật tự sự của tiểu thuyết Trung Quốc và tiểu thuyết Phương Tây. Điều đó cho thấy cần thiết có một công trình tập trung nghiên cứu cách kể - nghệ thuật tự sự, vốn là phương diện bản chất của tiểu thuyết để góp phần nhận chân được con đường hình thành, vận động (trong kế thừa, ảnh hưởng Đông Tây) của tiểu thuyết Việt Nam. 1.4. Tiểu thuyết Quốc ngữ Nam Bộ thực sự đã có những đóng góp quan trọng cho quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX, từng làm say mê và để lại những dấu ấn trong kí ức của nhiều thế hệ độc giả. Những năm gần đây, nhiều tác phẩm của các nhà văn Hồ Biểu Chánh, Phú Đức, Bửu Đình được tái bản, đã được đông đảo bạn đọc tiếp nhận. Thậm chí, những tác phẩm của nhà văn Hồ Biểu Chánh do nhà xuất bản Tiền Giang in và phát hành đã tạo ra một “hiện tượng” trong ngành xuất bản những năm thập niên 80 của thế kỷ XX. Vậy, điều gì khiến những cuốn tiểu thuyết cách nay gần cả trăm năm sống lại trong lòng xã hội hiện đại? Hẳn là người đọc tìm đến với tiểu thuyết Nam Bộ 3 với nhiều lí do. Có người đến với nó vì trách nhiệm trí thức trong việc nghiên cứu và bảo tồn di sản văn học của tiền nhân. Nhưng có một bộ phận không nhỏ độc giả đọc và yêu thích nó vì lẽ: thứ nhất, trong nội dung của những tác phẩm này ẩn chứa những tâm tư, tình cảm, phong tục, lối sống của con người Nam Bộ thuần phác. Trong đó, có nhiều giá trị đang dần mất đi và có thể không bao giờ quay trở lại trong cuộc sống hiện đại; thứ hai, những tác phẩm này thực sự hấp dẫn người đọc ở hình thức nghệ thuật kể chuyện độc đáo, một nghệ thuật tự sự, theo chúng tôi, đã chinh phục công chúng Nam Bộ và làm thành cái “gu” của họ trong một thời gian dài. Những năm gần đây, giới nghiên cứu ngày càng quan tâm đến văn học Quốc ngữ Nam Bộ. Có một số công trình nghiên cứu được xuất bản, nhiều cuộc hội thảo khoa học đánh giá văn học Nam Bộ từ cấp độ tác giả cho đến cả tiến trình hiện đại hóa được tổ chức, nhiều luận văn khoa học nghiên cứu về mảng văn học này. Những nỗ lực của các nhà nghiên cứu theo thời gian đã khỏa lấp được những khoảng trống trong khoa học và văn hoá. Tuy vậy, đến nay, việc nghiên cứu tiểu thuyết Nam Bộ vẫn có nhiều vấn đề còn đang để ngỏ, hoặc cần tiếp tục đào sâu hơn, đã thôi thúc các nhà nghiên cứu quan tâm, khám phá. Từ những lý do vừa đề cập, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Nam Bộ giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX đến 1932. 2. Đối tượng, phạm vi của luận án 3.1. Đối tượng Để triển khai công trình nghiên cứu, luận án chúng tôi tập trung vào các đối tượng sau: (1) Giới thiệu căn cứ lý thuyết (tiểu thuyết, tự sự học) và căn cứ lịch sử (tiểu thuyết Nam Bộ); (2) Nghệ thuật tự sự của tiểu thuyết Nam Bộ, nhìn trên bình diện kết cấu trần thuật, nhân vật và kiến tạo diễn ngôn. 3.2. Phạm vi Về phạm vi tư liệu, luận án khảo sát 85 bộ tiểu thuyết được sáng tác và xuất bản ở Nam Bộ giai đoạn từ năm cuối thế kỷ XIX đến 1932 (phụ lục 1). Những tiểu thuyết được sáng tác do những nhà văn có gốc gác ở các vùng đất khác đến sống 4 và làm việc tại khu vực này như: Bửu Đình, Phạm Minh Kiên cũng là đối tượng nghiên cứu của công trình. Bởi theo chúng tôi, các nhà văn này đã có một thời gian dài sống ở mảnh đất Nam Bộ, các tác phẩm của họ được sáng tác, xuất bản và hướng đến người đọc nơi mảnh đất họ gắn bó. Do vậy, những tác phẩm này cần được xem là thành tựu của văn chương Nam Bộ. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, người viết còn khảo sát một số tiểu thuyết xuất bản ở miền Bắc cùng một giai đoạn để phục vụ cho việc so sánh đối chiếu. Về khái niệm tiểu thuyết: đây là giai đoạn nền văn học Việt Nam nói chung đang từng bước hiện đại hóa. Các thể loại của nền văn học hiện đại đã từng bước định hình trong đó có tiểu thuyết. Khái niệm tiểu thuyết cần phải được hiểu một cách uyển chuyển, có tính lịch sử cụ thể. (Vấn đề này sẽ được chúng tôi trình bày kĩ hơn trong chương một: Những vấn đề chung). 3. Lịch sử vấn đề Vấn đề nghệ thuật của tiểu thuyết Nam Bộ đã được quan tâm từ khá sớm. Trong phần này, chúng tôi sẽ điểm lại lịch sử nghiên cứu tiểu thuyết Nam Bộ (sự hình thành, diện mạo và tiến trình vận động) nói chung và tập trung chú ý những ý kiến bàn luận về nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Nam Bộ qua ba chặng chính: - từ đầu thế kỷ XX đến 1945 - từ 1945 đến 1975 - từ 1975 đến nay 2.1. Giai đoạn đầu thế kỷ XX đến 1945 Những ý kiến luận bàn về nghệ thuật tiểu thuyết Nam Bộ giai đoạn này phần lớn là những bài phê bình, trao đổi văn chương đăng trên báo chí ở Nam Bộ. Có thể xem đây là những ý kiến của những người đương thời bàn về tiểu thuyết Nam Bộ. Trong điều kiện lịch sử cụ thể, những ý kiến bình giá vẫn chỉ dừng ở mức độ khen chê về mặt nội dung, văn thể của các tác phẩm cụ thể và vẫn rất hiếm những đúc kết khái quát. Nhìn chung, cách tiếp cận thể loại của các cây bút phê bình trên báo chương Nam Bộ vẫn ở mức độ khám phá bước đầu. 5 Một trong những bài phê bình xuất hiện khá sớm và tương đối tiêu biểu là Tự do diễn đàn (1915) [117] của Lê Văn Nghĩa. Tác giả bài viết đã có lời khen Hà Hương phong nguyệt của Lê Hoằng Mưu là “đặt lớp nghe đã hay mà văn nói nghe cũng giỏi, thiệt là dủ sức dủ kỳ (sic), coi không muốn thôi”. Hơn mười năm sau, chính Hà Hương phong nguyệt với nội dung đậm tính sắc dục đã tạo ra cuộc bút chiến giữa Lê Hoằng Mưu và nhóm Nguyễn Háo Vĩnh, Cao Hải Để, Nguyễn Chánh Sắt trên Công luận báo (1928). Cuộc bút chiến tạo ra một kết quả chưa có tiền lệ: nhà cầm quyền ra lệnh tiêu hủy Hà Hương phong nguyệt. Điều đáng nói là từ “vụ án” văn chương này, tinh thần Lê Hoằng Mưu suy sụp và ngòi bút của ông trở nên không còn sắc sảo. Sau đó, phê bình Tỉnh mộng (1923) của Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Tường cho rằng “không những hay về văn từ, vả lại hay về tâm lý (…) Tiểu thuyết Tỉnh mộng đủ cả vừa tình vừa cảnh, vừa văn chương vừa tâm lý, lại tác giả khéo lựa câu, dùng chữ rất giản dị hễ đọc đến thì hiểu nhận cảm hóa ngay, thật là một lối tiểu thuyết đặt tài, phổ thông (PMH - nhấn mạnh) cả ba hạng người mà Trung, Nam, Bắc lâu nay chưa từng thấy ai biết dùng đến bao giờ vậy” [178]. Có thể thấy, từ rất sớm, Nguyễn Tường đã phát hiện được những đặc tính quan trọng của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh: giản dị và hướng đến công chúng “phổ thông”. Sự xuất hiện của một số cây bút chuyên tâm vào phê bình và nghiên cứu văn học vào thập niên 1930 cho thấy nền văn học đang vận động theo hướng hiện đại hóa và chuyên nghiệp hóa. Theo đó, văn học Nam Bộ nhận được sự quan tâm của các bình giả trong Nam như Thiếu Sơn, Kiều Thanh Quế và ở Bắc như Vũ Ngọc Phan. Tuy vậy, những quan tâm ấy vẫn chưa thực sự tương xứng với vùng văn học vốn đi tiên phong và đầy sôi động, có những đóng góp đáng kể cho quá trình đổi mới văn học và hiện đại hoá xã hội. Với lối phê bình chân dung, Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn là công trình phê bình văn học đầu tiên tập trung vào một số gương mặt nhà văn và tiểu thuyết Nam Bộ. Nhận định về Hồ Biểu Chánh, tác giả Phê bình và cảo luận cho rằng: “Hồ Biểu Chánh là một người có kinh nghiệm, hiểu rộng, biết nhiều về 6 nhân tình thế thái, có quan sát, đã thâu vào cặp mắt tinh thần được nhiều bức tranh xã hội. Lại thấy một nhà tâm lí đã khám phá được nhiều điều bí ẩn ở tâm giới người đời một nhà thi sĩ đã cùng với nước non cây cỏ mà cảm thương thiết tha; một nhà luân lí đã từng vì nhiều điều thảm mục thuơng tâm mà tỏ lòng bất mãn…” [135/47]. Bên cạnh đó, nhận xét về Hòn máu bỏ rơi của Phan Huấn Chương, Thiếu Sơn cho rằng: “Ông Phan Huấn Chương đã làm được bộ phong tục tiểu thuyết Hòn máu bỏ rơi, rất xứng đáng với cái phần thưởng của Đuốc nhà Nam ngày nọ” [135/104]. Với Người vợ hiền của Nguyễn Thới Xuyên, Thiếu Sơn phân tích tâm lí, hành động của các nhân vật, chỉ ra những ưu điểm và những chỗ hạn chế của tác phẩm. Theo Thiếu Sơn “Nhờ ở cây viết tài tình linh động của Nguyễn quân nó đã gây cho cuốn sách có được cái giá trị văn chương ít có” [135/79]. Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại (1942) đã trang trọng đặt Hồ Biểu Chánh vào hàng Các tiểu thuyết gia thuộc thế hệ mở đầu. Vũ Ngọc Phan đã chỉ ra những điểm khác nhau giữa tiểu thuyết của Hoàng Ngọc Phách và Hồ Biểu Chánh: “Tiểu thuyết họ Hoàng thiên về tả tình và giọng văn nhiều chỗ ủy mị cầu kỳ, không tự nhiên, còn tiểu thuyết của họ Hồ thiên về tả việc và lời văn mạnh mẽ, giản dị, nhiều chỗ như lời nói thường” và “tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh có tính chất bình dân, bình dân cả từ những nhân vật ông chọn đến những lời văn ông viết nữa” (PMH - nhấn mạnh) [119/337]. Nên nhớ là Nhà văn hiện đại xuất hiện vào thời điểm tiểu thuyết Nam Bộ có hơn 40 năm phát triển với một diện mạo và chất lượng tương đối. Thế nhưng, trong rất nhiều các hiện tượng văn học Nam Bộ, chỉ một mình Hồ Biểu Chánh vinh dự bước vào Nhà văn hiện đại. Mộc Khuê (Kiều Thanh Quế), nhà phê bình tiêu biểu của Nam Bộ đầu thế kỷ XX, người có vai trò như là một trong những cầu nối giữa hai vùng văn học Bắc Bộ và Nam Bộ, trong công trình có tính chất tổng kết Ba mươi năm văn học (1942) cũng chỉ dừng lại ở công việc “tính sổ” và “điểm mặt” các hiện tượng tiểu thuyết Phú Đức, Bửu Đình, Phan Huấn Chương, Nguyễn Thới Xuyên. Cũng như những công trình trước đó, Kiều Thanh Quế tập trung đánh giá tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Nhà phê bình cho rằng: “Văn Hồ quân tuy bị đa số độc giả trí thức 7 phiền hà về văn phạm nhiều lắm, nhưng đa số cốt truyện của Hồ quân ai cũng phải công nhận là có tính cách Nam Kỳ trăm phần trăm, diễn tả được mặt trái đời nông dân miền Hậu Giang (xem Một đời tài sắc, Ở theo thời, Khóc thầm, Con nhà nghèo) thành thử có một màu sắc bản xứ đáng để ý” [77/54]. So với công trình của Thiếu Sơn và Vũ Ngọc Phan, dù chỉ ở mức sơ lược nhưng Ba mươi năm văn học đã cung cấp một dữ liệu đáng tin cậy về tên tuổi nhà văn và tác phẩm văn học Nam Bộ những năm đầu thế kỷ XX. Điều quan trọng hơn, qua những trang viết của Kiều Thanh Quế, tiểu thuyết Nam Bộ lần đầu tiên được đặt trong sự đối sánh với văn học miền Bắc, giúp ta nhận rõ phần nào diện mạo phong phú của tiểu thuyết Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Có thể thấy, trước 1945, sáng tác của Hồ Biểu Chánh luôn luôn trở thành tâm điểm, điểm nhấn trong những đánh giá về tiểu thuyết Nam Bộ của các nhà nghiên cứu. 3.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1975 Cách mạng tháng Tám thành công chưa được bao lâu thì cả nước phải tập trung toàn bộ sức lực vào công cuộc kháng chiến chống Pháp. Nhiều vấn đề quan thiết của hoạt động khoa học tạm được gác lại trong đó có công tác nghiên cứu văn học. Trừ Việt Nam văn học sử trích yếu của Nghiêm Toản được xuất bản năm 1949, phải đến sau 1954, công việc nghiên cứu lịch sử văn học nói chung và sự quan tâm đến tiểu thuyết Nam Bộ mới chính thức được khởi động trở lại. 2.2.1. Nghiên cứu tiểu thuyết Nam Bộ ở phương diện thể loại trong giai đoạn 1945 - 1975 vẫn chủ yếu tập trung vào tác phẩm của Hồ Biểu Chánh. Đây cũng là xu hướng chính của nghiên cứu tiểu thuyết Nam Bộ trước 1945. Có thể thấy, qua Việt Nam văn học sử trích yếu, Nghiêm Toản là người đầu tiên đưa tiểu thuyết Nam Bộ, cụ thể là tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, vào công trình có tính chất văn học sử. Những nhận định của Nghiêm Toản cũng là một tiếp nối và làm rõ hơn các nhận định của Vũ Ngọc Phan, Thiếu Sơn, Kiều Thanh Quế trước đó. Nghiêm Toản cho rằng: “Ông (Hồ Biểu Chánh - PMH) chiếm được địa vị cao trong làng tiểu thuyết vì ông đã quyến rũ nổi người đọc; họ ham theo dõi 8 các việc ông kể, xảy ra dồn dập: chính động tác đã gây hứng thú và gợi tính hiếu kỳ của kẻ đọc ông. Ông chuyên tả tình một cách tỉ mỉ, tinh vi; những hành động, các vai đủ biểu lộ tính tình; vẽ cảnh ông cũng chỉ dùng vài nét bút, tả rất đơn sơ; tóm lại, như chúng tôi vừa nói ở trên, tiểu thuyết của ông “sống” về “việc” ông đã trình bày với một lối văn mạnh mẽ, giản dị. Ông là nhà văn bình dân, không những vì bút pháp mà lại còn vì các vai ông chọn phần nhiều trong đám công chức trung lưu, dân quê hay thuyền thợ” [162/158]. Qua trích dẫn, Nghiêm Toản đã gợi cho chúng ta một cách lý giải về sự hấp dẫn của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh: chính là sự kể chuyện có chủ ý, sắp đặt tạo ra sự hiếu kỳ, đặc biệt nhà văn cố ý thức xây dựng đời sống và tâm lý các nhân vật mà đối với độc giả, những công chúng “công chức trung lưu, dân quê hay thuyền thợ” nhận thấy bóng dáng của mình trong đó. Nói một cách khác, trong dự đồ sáng tạo của mình, Hồ Biểu Chánh đã hướng đến một đối tượng độc giả trong xã hội Nam Bộ: đại chúng, bình dân. Điểm mấu chốt của văn học hướng đến đại chúng, như nhận xét của Nguyễn Nam Trân, là “làm cho độc giả được can dự vào văn hóa hiện đại dưới dạng lược gọn” [170/607]. Từ trường hợp Hồ Biểu Chánh, chúng ta có thể có những căn cứ để suy rộng ra một phương diện quan trọng về mặt xã hội cần tính đến khi nghiên cứu tiểu thuyết Nam Bộ: hướng đến đại chúng. Về sau, trong khảo luận Khi những lưu dân trở lại (1967), nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Xuân sẽ nâng luận điểm này thành một thao tác khoa học chính yếu khi nghiên cứu những đặc trưng của văn nghệ miền Nam (hẹp hơn là tiểu thuyết miền Nam). Từ Nguyễn Văn Xuân, một số nghiên cứu bắt đầu chú ý khía cạnh đặc biệt này của tiểu thuyết Nam Bộ. Nghiên cứu những vấn đề văn học sử Việt Nam qua thời gian đã đạt được nhiều thành tựu, thể hiện rất rõ qua các bộ giáo trình lịch sử văn học. Theo đó, văn học Nam Bộ bắt đầu nhận được sự quan tâm từ trí thức đại học. Trong giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam, tập 8B (1962), Nguyễn Đình Chú viết chương VIII Hồ Biểu Chánh. Nhà nghiên cứu đã giới thiệu cuộc đời và sự nghiệp văn chương, phân tích đầy đủ các phương diện nội dung hiện thực, đạo đức, chủ trương cải 9 lương và nhấn mạnh đặc điểm nghệ thuật cũng như xác định vị thế văn học sử của Hồ Biểu Chánh. Theo nhà nghiên cứu, về nghệ thuật “ông đã đạt tới một trình độ nhất định về kết cấu tác phẩm, xây dựng nhân vật, vận dụng ngôn ngữ… và nói chung là đã tạo được phần nào phong cách riêng cho tiểu thuyết của mình” [182/336]. Tiếc rằng do quan niệm sai lầm một thời, chương này đã bị cắt bỏ khi sách tái bản. Ở miền Nam, Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (1965) đã nhấn mạnh đến sự tiên phong của văn học Quốc ngữ Nam Bộ với thế hệ học giả Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của. Viết về tiểu thuyết Nam Bộ giai đoạn 1907 - 1932, nhà nghiên cứu đã chọn Hồ Biểu Chánh là đại diện. Theo ông, tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh có “cốt truyện tương đối giống nhau, trước sau một thế giới nhân vật, một đường hướng sáng tác, những tính cách chung về kỹ thuật và tư tưởng (…) cốt truyện tác giả có nhiều xảo nghệ dựng nên li kỳ, khít khao hấp dẫn” [110/361], và một trong những cái làm nên “cái thú được sống lại một thời tuy cách nhau không xa mà đã có vẻ xưa lắm” là ở chỗ Hồ Biểu Chánh đã “ghi lại bức tranh của cả một xã hội đương thời, cái xã hội miền Nam thành hình sau ngày Tây sang và giữ mãi nền nếp cho đến những ngày tiền chiến (…) Ngoài ra câu văn của Hồ Biểu Chánh nói chung giản dị ngắn gọn, nhất là ở chỗ thuật việc và đối thoại, giọng thường suôn đuột, in hệt cách nói cửa miệng bình dân (…) khiến tiểu thuyết của ông rất được thưởng thức ở giới bình dân và phụ nữ” [110/364]. Trong khi bàn về tiểu thuyết Nam Bộ, Phạm Thế Ngũ đã chỉ ra những bất cập trong nghiên cứu văn học sử: “Người viết văn học sử chỉ chú mục vào sân khấu Bắc Hà đến đây có lẽ phải giật mình quay lại thấy mình chỉ để khám phá những bước đầu của tiểu thuyết Việt Nam ở văn học miền Bắc trong khi thể đó đã thành hình từ hồi nào ở miền Nam rồi” [110/356]. Tuy vậy, nhà nghiên cứu vẫn chưa đủ tự tin khi chỉ chọn duy nhất Hồ Biểu Chánh làm đại diện tiểu thuyết miền Nam. Với sự khiếm khuyết này, không thể viện dẫn vấn đề khó khăn tư liệu, vì dẫu sao so với các đồng nghiệp đất Bắc, Phạm Thế Ngũ có những thuận lợi nhất định. Đó là chưa kể, trong một vài chỗ, nhà nghiên cứu đã có những nhận xét chưa thật khách quan. 10 Công trình có tính chất tổng kết một chặng đường dài nghiên cứu về Hồ Biểu Chánh phải kể đến chuyên khảo Chân dung Hồ Biểu Chánh (1974) của Nguyễn Khuê. Khi phân tích tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, trên cơ sở tư liệu phong phú, nhà nghiên cứu đã xác định các phương diện nội dung và nghệ thuật cơ bản như hệ thống nhân vật, cảnh vật, bố cục, ngôn từ, bút pháp. Trong phần kết luận, nhà nghiên cứu nhấn mạnh ý hướng phong tục và luân lý vốn là nền tảng tư chất con người Nam Bộ đã được phản ánh trong sáng tác, lý giải mối quan hệ giữa nội dung và hình thức, trên cơ sở đó đi đến khẳng định địa vị Hồ Biểu Chánh trong văn học sử cả ở những đóng góp cũng như giới hạn: “Trong lịch sử tiểu thuyết Việt Nam, Hồ Biểu Chánh là cây bút tiên phong sáng giá nhất của giai đoạn 1913 1932, bởi lẽ ông đã đạt được nhiều tiến bộ về kỹ thuật dựng truyện, nội dung cũng như văn từ và sáng tác nhiều hơn hết so với các nhà văn đồng thời, (…) Là một nhà văn lớn ở miền Nam, và có khuynh hướng đạo lý, Hồ Biểu Chánh đã đi tiên phong và lập công đầu trong việc đưa tiểu thuyết mới từ tình trạng phôi thai tiến đến giai đoạn thành lập và thịnh hành. Tiểu thuyết Việt Nam từ Hồ Biểu Chánh mới bắt đầu bước những bước vững chắc và ông là nhà tiểu thuyết quan trọng bậc nhất ở giai đoạn 1913 - 1932” [78/271]. Cũng theo hướng tiếp cận thể loại, Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại (1974) của Phan Cự Đệ là một công trình đáng chú ý. Tiếp nối một số công trình trước đấy, viết về tiểu thuyết Nam Bộ, nhà nghiên cứu cũng chỉ đặc biệt chú ý đến tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Ngoài ra, cũng cần nêu ra ở đây là trên quan điểm giai cấp, nhà nghiên cứu đã có một số đánh giá chưa thật công bằng đối với Hồ Biểu Chánh [35]. Đó cũng là điểm chung và cũng là giới hạn của một số công trình nghiên cứu cùng thời. Với một đối tượng nghiên cứu ngày càng có khoảng cách thời gian xa xôi như tiểu thuyết Nam Bộ thì vấn đề tư liệu trở nên hết sức quan trọng. Nhận thức được vấn đề này, trong quá trình nghiên cứu thư tịch Hán Nôm và Quốc ngữ, nhóm các nhà nghiên cứu mà đứng đầu là học giả Trần Văn Giáp trong Lược truyện các tác gia Việt Nam (1974) đã lưu ý chúng ta: “Ở Nam Bộ, U tình lục xuất 11 bản năm 1909 hay Chúa tàu Kim Quy xuất bản năm 1913 hay 1926, Lỗi bước phong tình và Oan kia theo mãi tiếc rằng không biết rõ nội dung, nhưng cái tên của nó cũng nói lên phần nào tính lãng mạn của tiểu thuyết và còn có thể có nhiều quyển khác nữa xuất bản ở miền Nam từ 1921 trở về trước bị thất lạc, cần nghiên cứu các thư mục trong thư viện Quốc gia của Pháp mới rõ được” [54/60]. Những lưu ý của nhóm Trần Văn Giáp sau này nhận được sự chia sẻ của các nhà nghiên cứu, đặc biệt là Nguyễn Văn Trung (1987) [176/8], Bằng Giang (1992) [47] và các tác giả sách Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh [55/293]. 2.2.2. Nghiên cứu tiểu thuyết Nam Bộ dưới góc nhìn chỉnh thể hình thành, vận động và phát triển, nhấn mạnh tính tiên phong của vùng văn học là hướng nghiên cứu mới tiêu biểu trong công trình của Nguyễn Văn Xuân, Bùi Đức Tịnh. Đây cũng là xu hướng chủ đạo của công việc nghiên cứu tiểu thuyết Nam Bộ sau 1975. Nguyễn Văn Xuân trong khảo luận Khi những lưu dân trở lại (1967) đã phác họa được một diễn trình của tiểu thuyết Nam Bộ từ Trương Vĩnh Ký qua Lê Hoằng Mưu, Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Chánh Sắt đến Hồ Biểu Chánh. Nhận xét về nền văn nghệ miền Nam, Nguyễn Văn Xuân cho rằng: “Nền văn nghệ miền Nam trong thời kỳ đầu thế kỷ XX đến năm 1932 cũng là ngành văn nghệ được kiện toàn, đa diện, đứng đắn và xứng đáng đi tiên phong cho nền văn nghệ dân tộc, nhất là xét về phương diện đại chúng (nặng về tiểu tư sản và giới bình dân) (PMH - nhấn mạnh)” [186/629]. Một nơi khác ông viết: “Tất cả sáng tác phẩm, xuất bản thì đều vụ về giới trung lưu trở xuống: hạng bình dân rất được chăm sóc. Có lẽ lực lượng bình dân này cũng chính là lực lượng độc giả lớn lao, có khả năng thương mãi mà miền Trung và Bắc không có?” [186/611]. Nguyễn Văn Xuân đã xuất phát từ phương diện xã hội của tiểu thuyết Nam Bộ, cụ thể là vấn đề độc giả, để lý giải những lựa chọn của nhà văn Nam Bộ về đề tài và kỹ thuật viết. Việc xem vấn đề người đọc như một nhân tố quan trọng cấu thành nên đặc tính của văn nghệ nói chung và tiểu thuyết nói riêng trong công trình của Nguyễn Văn Xuân chính là hướng nghiên cứu mà ngày nay chúng ta gọi là nghiên 12 cứu xã hội học văn chương. Chính phương diện này, theo chúng tôi, Nguyễn Văn Xuân là người trước nhất đã đề xuất một cách tiếp cận tiểu thuyết Nam Bộ rất hữu lý, hứa hẹn nhiều khám phá thú vị. Theo thời gian, với sự truyền nhập của các lý thuyết văn học, đặc biệt là mĩ học tiếp nhận vào Việt Nam, vấn đề người đọc - một nhân tố cấu thành diện mạo và đặc điểm của tiểu thuyết Nam Bộ - càng được chú trọng xem xét trong các công trình nghiên cứu. Và, dĩ nhiên trong quan niệm các nhà nghiên cứu, đó mới chỉ là kiểu người đọc ở ngoài tác phẩm, không tham gia trực tiếp vào sự sáng tạo tác phẩm như kiểu “người đọc hàm ẩn” mà lý thuyết tự sự học đã chỉ ra. Đặt nhiệm vụ nghiên cứu những hiện tượng văn học Nam Bộ trong giai đoạn phôi thai, Bùi Đức Tịnh trong Những bước đầu của báo chí, tiểu thuyết và Thơ mới (1865 - 1932) (1975) đã giới thiệu một số gương mặt nhà văn tiên phong của văn học Quốc ngữ Nam Bộ như: Trương Vĩnh Ký, Trương Duy Toản, Lương Khắc Ninh, Trần Chánh Chiếu, Lê Hoằng Mưu, Nguyễn Chánh Sắt và tóm tắt, trích tuyển tác phẩm: Phan Yên ngoại sử tiết phụ gian truân, Oán hồng quần Phùng Kim Huê ngoại sử, Tô Huệ Nhi ngoại sử, Kim thời dị sử, Nghĩa hiệp kì duyên, Giọt máu chung tình. Tác giả đặc biệt lưu ý đến thực trạng những tác phẩm mở đường trong văn học Nam Bộ như những “hòn máu bị bỏ rơi”. Trong khi nhấn mạnh tính chất tiên phong của vùng văn học Nam Bộ, Bùi Đức Tịnh cũng đã khẳng định mối quan hệ hữu cơ của văn học Nam Bộ và văn học dân tộc: “Các tờ báo, các tiểu thuyết thoát thai từ văn học miền Nam trong khoảng từ 1863 đến 1932 (trong suốt hai giai đoạn chuyển tiếp từ văn chương cổ điển và hình thành văn chương hiện đại) không phải là sản phẩm của nền văn học riêng một “xứ”, một địa phương. Đó là những tác phẩm của nền văn học dân tộc nảy sinh trong một hoàn cảnh đặc biệt” [161/21]. Tóm lại, nghiên cứu về tiểu thuyết Nam Bộ, dù đã đạt được những thành tựu nhất định, nhưng phạm vi quan tâm chính vẫn tập trung vào tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Theo đó, có thể nói, Hồ Biểu Chánh được khẳng định là đã có một địa vị vững vàng trong văn học sử dân tộc. Cũng cần lưu ý là, dù chưa ý thức, 13 nhưng một vài nghiên cứu của Nghiêm Toản, Nguyễn Văn Xuân đã chạm đến con đường của lý thuyết tiếp nhận khi đề cao vai trò của người đọc, cắt nghĩa sự ra đời và vận động của tiểu thuyết Nam Bộ, nhấn mạnh đặc tính tiên phong và một vài đặc trưng thi pháp tiểu thuyết hướng đến phục vụ đại chúng. 2.3. Giai đoạn từ 1975 đến nay Từ sau 1975, đất nước hòa bình thống nhất, nghiên cứu tiểu thuyết Nam Bộ tiếp tục được duy trì và có nhiều thuận lợi. Tuy vậy cũng phải đến sau 1986 không khí nghiên cứu mới trở nên sôi động và có nhiều thành tựu mới. Trong tổng thuật của chúng tôi, việc phân chia các hướng tiếp cận của các nhà nghiên cứu, tất nhiên, chỉ có tính chất tương đối và chỉ dựa trên những nét lớn, vấn đề trọng tâm của các công trình. Chúng tôi nhận thấy một thực tế là, trong những công trình sưu tập về tư liệu đã có những nghiên cứu đánh giá và ngược lại, những công trình theo hướng luận giải khái quát về tiểu thuyết Nam Bộ, nhà nghiên cứu đồng thời cũng phải làm công việc kiểm kê tư liệu. 2.3.1. Hướng nghiên cứu quan trọng và cũng đã có nhiều thành tựu là hướng sưu tập, giới thiệu tư liệu, chân dung nhà văn. Năm 1987, nhân kỷ niệm 100 năm ra đời truyện Thầy Lazarô Phiền tại Sài Gòn, Nguyễn Văn Trung đã công bố tuyển tập tài liệu Những áng văn chương Quốc ngữ đầu tiên. Công trình này đã tiếp tục khai mở một giai đoạn mới của hướng lập thư mục, công bố văn bản tiểu thuyết Nam Bộ, đặc biệt là giai đoạn sơ khởi của tiểu thuyết. Đáng chú ý là không dừng lại ở mức độ cung cấp văn bản một số tiểu thuyết quan trọng thuộc về giai đoạn đầu (Truyện thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản, Kim thời dị sử của Biến Ngũ Nhy, Người bán ngọc của Lê Hoằng Mưu), từ thực tế của tiểu thuyết Nam Bộ, xét lại các quan niệm nghiên cứu của những người đi trước, Nguyễn Văn Trung đã đi đến kết luận: “chúng tôi tạm thời nêu giả thuyết coi truyện Thầy Lazaro Phiền là tiểu thuyết bằng Quốc ngữ viết theo lối Tây phương sớm hơn cả ở miền Nam” [176/16]. Ngoài ra nhà nghiên cứu còn gợi mở hướng luận giải sự khác biệt của văn chương miền Bắc và miền Nam xuất phát từ sự khác biệt văn hóa và hoàn cảnh địa chính trị giữa hai 14 miền. Theo ông, khác với miền Bắc, miền Nam “Khi tiếp xúc với văn hóa Pháp, một văn hóa được trình bày trong chính sách đồng hóa đe dọa mất gốc, tiêu diệt bản chất dân tộc, người miền Nam không những không thể bỏ văn hóa truyền thống dựa trên Nho học, mà còn coi nó như điểm tựa, chỗ dựa chống lại chính sách đồng hóa của người Pháp. Do đó đi tới chỉ tiếp thu kỹ thuật Tây phương nói chung và ở đây là kỹ thuật viết tiểu thuyết (PMH - nhấn mạnh)” [176/19]. Thực tế sáng tác cũng đã cho thấy: tinh thần đạo lý bàng bạc trong những thể nghiệm hình thức mới mẻ du nhập từ phương Tây. Nhà nghiên cứu Bằng Giang đã góp phần xoá bớt “vùng trắng” của văn học Nam Bộ với công trình Văn học Quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865 - 1930 (1992) [47]. Trên phương diện tác giả tác phẩm, công trình đã giới thiệu những gương mặt nhà văn tiêu biểu cùng thư mục tác phẩm phong phú với ghi chú tường minh đã đính chính nhiều ngộ nhận của một số nhà nghiên cứu trước đó. Trong những công trình có tính chất công bố thư mục tư liệu tiểu thuyết Nam Bộ, Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh (1998) đã tích hợp được công sức và thành tựu của các nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Văn Y, Bằng Giang… đã cung cấp một bảng thư mục tương đối đầy đủ. Trên cơ sở khảo sát những tiền đề lịch sử, xã hội, tư liệu tác phẩm, các tác giả địa chí đã đưa ra nhiều kết luận xác đáng. Trong đó, đáng chú ý là có những nhận xét đã kế thừa và nhấn mạnh ý kiến của Nguyễn Văn Xuân trong Khi những lưu dân trở lại (1967) về đặc tính văn học miền Nam: “một loại văn chương nặng về nói lên, kể chuyện và trình diễn, mang đậm tính chất dân chúng (PMH - nhấn mạnh) (…) càng vào miền Nam, thì văn chương mang tính chất bác học riêng cho trí thức giảm bớt đến phải chịu nhiều mất mát, để cho tính cách dân chúng, nói diễn trở thành đặc sắc cơ bản” [55/306]. Trong khi nhấn mạnh tính chất đại chúng, bình dân như một trong những yếu tố quan trọng tạo nên đặc điểm văn học Nam Bộ, các tác giả sách địa chí cũng đã chỉ ra những ảnh hưởng của lựa chọn này đến việc sử dụng ngôn ngữ văn chương: “câu văn viết như câu nói có sức hấp dẫn kỳ lạ đối với quần chúng thuở ấy vì nó mang tính cách trình diễn, kể chuyện” [55/308]. 15 Ngoài ra, các công trình có tính chất giới thiệu, tóm tắt tác phẩm và chân dung nhà văn, bước đầu có những nhận xét quan trọng về tiểu thuyết Nam Bộ đã góp phần thúc đẩy công việc nghiên cứu tiến lên như: Văn học Nam Bộ từ đầu đến giữa thế kỷ XX (1900 - 1945) [1] của Hoài Anh và Hồ Sĩ Hiệp, Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam [6] do Vũ Tuấn Anh và Bích Thu chủ biên; Tiến trình văn nghệ miền Nam [141] của Nguyễn Q. Thắng; Từ điển văn học (bộ mới) [42] của nhiều tác giả, Tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX do Nguyễn Kim Anh chủ biên [2]. Chương trình nghiên cứu cấp trọng điểm Đại học Quốc gia do Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn chủ trì: Khảo sát, sưu tầm, đánh giá văn học Quốc ngữ Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đến 1945 (chia làm hai giai đoạn: cuối thế kỷ XIX đến 1930 và từ 1930 đến 1945), Đoàn Lê Giang chủ nhiệm, là một tổng kiểm kê về tư liệu văn học Nam Bộ và bước đầu có những đánh giá, kết luận xác đáng trên nền tảng tư liệu phong phú ở dạng cấp một, bản gốc. 2.3.2. Một hướng tiếp cận và cũng là thành tựu nghiên cứu của giai đoạn này là sự nhấn mạnh tính chất tiên phong của vùng văn học Nam Bộ nói chung và tiểu thuyết nói riêng. Tiểu thuyết Nam Bộ được các nhà nghiên cứu đặt trong cái nhìn chỉnh thể của tiểu thuyết Việt Nam, cho thấy một sự tiếp nối công việc của Vũ Ngọc Phan, Kiều Thanh Quế nhưng ở một cấp độ khác. Phương diện đặc điểm nghệ thuật của tiểu thuyết Nam Bộ được một số nhà nghiên cứu lý giải từ những căn rễ lịch sử và văn hoá vùng miền. Nguyễn Huệ Chi trong bài viết Thử tìm vài đặc điểm văn xuôi tự sự Quốc ngữ Nam Bộ trong bước khởi đầu (2002) đã đặt vấn đề tìm hiểu những đặc điểm cơ bản, những thành quả và hạn chế của tiểu thuyết Quốc ngữ Nam Bộ trong chặng đường khởi đầu. Tác giả đã lưu ý chúng ta đến “một truyền thống nhiều thế kỷ của khu vực văn chương Công giáo” với những tên tuổi Jéronimo Maiorica (1646), Dominique Martigia (1848), Joseph Marie Bigollet Kính (1905), Pierre Marie Gendreau Đông (1902) và tác phẩm của họ: truyện các Thánh. Theo nhà nghiên cứu, “các nhà văn thời kỳ đầu phần lớn là người Công giáo. Chính họ là
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất