Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết biển và chim bói cá của bùi ngọc tấn...

Tài liệu Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết biển và chim bói cá của bùi ngọc tấn

.PDF
106
208
82

Mô tả:

1 LỜI CẢM ƠN Trước hết tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc tới PGS. TS. Nguyễn Ngọc Thiện, người đã tận tình hướng dẫn, động viên giúp đỡ tôi trong suốt thời gian nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô trong tổ Lý luận văn học, các cán bộ Phòng Sau đại học - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu. Những lời cảm ơn sau cùng, tôi xin dành cho gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã hết lòng quan tâm, động viên và tạo điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành luận văn này. Hà Nội, tháng 6 năm 2013 2 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Văn xuôi Việt Nam hiện đại với rất nhiều cây bút đã thành danh và để lại cho đời những kiệt tác bất hủ với nhiều phong cách khác nhau. Có những nhà văn chọn cho mình một lối viết cá tính, sáng tạo, phóng khoáng, mạnh mẽ về hình thức và sâu sắc, chi tiết, cặn kẽ về nội dung. Nhưng cũng có những nhà văn lại chọn cho mình một lối sáng tác thâm trầm, suy tư, kín đáo, nhẹ nhàng như thủ thỉ, như giãi bày cùng độc giả. Những trang viết của họ vô cùng sâu sắc, tinh tế, Bùi Ngọc Tấn là một trong những nhà văn như vậy. 1.2. Bùi Ngọc Tấn sinh ngày 03 tháng 7 năm 1943. Quê thôn Cầu Tử Hợp Thành - Thủy Nguyên - Hải Phòng. Trong kháng chiến chống Pháp, Bùi Ngọc Tấn đi học tại Thái Nguyên. Năm 1954 ông đi thanh niên xung phong rồi làm phóng viên báo Tiền Phong và bắt đầu viết văn. Năm 1960, Bùi Ngọc Tấn làm phóng viên báo Hải Phòng. Cuộc đời cầm bút của ông từ lúc bắt đầu viết cho đến nay đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị mặc dù trong chiều dọc của nghề viết có thời gian ông đã gặp trắc trở. Bùi Ngọc Tấn được xem là một nhà văn kỳ cựu có nhiều thành tựu. Bên cạnh Chuyện kể năm 2000 (tiểu thuyết 2000) ra đời gây nhiều tranh luận thì Bùi Ngọc Tấn còn có rất nhiều các tác phẩm được khẳng định như: Một thời để mất (hồi ký 1995); Những người rách việc (truyện ngắn 1996); Rừng xưa xanh lá (chân dung văn học 2002); Viết về bạn bè (tập Chân dung văn học 2003); Người gác đèn biển (truyện ký 1962)… Đặc biệt là Biển và chim bói cá (tiểu thuyết 2008), tác phẩm đã đoạt giải thưởng lớn trong liên hoan quốc tế về Sách và biển tại Pháp vào tháng 4 năm 2012. Bùi Ngọc Tấn là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam; Hội viên danh dự Hội Văn bút Quốc tế; Hội viên danh dự Hội Văn bút Canađa. Ông đã nhận được nhiều giải thưởng văn học cao quý của: Tạp chí Văn nghệ; 3 Tạp chí Văn nghệ Quân đội; Bộ Văn hóa; Nhà xuất bản Hội Nhà văn Việt Nam; Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hải Phòng; giải thưởng Hội Nhà văn. Văn xuôi Bùi Ngọc Tấn có sức lôi cuốn người đọc một cách kỳ lạ. Mỗi tác phẩm của ông giống như một bộ phim quay chậm, quay tỉ mỉ hiện thực cuộc sống. Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết của Bùi Ngọc Tấn đã làm cho những trang văn của ông như cũng có tâm trạng cùng nhân loại với những số phận, cuộc đời, với những nhân tình thế thái. Người đọc khi tiếp cận tác phẩm của ông luôn luôn phải trăn trở, suy ngẫm và như tìm thấy chính mình trong đó. Bùi Ngọc Tấn với cách viết dung dị, chi tiết, chân thật, khách quan đã đóng góp cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại thêm một tầm vóc mới, tự tin đứng ngang hàng với bạn bè quốc tế. 1.3. Bùi Ngọc Tấn là một nhà văn lão thành, có nhiều thành tựu lớn trong đời viết của mình. Nghiệp văn chương như một định mệnh đã đeo đuổi suốt cuộc đời ông. Lặn lội trên đường đời khắc nghiệt với những cay đắng, ngọt bùi đã làm nên một Bùi Ngọc Tấn đầy bản lĩnh, đủ sức chống trọi với những cơn cuồng phong của cuộc sống đầy xô bồ, hỗn tạp. Niềm đam mê viết văn đã len vào từng huyết mạch của ông, đã có lúc ông tưởng như gục ngã, "bẻ bút", "đoạn tuyệt hẳn " với bút mực, với văn chương nhưng niềm đam mê viết đã thôi thúc ông trở lại mạnh mẽ, quả quyết, bản lĩnh và chín hơn. Ông đã từng thổ lộ trong trang bìa của tiểu thuyết Biển và chim bói cá: "Thế hệ chúng tôi đã chứng kiến biết bao biến động của lịch sử. Một thế hệ nhiều năm rồi nằm trong tầm bắn tỉa của Thần Chết, đang biến mất khỏi hành tinh này không để lại một vết xước nào. Tôi chỉ muốn thật trung thực trong khi viết để góp phần vào việc lưu giữ ký ức của Dân tộc"; và ông nhận là "người thư ký, là người chép sử của thời đại". Nhà văn Bùi Ngọc Tấn có thể xem như một hiện tượng văn học đáng chú ý trong nền văn học hiện đại Việt Nam những năm sau 1975. Niềm say mê viết của ông đã được nhiều đồng nghiệp nhìn nhận và đánh giá, khẳng 4 định chỗ đứng của ông trong văn đàn Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung. Mặc dù, trong suốt chiều dọc của cuộc đời mình, đã có một khoảng thời gian ngắn Bùi Ngọc Tấn gặp trắc trở, lận đận trong nghề viết vì quan điểm tư tưởng của mỗi một giai đoạn lịch sử xã hội, nên cái nhìn về ông có sự hiểu lầm. Nhưng không vì thế mà hình ảnh Bùi Ngọc Tấn nhanh chóng bị chôn vùi cùng năm tháng, ngược lại ông vẫn còn có nhiều, rất nhiều bạn bè đồng nghiệp hiểu và đánh giá đúng bản chất con người ông, đặc biệt là con người văn chương trong trái tim nhà văn. Đã có rất nhiều các bài viết, phê bình, nghiên cứu về các sáng tác của Bùi Ngọc Tấn trong một khoảng thời gian khá dài, từ những năm 2000 trở lại đây. Đó là những bài viết của các tác giả: Dương Tường, Vân Long, Phong Hằng, Trần Đức Hiển, Thanh Vân, Khánh Phương… Điều này phần nào nói lên được cho dù có gặp không may mắn, có sự hiểu lầm… nhưng tầm ảnh hưởng và vai trò của những tác phẩm văn chương mà nhà văn Bùi Ngọc Tấn mang đến cho cuộc đời này đã được đón nhận và ghi nhận, đã được lưu giữ cùng thời gian. Bài viết của tác giả Dương Tường trong Chỉ tại con chích chòe (tạp luận - 2009) với nhan đề "Bùi Ngọc Tấn và hóa học của nhân bản" đã khám phá về một Bùi Ngọc Tấn ngồn ngộn chất sống với những trải nghiệm, hội nhập, đồng hóa với tất cả các hạng người trong xã hội khi họ phải đối mặt với những trầm luân của nhân sinh. Tác giả Dương Tường nhận ra trong tầng sâu bản chất con người Bùi Ngọc Tấn một bản lĩnh, một sự nỗ lực vươn lên, đã nhìn thấy Bùi Ngọc Tấn vượt ra khỏi sự cầm tù của nỗi đau, để bắt đầu có những tín hiệu của một sự khởi đầu mới. Nhà văn cho rằng: "Những năm tháng hoạn nạn - theo quy luật bù trừ của tạo hóa? - đã tạo cho Bùi Ngọc Tấn hội nhập, thậm chí đồng hóa, vào môi trường dưới đáy, giàu thêm bao trải nghiệm trên mọi cung bậc trầm luân của nhân sinh…". 5 Tác giả Vân Long với bài viết Hiện thực Bùi Ngọc Tấn trong Những người rót biển vào chai (chân dung văn học), Nhà xuất bản Phụ nữ, Hà Nội. 2010 đánh giá và nhìn nhận Bùi Ngọc Tấn là một trong những nhà văn "bản lĩnh" hơn cả. Nhà văn Vân Long nhìn nhận sự trở lại văn đàn của Bùi Ngọc Tấn như sau: "Sau thời gian im lặng, ngòi bút hiện thực của anh được nâng cao hẳn lên một mức của sự tinh xác, độ lượng và hóm hỉnh một cách "ma quái"… sự trải nghiệm đời những năm im lặng làm anh sâu sắc hơn, chân thiện hơn!". Tác giả bài viết đánh giá, trong nghiệp viết của mình, chưa bao giờ Bùi Ngọc Tấn rời xa bút pháp hiện thực, thậm chí ông còn đằm mình sâu hơn vào lòng của hiện thực để trải nghiệm và viết. Báo Trong đời sống hôm nay, số 197, tháng 5 năm 2012, tác giả Trần Đức Hiển có bài viết: “Một ngày vui với nhà văn Bùi Ngọc Tấn’’ đã đánh giá Bùi Ngọc Tấn là một con người cởi mở, dễ gần, không có dấu ấn của một người đã phải chịu nhiều những thăng trầm, đã mất mát trong đời sống tinh thần. Sau hơn 20 năm "ngủ yên" (1968-1995), Bùi Ngọc Tấn đã "bừng tỉnh" và liên tục cho ra đời các tác phẩm gây được nhiều sự chú ý của người đọc như: Một thời để mất, Những người rách việc, Rừng xưa xanh lá… Bùi Ngọc Tấn đã được trả về đúng với vị trí của ông trên văn đàn. Các giải thưởng của Báo Văn nghệ, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Bộ Văn hóa, Nhà xuất bản Hội Nhà văn… đặc biệt là tiểu thuyết Biển và chim bói cá xuất bản năm 2008, dịch ra tiếng Pháp và đoạt giải thưởng danh giá mang tên nhà văn Pháp nổi tiếng Henri-Queffélec trong liên hoan quốc tế Sách và biển đã chứng minh điều đó. Hơn thế nữa, Bùi Ngọc Tấn còn là Hội viên danh dự Hội Văn bút Quốc tế và Hội Văn bút Canađa. Các bài viết khác của các tác giả Vân Long; Phong Hằng; Thanh Vân; Dương Hướng… về Bùi Ngọc Tấn trong khoảng thời gian mười năm gần đây đều đi chung vào một nhận định ông chính là người thư ký trung thành của 6 thời đại. Với lối viết dung dị, tỉ mỉ, Bùi Ngọc Tấn cần mẫn, lặng lẽ như con ong chắt lọc những giọt mật cho đời, cho dù có những giọt mật đắng. Tuy nhiên, những bài viết, nghiên cứu, tìm hiểu về các sáng tác của Bùi Ngọc Tấn mới chỉ dừng lại ở cái nhìn, đánh giá tổng thể, khái quát chung về đời viết của ông. Hiện nay chưa có nhiều công trình nghiên cứu về Bùi Ngọc Tấn và những đóng góp của ông cho nền văn học nước nhà, đặc biệt là ở thể loại tiểu thuyết còn là khoảng đất trống. Vì vậy, chúng tôi đã chọn đề tài nghiên cứu: Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Biển và chim bói cá của Bùi Ngọc Tấn. Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên tập trung phân tích nghệ thuật tự sự trong cuốn tiểu thuyết Biển và chim bói cá của Bùi Ngọc Tấn. Chọn đề tài này, chúng tôi mong muốn có thêm tiếng nói của những người yêu mến văn chương khẳng định những đóng góp của Bùi Ngọc Tấn cho sự phát triển của văn học dân tộc nói chung và tiểu thuyết Việt Nam hiện đại nói riêng. 2. Mục đích nghiên cứu Từ những lí do đã nêu ở trên, mục đích của luận văn nhằm đi sâu vào tìm hiểu phương diện nghệ thuật tự sự, qua đó nhận diện được phong cách tự sự của Bùi Ngọc Tấn. Chỉ ra được những đặc điểm về nghệ thuật tự sự thể hiện trong các tiểu thuyết của Bùi Ngọc Tấn nói chung, Biển và chim bói cá nói riêng. Qua việc tìm hiểu, nghiên cứu tiểu thuyết Biển và chim bói cá để thấy được những đóng góp tài năng của Bùi Ngọc Tấn đối với văn xuôi hiện đại Việt Nam, cụ thể hơn là ở thể loại tiểu thuyết. Trong khuôn khổ có hạn của bài viết, luận văn không có tham vọng tìm hiểu, nghiên cứu nghệ thuật tự sự trong tập hợp nhiều tiểu thuyết của Bùi Ngọc Tấn nên chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu nghệ thuật tự sự trong một cuốn tiểu thuyết của ông đó là Biển và chim bói cá. 7 3. Nhiệm vụ nghiên cứu Thông qua việc đọc và tìm hiểu chi tiết tiểu thuyết Biển và chim bói cá để làm rõ phong cách nghệ thuật tự sự độc đáo trong tiểu thuyết của Bùi Ngọc Tấn nói chung cùng Biển và chim bói cá nói riêng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung khảo sát chủ yếu tiểu thuyết Biển và chim bói cá (Tiểu thuyết 2008). 4.2. Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu văn học là một quá trình, cho nên để có cái nhìn và sự đánh giá toàn diện, khách quan về văn phong độc đáo cũng như những sáng tạo trong quá trình sáng tác của nhà văn, người viết có tham khảo so sánh tiểu thuyết Biển và chim bói cá của Bùi Ngọc Tấn với: Biển xa (tập truyện ngắn) của Bùi Đức Ái, Đứng trước biển (tiểu thuyết) của Nguyễn Mạnh Tuấn. 5. Phương pháp nghiên cứu Để tiếp cận một tác phẩm văn chương có rất nhiều các con đường đến khác nhau, tuy nhiên luận văn đã lựa chọn một số phương pháp phù hợp với việc tìm hiểu nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Biển và chim bói cá như: - Phương pháp so sánh đối chiếu: Với bản thân các sáng tác của nhà văn ở các thời điểm khác nhau. Với một số nhà văn khác cùng chung đề tài về biển như: Bùi Đức Ái, Nguyễn Mạnh Tuấn… - Phương pháp phân tích thống kê. - Phương pháp tổng hợp. 6. Những đóng góp của luận văn Đây là luận văn đầu tiên đặt ra vấn đề nghiên cứu nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Biển và chim bói cá của Bùi Ngọc Tấn, để tiếp tục khẳng định phong cách rất riêng, độc đáo của nhà văn ở thể loại tiểu thuyết. Qua 8 việc nghiên cứu này, người viết muốn làm rõ hơn sự đóng góp rất lớn của Bùi Ngọc Tấn đối với sự phát triển của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Vì đây là bài tiểu luận đầu tiên, nên trong quá trình nghiên cứu không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế, người viết mong được sự bổ sung, góp ý của thầy cô và đồng nghiệp. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm ba chương: Chương 1. Bức tranh đời sống xã hội trong tiểu thuyết Biển và chim bói cá. Chương 2. Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Biển và chim bói cá. Chương 3. Đặc sắc trong kết cấu, ngôn ngữ, giọng điệu, cốt truyện. 9 Chương 1 BỨC TRANH ĐỜI SỐNG XÃ HỘI TRONG TIỂU THUYẾT BIỂN VÀ CHIM BÓI CÁ 1.1. Đề tài về biển và những người lao động trên biển trong văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX Văn chương luôn là một tấm gương phản chiếu chính xác hiện thực cuộc sống. Ở mỗi một giai đoạn lịch sử xã hội nhất định, bộ mặt của đời sống sẽ có những nét khác nhau. Đất nước trải qua một thời gian dài đắm chìm trong khói lửa của chiến tranh. Con người phải oằn mình, kiên cường đối mặt với mất mát, đau thương để giành lại nụ cười rạng rỡ trong ngày độc lập. Ngoảnh nhìn lại gần một thế kỷ, Tổ quốc phải chịu nhiều những đau đớn, đổ nát bởi bom đạn, bởi thuốc súng. Giờ phút tự do như tia nắng mặt trời chiếu rọi xuống làm ấm, sáng từng số phận, từng cuộc đời của mỗi người dân Việt Nam. Cả nước vặn mình đứng lên, vượt qua những tổn thất, những đớn đau nở nụ cười rạng rỡ đón chào một kỷ nguyên mới, cho dù phía trước còn muôn vàn những thử thách, chông gai. Sau nhiều năm tìm đường xây lại ngôi nhà bị đổ nát, Đất Nước đã có những đổi thay nhất định. Như những bước chân của Phù Đổng năm xưa, cả nước đứng lên quyết đem lại cho cuộc sống một tư thế mới. Tất cả các lĩnh vực kinh tế được đánh thức, ầm ầm, sôi động, hăng hái vào cuộc, để vực lại một dáng đứng tự tin, khang trang, sang trọng. Văn học chính là con mắt dõi theo và truyền lại quá trình vặn mình đó của dân tộc. Như một người thư ký trung thành, mỗi tác phẩm văn học của nhà văn đều ghi chép lại rất chi tiết, chính xác từng bước đi của cuộc sống. Ở đó có niềm vui, có nỗi buồn, có nỗi thất vọng của sự thất bại, có nụ cười của sự thành công, có đau đớn, chua chát nhưng cũng có niềm hy vọng, lòng vững tin. Bên cạnh rất nhiều đề tài để văn học ghi chép, phản ánh thì đề tài về biển luôn là đối tượng được nhiều nhà văn quan tâm. 10 Một trong những chủ trương để đất nước có một nền kinh tế vững chắc, đứng ngang hàng với bạn bè quốc tế trong khu vực chính là mô hình kinh tế biển. Tuy nhiên, trong lăng kính của văn học nghệ thuật cuộc sống lao động của những người công nhân gắn liền với biển cả lại rất sinh động với nhiều gam màu, cung bậc khác nhau. Biển trong cái nhìn của người nghệ sĩ có rất nhiều dáng hình, tính tình, vẻ đẹp. Trong thơ của Huy Cận, Xuân Diệu, Xuân Quỳnh... biển đẹp, lãng mạn, thơ mộng, hiền hòa như sự ngọt ngào, đắm say của tình yêu đôi lứa. Như một bài ca bất tận về vẻ đẹp chung thủy, ồn ào, nồng cháy bởi các cung bậc của tình yêu. Nhưng biển cũng lại có một hình hài khác, một tư thế khác khi gắn biển với nhịp thở của cuộc sống đời thường. Cho nên đề tài về biển và cuộc sống của những người lao động trên biển trong văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX xuất hiện khá sinh động. Điều này giúp cho chúng ta có được cái nhìn từ nhiều góc độ khác nhau về biển, về những người cả một đời song hành cùng với sóng nước mênh mông nơi đại dương bao la. 1.1.1. Tập truyện ngắn Biển xa (1961) của Bùi Đức Ái Hòa vào dòng chảy chung của văn học khi viết về xã hội Việt Nam những năm cuối của thể kỷ XIX. Bùi Đức Ái cũng có một góc nhìn khá sinh động về cuộc sống của những người lao động trên biển. Tập truyện ngắn Biển xa ra đời năm 1961 lại là một sự cảm nhận mới rất riêng của tác giả dành cho biển và những người lao động gắn với biển. Tập truyện bao gồm có mười truyện cùng chung chủ đề: Chuyến lưới máu, Người đào hát, Về làng, Con đường phía trước, Bức tranh để lại, Người gác đèn biển, Con cá song, Một người chú ở Lộng Dương, Cứu thuyền, Chuyện riêng. Ở mỗi truyện là một mảng sống đầy nhọc nhằn, lam lũ của những người dân chài. Trong Chuyến lưới máu, Bùi Đức Ái viết về những số phận của người lao động trong bối cảnh xã hội cũ. Tác giả thuật lại trong một chuyến đi biển, 11 vì ham một mẻ cá lớn, Tư Hưng là ông chủ của con thuyền đã không lỡ bỏ mẻ cá để cho thuyền vào bờ kịp thời nhằm mục đích chữa trị cho một chú bé đánh cá thuê có tên là Vọi. Vọi đã vì cố sức kéo một mẻ cá lớn nên bị gãy chân. Cuối cùng, chú bé phải chấp nhận để mất đi vĩnh viễn một bên chân của mình trên biển bởi vết thương đã quá lâu mà không được chạy chữa. Vì mưu sinh, vì phải tiếp tục sống nên cho đến hết cả cuộc đời, Vọi sẽ phải làm thuê trên đôi chân đi nạng của mình. Cuộc sống của những người đi biển với muôn màu, ở mỗi gam màu lại hiện lên một mảng màu sắc khác nhau, tạo nên bức tranh đa dạng sắc màu trong đời sống dân chài. Ở truyện ngắn Cứu thuyền, nhà văn thuật lại quá trình chuẩn bị đi cứu một chiếc thuyền bị nạn ở ngoài khơi của bà con một làng đánh cá theo đạo. Trong câu chuyện này, tác giả vừa nêu lên tinh thần hết lòng quan tâm, giúp đỡ, bao bọc lẫn nhau của bà con xứ đạo, đồng thời là lời tố cáo vạch trần bộ mặt giả nhân giả nghĩa của những tên trùm đạo rắp tâm phá hoại cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, mà cụ thể ở đây là phản đối chủ trương xây dựng hợp tác xã. Đến truyện Người gác đèn biển, Bùi Đức Ái kể lại câu chuyện về một người nghèo khổ, trôi dạt trên bãi biển và trở thành người gác đèn sống xa đất liền mấy chục năm. Những năm tháng sống xa đất liền, sống xa ánh đèn và âm thanh của thành phố, người gác đèn biển đã cứu sống một em nhỏ bị bão làm đắm thuyền và nuôi nấng, cưu mang em nhỏ đó dần khôn lớn. Anh đã bỏ qua quãng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời mình, bỏ qua nhu cầu tất yếu trong cuộc sống đời thường, không một mái ấm gia đình riêng chỉ vì ánh sáng của cây đèn biển. Đứa trẻ được anh cứu sống và nuôi nấng đã trưởng thành, người gác đèn lại một lần nữa gạt đi tình cảm gắn bó giữa hai ông cháu, đồng ý cho đứa bé lên bờ để có điều kiện học hành và có một tương lai tốt đẹp hơn. Người gác đèn biển lại tiếp tục trở về với cuộc sống lẻ bóng, cô đơn cùng với cây đèn biển ngoài khơi cho đến lúc rời xa vĩnh viễn cuộc đời vì bệnh tật. 12 Hay trong Một người chú ở Lộng Dương, nhà văn Bùi Đức Ái khắc họa tính cách một người đánh cá tên là Năm Hỏa. Bản chất Năm Hỏa là một người tốt, nhưng ông phải chịu để cho một người bạn thân sỉ nhục là người xấu, chỉ vì ông không chịu cho người bạn vay tiền mua lưới làm ăn cá thể. Trong thâm tâm, ông muốn giúp bạn bằng cách đưa bạn vào tập đoàn đánh cá. Truyện Con cá song được xem là tiêu biểu nhất trong Biển xa. Câu chuyện kể lại cuộc đấu tranh giữa hai bố con của một người đánh cá. Trong một chuyến đánh cá, chỉ vì lợi ích tư hữu nên người cha đã bán con cá song to nhất trong mẻ lưới. Người cha cho rằng hành động đó của ông sẽ không có ai biết và nghĩ rằng đó cũng là lẽ đương nhiên để bù lại cho những thiệt thòi của ông. Mặc dù, đây là mẻ lưới chung của cả tập đoàn đánh cá. Anh con trai không đồng ý, khuyên cha nếu đã bán thì hãy đem trả lại số tiền đó cho tập đoàn. Câu chuyện kết thúc bằng hành động người cha đã làm theo sự khuyên nhủ của anh con trai. Có thể thấy rất rõ trong những câu chuyện trên, nhà văn Bùi Đức Ái bằng việc khắc họa chân dung những con người lao động rất bình thường với muôn vàn những tình huống, ứng xử trong cuộc sống tưởng như cũng rất bình thường nhưng chứa đựng bao điều trăn trở về hiện thực cuộc sống. Tập truyện đã đề cập đến rất nhiều những vấn đề khác nhau trong nếp sinh hoạt đời thường: số phận của những người lao động trong xã hội cũ; lòng yêu nước nồng nàn; lòng nhân ái, tình yêu thương con người. Điều nổi bật hơn cả trong tập truyện còn là vấn đề về mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và tập thể. Đây chính là vấn đề có ý nghĩa rất lớn lao mà bất kỳ giai đoạn lịch sử xã hội nào cũng cần phải lưu tâm tới. 1.1.2. Tiểu thuyết Đứng trước biển (1983) của Nguyễn Mạnh Tuấn Cùng chung nguồn mạch về đề tài biển với những người lao động trên biển trong xã hội trước thời kỳ đổi mới. Đứng trước biển của Nguyễn Mạnh 13 Tuấn lại có quy mô lớn hơn Biển xa của Bùi Đức Ái. Trong Đứng trước biển, Nguyễn Mạnh Tuấn xông vào những hiện thực mới xuất hiện của xã hội đó là vấn đề giữa con người và sản xuất. Tác phẩm ra đời được xem như là một sự kiện văn chương của giai đoạn văn học đương thời. Nguyễn Mạnh Tuấn viết Đứng trước biển khi nền kinh tế trên khắp đất nước ta ở tất cả các ngành nghề đang có sự chuyển biến mạnh mẽ về cách làm ăn theo những chỉ thị, nghị quyết mới của Trung ương. Kết cấu của Đứng trước biển xoay quanh sự trả lại vị trí thích hợp của một cán bộ quản lí gắn với số phận của một xí nghiệp đánh cá. Trong tiểu thuyết này, nhà văn nêu lên phương pháp, cách thức của một lối quản lí, hoạt động sản xuất, làm kinh tế theo lối mới. Ẩn sau đó còn là vấn đề xã hội, vấn đề nhân sinh. Tiểu thuyết Đứng trước biển đã công phá cái tiêu cực với những biểu hiện và những tính chất khác nhau trong tư tưởng, tâm lí con người. Những nhân vật phản diện trong tác phẩm như: Chín Tâm, Năm Miên, Sáu Kình... đã bộc lộ rõ bản tính cơ hội, ích kỷ, chuyên quyền. Nhưng dụng ý của tác giả là ở chỗ những nhân vật này với nét tính cách trái chiều đã làm nền để tô điểm cho những nhân vật mang tính tích cực như: Ba Đức, Năm Dũng, Út Cần, Sáu Hớn, Lê Tám... Nguyễn Mạnh Tuấn đã phản ánh khá chi tiết hiện thực xã hội trước cải cách, đổi mới cả hai mặt sáng và tối. Đứng trước biển là bức tranh hiện thực của xã hội Việt Nam. Giống như biển có dòng trong dòng đục, hiện thực xã hội cũng có mảng sáng, mảng tối. Từ sự đúng đắn trong suy nghĩ của Ba Đức, lòng chân thật, cao thượng của Lê Tám, đạo đức cách mạng trong sáng của Sáu Hớn, cái nhìn sắc sảo và nghiêm khắc của Út Cần, đức tự tin và năng lực dồi dào của nhân vật Thành... cho đến sức mạnh tập thể của tàu H14 với người đứng đầu là thuyền trưởng đủ phẩm chất, bản lĩnh và uy tín như Năm Dũng. Chính những dòng nhân vật này trong tiểu thuyết Đứng trước biển đã nhấn mạnh vẻ đẹp của biển, nhấn mạnh vẻ đẹp rõ rệt dòng trong của lòng biển, mảng sáng của hiện thực. 14 Bên cạnh đó dòng đục của biển, mảng tối của hiện thực được tác giả tập trung miêu tả qua sự trụy lạc, phản phúc của Sáu Kình, sự lỗi thời, cơ hội của Năm Miên, đặc biệt là sự vô dụng, bất tài, lộng hành, ích kỷ của Chín Tâm... Các nhân vật trong tiểu thuyết đã chứng tỏ cái nhìn khách quan của Nguyễn Mạnh Tuấn khi nhìn hiện thực xã hội trong tác phẩm không đơn giản, một chiều. Ở đây, có dòng trong, dòng đục, có mảng sáng, mảng tối và thậm chí có cả dòng trong đục, mảng sáng tối lẫn lộn. Tập thể tàu H15 là sự phức hợp đó. Các nhân vật như Hai Tiến, Ba Phi, Liên... cũng chính là sự pha trộn giữa hai dòng. Hai Tiến giỏi về chuyên môn, nhưng sớm co mình trong cái vỏ phận sự của công chức, Ba Phi là một thuyền trưởng xứng đáng nhưng lại quen lối sống tự do đến buông thả; Liên sống thiết tha, có sự gắn bó với công việc nhưng không phải đã tìm được ngay một thái độ cần có trong cuộc đấu tranh với cái tiêu cực ở cuộc đời. Tuy nhiên, vấn đề chính của bức tranh hiện thực đời sống trong Đứng trước biển vẫn là sự nổi bật, vượt lên hơn cả của dòng trong, mặt sáng, điểm này đã giữ vai trò chủ đạo trong tác phẩm. Mặc dù, cái xấu vẫn tiếp tục vùng quẫy và gây lên nhiều tác hại ghê gớm. Nguyễn Mạnh Tuấn đã gửi quan điểm của mình, lí tưởng thẩm mỹ của mình qua những nhân vật tích cực như Ba Đức, Bảy Thu, Út Cần, Sáu Hớn. Tác giả cho rằng, muốn có suy nghĩ đúng thì điều đầu tiên phải có can đảm nhìn thẳng vào thực chất của sự vật. Sự tránh né hoặc tạo ra ảo tưởng bằng cách này hay cách khác trong nhìn nhận hiện thực không có sự cải tạo được hiện thực. Nhà văn xây dựng nhân vật Bảy Thu với nét tính cách ưa nói thẳng vào sự thật, nói thẳng vào tội lỗi, ưa phanh phui ý nghĩa trần tục của hiện tượng. Bảy Thu "không quen gọi những tên ăn cắp với hán từ đồng nghĩa là "tham ô" [45, tr.60], những tên tham ô là "hủ hóa", những kẻ u tối, bất tài là thiếu năng lực, những hậu quả phá hoại là "vô trách nhiệm". Vì theo Bảy Thu, 15 cách nói như vậy sẽ khiến cho những "kẻ tội lỗi có vẻ sạch sẽ, do đó giá trị thật của đạo đức và liêm sỉ bị rẻ rúng đi" [45, tr.60]. Vào thời kỳ quá độ, không phải lúc nào cái tích cực, tốt đẹp cũng thắng thế. Cho nên, tác giả quan niệm điều quan trọng bậc nhất trong mối quan hệ giữa con người với con người là đừng để mất lòng tin. Sáu Hớn là một nhân vật tích cực trong tác phẩm đã từng nghĩ một cách thấm thía: "mất gì thì mất chứ không thể để mất lòng tin của quần chúng"[45, tr 226]. Nguyễn Mạnh Tuấn gửi gắm nỗi trăn trở, suy tư của người cách mạng trong một xã hội đang có sự chuyển mình ở chỗ người cách mạng chân chính phải xả thân vì công việc chung, phải dám đứng ra gánh chịu trách nhiệm trước cái ngưng trệ, thậm chí thối rữa của hiện thực. "Để những gia đình công nhân phải chịu đựng vô lí trong sự cùng cực này thêm một ngày là ta có tội một ngày...; "không phải tụi đầu nậu lưu mạnh mà chính chúng ta phải chịu trách nhiệm"[ 45, tr.83]. Điều này có nghĩa là trong bất kỳ tình huống nào, như Bảy Thu nói "người cách mạng chân chính, không thể vô trách nhiệm khi đứng trước biển được". Vậy trong Đứng trước biển, Nguyễn Mạnh Tuấn đặt ra vấn đề cấp bách là người cách mạng lúc này phải làm gì? Và làm như thế nào? Bởi vì, lí tưởng tốt đẹp cần được thể hiện bằng hiệu quả sinh động trong thực tế. Ba Đức hoàn toàn có cơ sở khi nghĩ rằng "tạo ra nguồn của cải vật chất đầy đủ cho xã hội... sẽ là sợi giây níu giữ tốt người ta ở lại với Tổ quốc"[45]. Xây dựng nhân vật Ba Đức, tác giả chủ yếu muốn đưa ra một mẫu người hành động. Cuộc tranh luận giữa Ba Đức và Hai Tiến về mối quan hệ giữa dũng khí, hiểu biết và cách làm của người cách mạng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc thể hiện ý đồ nghệ thuật của nhà văn. Nguyễn Mạnh Tuấn là một nhà văn có tính cách thẳng thắn, bộc trực bởi chính tác giả cũng xuất thân từ tầng lớp lao động, cũng là người thợ. Cho nên, trong Đứng trước biển tác giả đã đề cập đến những vấn đề rất "nóng" của 16 xã hội lúc bấy giờ. Sự ảnh hưởng của gia đình - người cha của Nguyễn Mạnh Tuấn cũng bị đánh giá là lập trường, tư tưởng có vấn đề, cho nên tác giả đã không được thi đại học. Những năm tháng là một người thợ ở Quảng Ninh đã giúp nhà văn có cái nhìn thấu đáo vào hiện thực xã hội, hiện thực cuộc sống của người công nhân. Đứng trước biển ra đời được xem là một sự kiện văn chương.Thời gian tiểu thuyết xuất hiện trên văn đàn Văn học là lúc ở các địa phương, các ngành, nền kinh tế đang có sự chuyển biến mạnh mẽ về cách làm ăn theo những chỉ thị, nghị quyết mới của Trung ương. Nội dung cốt lõi của Đứng trước biển là sự đề cập thẳng của nhà văn vào nhiều vấn đề xã hội phức tạp được thu nhỏ lại trong một xí nghiệp đánh cá đang trên con đường phát triển. Sự trì trệ và đi xuống của xí nghiệp đánh cá Sao Mai do lối làm ăn quan liêu, bao cấp, bảo thủ, giáo điều và thiếu tinh thần trách nhiệm của những cán bộ lãnh đạo đã được phản ánh khá chi tiết. Nhà văn không né tránh hiện thực. Sự đi xuống của nền kinh tế không phát triển trong xã hội đương thời là do nếp quản lí lạc hậu và trình độ thấp kém. Đồng thời, nguyên nhân còn là sự thiếu năng động, chây lười của một bộ phận công nhân, thủy thủ. Có thể nói, cùng chung đề tài viết về biển, trong Đứng trước biển, cái nhìn của Nguyễn Mạnh Tuấn đã dám thẳng thắn nhìn thẳng vào hiện thực.Tác giả đã nhìn thẳng vào những vấn đề còn bất cập trong xã hội để từ đó đưa ra mục tiêu cần có một con đường mới phù hợp để đưa nền kinh tế nước nhà phát triển. 1.2. Sáng tác về biển của Bùi Ngọc Tấn 1.2.1. Những sáng tác viết về biển trước tiểu thuyết Biển và chim bói cá Nhà văn Bùi Ngọc Tấn từng được đánh giá là người thư ký trung thành của thời đại. Mỗi bước đi của đất nước đều được nhà văn dõi theo và phản ánh khá chân thành, chi tiết. Nền kinh tế Việt Nam những năm đầu đổi mới 17 với nhiều những cái mới, cái hay nhưng cũng không thiếu những mảng tối đã không qua khỏi cặp mắt của tác giả. Vốn cũng là một người thợ, Bùi Ngọc Tấn hiểu rất rõ "gan ruột" của một nền kinh tế đang muốn đi lên đã có dấu hiệu của những chứng bệnh nào. Vì là người con của Hải Phòng, lại có thời gian khá dài Bùi Ngọc Tấn là nhân viên Quốc doanh đánh cá Hạ Long (1975-1995) nên biển chính là một trong những nguồn cảm hứng lớn để nhà văn gửi gắm nỗi niềm thông qua những trang viết. Trong một bài Bùi Ngọc Tấn trả lời phỏng vấn của phóng viên Phong Hằng, nhà văn đã bộc bạch duyên nợ của ông đối với biển. Bùi Ngọc Tấn cho rằng ông có một món nợ rất lớn đối với biển. Những sáng tác về biển của nhà văn thấm đẫm hương vị biển với nhiều sự cảm nhận khác nhau. Ông đã thổ lộ với phóng viên Phong Hằng như sau: "Tôi đã làm nhân viên ở một xí nghiệp đánh cá quốc doanh 20 năm. Là một thành viên, một tế bào của cái cơ thể phập phồng hơi thở có một đối tượng lao động là biển cả này, tôi vui niềm vui của những ngày biển lặng gió êm, những chuyến biển tàu về đầy ắp cá, tôi lo lắng cho những người bạn của tôi đang chịu gió mùa, tránh bão; tôi chia sẻ nỗi buồn với những thủy thủ khi những chuyến biển bị gãy..." [Tuổi trẻ thứ Sáu, 20-4-2012]. Tuy nhiên, những sáng tác về biển của nhà văn trước khi Biển và chim bói cá ra đời lại mang một gam màu rất khác. Ở Người gác đèn biển (Truyện ký - 1962) và Người gác đèn cửa Nam Triệu, Bùi Ngọc Tấn phác họa chân dung của những người gắn bó với biển nhưng ở một dòng khác. Họ không phải là những thủy thủ trực tiếp với những mẻ lưới nặng, vơi, với mùi tanh nồng của tôm cá. Họ là những người định hướng, là ngọn đèn soi sáng, dẫn đường, chỉ lối cho những con tàu ra khơi. Người làm nhiệm vụ gác đèn biển như những chú chim Hải âu, đơn độc giữa biển khơi, sóng nước. Bạn với họ chỉ là nỗi cô đơn và tiếng sóng biển. Nhưng, 18 trong tâm hồn họ, những người gác đèn biển, chưa bao giờ họ thấy mình lẻ loi. Bùi Ngọc Tấn đã phác họa họ như những tượng đồng, đối mặt với phong ba, với gió biển, với nỗi cô đơn và nếp sống sinh hoạt đời thường. Họ vẫn vững vàng, kiên định, vững chắc. Bùi Ngọc Tấn là một nhà văn rất khéo trong việc đặt tên cho tác phẩm của mình. Mỗi một nhan đề tác phẩm đã phần nào chứa đựng đầy đủ nội dung. Tác phẩm Người gác đèn cửa Nam Triệu là một trong những đứa con tinh thần của nhà văn khi chào đời, cái tên đã hàm chứa đầy đủ những điều tác giả muốn nói. Đây là một tác phẩm đầy chất vui sống. Đọc câu chuyện này, người đọc sẽ không nhận thấy sự lẻ loi của những người ngày ngày phải đối mặt với đầu sóng ngọn gió. Họ rất lạc quan. Xuyên suốt Người gác đèn cửa Nam Triệu, nhà văn tập trung khắc họa chân dung người anh hùng Phùng Văn Bằng, một con người gắn bó trọn đời với tháp đèn, với những hiểm nguy nơi cửa biển bao la. Tác phẩm đã được giải thưởng của Bộ Văn hóa. Để khẳng định tình yêu của mình dành cho biển, Bùi Ngọc Tấn đã có rất nhiều cách tiếp cận biển. Thậm chí, nhà văn không ngần ngại khi nhìn biển ở những nét tính cách đối lập nhau. Ngoài Người gác đèn biển, Người gác đèn cửa Nam Triệu, Ngày và đêm trên vịnh Bái Tử Long, thì tác phẩm có thể được xem là thành công nhất, thể hiện rõ nhất tình yêu của ông với biển, sự hiểu biết về biển và về người lao động trên biển phải kể đến tiểu thuyết Biển và chim bói cá (2008). Cuốn tiểu thuyết này ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong đời viết của Bùi Ngọc Tấn. Tác phẩm không chỉ khẳng định tình yêu của ông dành cho biển, cho con người, không hề vơi cạn, phôi pha, xao lãng mà còn là nỗi niềm suy tư, trăn trở về số phận của mỗi người công nhân khi gắn với biển. Trong Biển và chim bói cá, nhà văn thu vào tầm mắt của mình cả hai mảng sáng và tối. Ông viết về những con người lao động trên biển với một sự 19 trân trọng, thương xót. Dù nhà văn có phê phán nhưng cũng là sự phê phán bao dung, rộng rãi của một con người luôn có lòng vị tha trung thực. Cho nên, đầy ắp trong tiểu thuyết Biển và chim bói cá là tiếng cười. 1.2.2. Đề tài và chủ đề tiểu thuyết Biển và chim bói cá Đề tài là phạm vi hiện thực để nhà văn lựa chọn và miêu tả, thể hiện tạo thành chất liệu của thế giới hình tượng trong tác phẩm, đồng thời là cơ sở để từ đó nhà văn đặt ra những vấn đề mà mình quan tâm. Đề tài của tác phẩm thường gắn chặt với hiện thực cuộc sống của thời đại mà nhà văn đang sống, cho nên đề tài mang tính lịch sử sâu sắc. Trong Biển và chim bói cá, Bùi Ngọc Tấn chọn biển và những người công nhân trực tiếp lao động với biển là đề tài sáng tác. Tuy nhiên, thường trong mỗi tác phẩm văn học không phải chỉ có một đề tài mà có rất nhiều đề tài liên quan đến nhau, bổ sung cho nhau để tạo thành một hệ thống đề tài. Pospelôp cho rằng: "Hệ đề tài là toàn bộ đề tài của tác phẩm hoặc sáng tác". Biển và chim bói cá không chỉ là những người lao động trực tiếp hoặc gián tiếp trên biển mà còn là thái độ phê phán của tác giả về mặt trái trong quản lí của những cán bộ quan liêu, thoái hóa về phẩm chất, đạo đức. Họ là nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ trong lao động, sản xuất. Chủ đề là vấn đề chủ yếu, trung tâm, là phương diện chính yếu của đề tài. Chủ đề là những vấn đề được nhà văn tập trung soi rọi, tô đậm, nêu lên trong tác phẩm mà nhà văn cho là quan trọng nhất. Dễ nhận thấy chủ đề trong Biển và chim bói cá là thân phận những người thủy thủ - họ có những người thuộc biên chế trên biển nhưng vì lí do cơ chế nên phải nằm bờ, chờ việc và ăn lương thất nghiệp. Phần lớn những thủy thủ có mặt trong phần một của tiểu thuyết được ra khỏi. Tuy nhiên cuộc sống của họ vô cùng bấp bênh, chìm nổi như những đợt sóng trên biển cả. Bên cạnh những người lao động thuộc khối dưới nước là những người làm việc ở khối trên bờ. Cuộc sống, cuộc đối thoại của họ trong công việc đã 20 chứng tỏ sự suy sụp của một cơ chế quan liêu bao cấp và những con người sống trong cơ chế đó đang muốn vùng vẫy để thoát ra. Họ muốn có điều gì đó sẽ thay đổi về cuộc sống trong tương lai. Chủ đề và đề tài thường có sự gắn bó với nhau nhưng nhiều khi chủ đề vượt qua giới hạn của đề tài cụ thể mà nêu lên những vấn đề khái quát hơn. Từ sự đánh giá về đề tài và chủ đề như trên, có thể thấy rõ đề tài và chủ đề trong Biển và chim bói cá tập trung ở một số phương diện sau: 1.2.2.1. Mối quan hệ của con người trong lao động sản xuất Bùi Ngọc Tấn là một nhà văn cần mẫn, chăm chỉ. Đọc truyện nào, sáng tác nào cũng thấy đầy ắp vốn sống, ngồn ngộn chi tiết và lấp lánh nét tài hoa, gợi mở. Trong Biển và chim bói cá, nhà văn đề cập đến số phận của những người lao động mà chỗ họ cần dựa lấy để mưu sinh chính là đại dương bao la. Xuyên suốt tác phẩm là một sự phong phú về chi tiết, đầy ắp chất liệu sống và đặc sệt phong cách Bùi Ngọc Tấn. Với kinh nghiệm hơn hai mươi năm là thành viên của xí nghiệp đánh cá Hạ Long, Bùi Ngọc Tấn đã chứng kiến đủ những chìm nổi, ngang trái của cuộc sống và con người trong một bầu không khí cũ. Ở tiểu thuyết này, quan hệ của những người công nhân trong quốc danh đánh cá Biển Đông rất bình đẳng, rõ ràng, cảm thông và chia sẻ. Tất nhiên, quan hệ này chỉ có được ở những thủy thủ trực tiếp xuống tàu như Trần Bôn, Chơn, Lê Mây, Thuyền... vì họ đơn thuần chỉ là những thủy thủ bên cạnh tâm huyết làm giàu cho Tổ quốc, họ còn có cả một gánh nặng gia đình trên đôi vai. Đọc Biển và chim bói cá, người đọc sẽ nhận thấy tiểu thuyết này lạ ở chỗ không có đầu, không có đuôi, không có cốt truyện. Cả tác phẩm là sự tiếp nối liên tục các chi tiết, sự kiện, những câu nói, những nhân vật. Có thể nói vô vàn các chi tiết kết nối nhau chạy dọc theo chiều dài của tiểu thuyết. Hàng
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan