Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghệ thuật tự sự trong ...

Tài liệu Nghệ thuật tự sự trong

.PDF
72
15
119

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------- ĐỖ THỊ THU HẰNG NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG NGÂN THÀNH CỐ SỰ CỦA LÝ NHUỆ CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC NƢỚC NGOÀI MÃ SỐ: 60.22.30 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Lê Huy Tiêu Hà Nội – 2009 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 2 1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................................................... 4 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................................................... 5 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .............................................................................................. 9 4. Mục đích nghiên cứu ................................................................................................................ 10 5. Phƣơng pháp nghiên cứu .......................................................................................................... 10 6. Cấu trúc của luận văn ............................................................................................................... 10 7. Đóng góp mới của luận văn ...................................................................................................... 11 Chƣơng 1: NGƢỜI TỰ SỰ ......................................................................................... 12 1.1 Khái niệm ngƣời tự sự ............................................................................................................ 12 1.2. Ngôi kể truyền thống, cách kể sáng tạo ................................................................................. 13 1.3. Điểm nhìn di động ................................................................................................................. 21 1.4.Giọng điệu đa dạng................................................................................................................. 25 Chƣơng 2: NHÂN VẬT NHƢ LÀ PHƢƠNG THỨC TỰ SỰ ................................. 33 2.1. Khái niệm nhân vật................................................................................................................ 33 2.2. Quan niệm mới về nhân vật lịch sử ....................................................................................... 34 2.3. Các kiểu nhân vật cụ thể ........................................................................................................ 38 2.3.1. Nhân vật ngƣời chiến sĩ cách mạng thất bại ................................................................... 39 2.3.2. Nhân vật chống phá cách mạng vô thức ......................................................................... 42 2.3.3. Quần chúng nhân dân xa rời cách mạng ......................................................................... 45 Chƣơng 3: NGÔN NGỮ TỰ SỰ ................................................................................ 49 3.1. Khái niệm ngôn ngữ tự sự ..................................................................................................... 49 3.2. Các thành phần của ngôn ngữ tự sự....................................................................................... 50 3.2.1. Ngôn ngữ kể ................................................................................................................... 50 3.3.2. Ngôn ngữ tả .................................................................................................................... 54 3.3. Đặc điểm của ngôn ngữ tự sự ................................................................................................ 58 3.3.1. Chất sang trọng - phong vị Đƣờng thi ............................................................................ 58 3.3.2. Vẻ đẹp tài hoa, uyên bác ................................................................................................. 62 3.3.3.Ngôn ngữ tƣợng trƣng, biểu tƣợng .................................................................................. 65 PHẦN KẾT LUẬN....................................................................................................... 68 THƢ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................70 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Đối với Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung, từ lâu nay, văn học Trung Quốc vẫn là một sự cuốn hút khó nói hết thành lời. Vƣờn văn Trung Quốc đƣơng đại đang rực rỡ khoe sắc với các tên tuổi tiêu biểu nhƣ: Vƣơng Mông, Mạc Ngôn, Trƣơng Hiền Lƣợng, Giả Bình Ao, Phùng Ký Tài, Trƣơng Khiết, Thẩm Dung… Có một ngƣời tự nhận mình không hợp với cái ồn ã của văn đàn Trung Quốc hiện nay, nhƣng dƣờng nhƣ khi lạnh lùng với ánh hào quang của vòng nguyệt quế, ông lại đƣợc các văn sĩ kính phục hơn cả. Đó là nhà văn Lý Nhuệ - một trong những cột trụ lớn nhất của văn học Trung Quốc đƣơng đại. Sinh năm 1950 tại Bắc Kinh, Lý Nhuệ bắt đầu sự nghiệp viết văn từ năm 1970. Văn Lý Nhuệ sâu lắng, gần gũi với đời với ngƣời. Dù đề tài có khác nhau nhƣng các tác phẩm của ông đều xoay quanh một chủ đề duy nhất: khám phá bản chất đời sống con ngƣời. Năm 1998 Lý Nhuệ đƣợc bầu làm Phó chủ tịch hội nhà văn tỉnh Sơn Tây. Năm 2003 ông từ chức và cũng xin rút khỏi hội nhà văn Trung Quốc, làm một ngƣời viết văn tự do. Trên thị trƣờng văn học Trung Quốc đƣơng đại, văn Lý Nhuệ không gây nhiều tranh cãi nhƣ Mạc Ngôn, không đƣợc đọc nhiều nhƣ Dƣ Hoa. Nhƣng trên thị trƣờng văn học quốc tế, “thƣơng hiệu” Lý Nhuệ đƣợc chú ý hơn hẳn. Tác phẩm của Lý Nhuệ đƣợc các nhà Hán học giỏi nhất theo sát để dịch. Gornan Malmqvist – thành viên nói tiếng Hán duy nhất trong Viện Hàn lâm Thụy Điển – bám sát Lý Nhuệ ngay từ thành công đầu tiên: Hậu thổ (Đất dày). Malmqvist đã dịch 3/5 tác phẩm của Lý Nhuệ và đang dịch tiếp “Ngân Thành cố sự”. Không riêng gì Malmqvist, các dịch giả nổi tiếng thế giới về Hán học nhƣ Howard Goldblatt (Mỹ) hay Annie Curien (Pháp) cũng tìm đƣợc sự đồng cảm khi dịch tác phẩm của Lý Nhuệ. Tác phẩm của ông đã thu hút hàng triệu độc giả Âu Mỹ vốn luôn cảm thấy xa lạ và hiếu kì với văn hóa phƣơng Đông huyền bí. Ở Việt Nam, Nhà xuất bản Hội nhà văn kết hợp với công ty Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam đã dịch và xuất bản các tác phẩm sau của Lý Nhuệ: Hậu thổ (Đất dày) viết năm 1989 Cựu chỉ (Chốn xƣa) viết năm 1992 Vô phong chi thụ (Cây không gió) viết năm 1996 Vạn lí vô vân (Ngàn dặm không mây) viết năm 1996 Ngân Thành cố sự (Chuyện cũ ở Ngân Thành) viết năm 2002 Hiện nay, việc tìm hiểu và nghiên cứu tác phẩm của Lý Nhuệ chƣa đƣợc giới nghiên cứu Việt Nam chú ý nhiều. Chúng tôi chọn tiểu thuyết “Ngân Thành cố sự” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn. Cuốn tiểu thuyết này ra đời sau một thời gian tác giả im hơi lặng tiếng. Nó khiến cho giới văn học Trung Quốc và thế giới phải sửng sốt, đƣợc xếp vào 100 tiểu thuyết lớn nhất của Trung Quốc mọi thời đại, tạo nên thành công vang dội cho Lý Nhuệ. Viết về đề tài lịch sử, Lý Nhuệ đã thổi vào đó cảm hứng hiện đại. Triết lí mới về lịch sử, về con ngƣời đƣợc Lý Nhuệ thể hiện qua nghệ thuật tự sự vừa truyền thống vừa hiện đại. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Mƣời năm sau “Chốn xƣa”, thành phố nhỏ Ngân Thành lại trở về trong tác phẩm của Lý Nhuệ nhƣ là sự hoàn thiện cuối cùng bức chân dung nhân vật lớn mà tác giả luôn trăn trở: Lịch sử. Cuốn tiểu thuyết có dung lƣợng hơn 350 trang với bốn chƣơng. Nhan đề các chƣơng lần lƣợt là các câu thơ trong bài thơ “Xuất tái” của Vƣơng Chi Hoán: Chƣơng I: Hoàng Hà tuôn nƣớc từ mây trắng (Hoàng Hà viễn thƣớng bạch vân gian) Chƣơng II: Toà thành cô độc giữa ngàn non (Nhất phiến cô thành vạn nhận san) Chƣơng III: Sáo Khƣơng sao nỡ oán dƣơng liễu (Khƣơng địch hà tu oán dƣơng liễu) Chƣơng IV: Gió xuân không tới ải Ngọc Môn (Xuân phong bất đáo Ngọc Môn quan) Xứ Ngân Thành tuy chỉ có trong trí tƣởng tƣợng nhƣng vẫn hiện ra quen thuộc với độc giả. Một vùng đất không có tên trên bản đồ Trung Quốc, đƣợc xác định đi ngƣợc dòng Trƣờng Giang, rẽ thêm mấy nhánh. Đó là xứ làm muối mỏ khô trâu, đƣợm mùi khói phân trâu: “Một thành phố phồn vinh thịnh vƣợng sản xuất ra nhiều muối mỏ và khí thiên nhiên” [29, 9] “Mấy trăm năm ròng rã cách dùng phân trâu khô đun nấu đã trở thành một thói quen không thể thiếu với ngƣời dân thƣờng ở Ngân Thành” [29, 5] Thời gian lịch sử trong “Ngân Thành cố sự” là năm 1910, cuối thời Đại Thanh năm Tuyên Thống thứ hai. Nói một cách chính xác là vào tết trung thu năm 1910. Sự kiện lịch sử là vụ ném bom ám sát tri phủ Đồng Giang của Âu Dƣơng Lang Vân, diễn ra vào đêm trƣớc của cách mạng Tân Hợi. Cách mạng Tân Hợi là cuộc cách mạng do Tôn Trung Sơn lãnh đạo, nhằm lật đổ chế độ phong kiến nhà Thanh để lập nên nhà nƣớc cộng hòa Tƣ Sản (1911). Cùng hội với Âu Dƣơng Lang Vân là Lƣu Lan Đình và Lƣu Chấn Võ – những chiến sĩ cách mạng của Đồng Minh hội, đều du học ở Nhật về. Trở về Ngân Thành, họ muốn đem lại luồng gió mới cho quê hƣơng, viết lại lịch sử Ngân Thành. Nhƣng những chàng trai thực sự là tinh hoa của Ngân Thành cuối cùng đều gục ngã. Âu Dƣơng Lang Vân bị chặt đầu treo trên thành. Lƣu Lan Đình tự tử. Lƣu Chấn Võ bị em trai ruột giết chết. Đứng ở chiến tuyến đối lập với những chiến sĩ cách mạng tƣ sản là: Nhiếp Cần Hiên và Lƣu Tam Công. Một ngƣời là thống lĩnh quân tuần tra, một ngƣời là ông chủ của gia tộc Đôn Mục Đƣờng. Cả hai đều không theo cách mạng. Nhiếp Cần Hiên đàn áp cách mạng, thực hiện nhiệm vụ của nhà cầm quyền. Lƣu Tam Công không quan tâm đến cách mạng. Ông chống phá cách mạng bởi nó liên quan đến việc kinh doanh của nhà họ Lƣu. Ở Ngân Thành còn tồn tại cả một đám đông quần chúng thờ ơ với cách mạng. Họ kéo nhau đi xem giáo viên ngƣời Nhật chụp ảnh đầu đồng bào mình bị chặt. Trong đám đông ấy đáng chú ý hơn cả là khách trâu Vƣợng Tài. Vƣợng Tài không quan tâm đến sự sống chết của tri phủ đại nhân, không đi xem chặt đầu ngƣời chiến sĩ cách mạng. Anh chỉ quan tâm đến việc có bán chạy bánh phân trâu hay không. Truyện khép lại với cái chết của những ngƣời chiến sĩ cách mạng. Những ngƣời chống phá cách mạng nhƣ Nhiếp Cần Hiên và Lƣu Tam Công tuy giữ đƣợc mạng sống nhƣng cuộc sống đó có ý nghĩa gì khi tất cả mọi thứ đã đổ nát. Khách trâu Vƣợng Tài hồn nhiên sống cuộc sống cây cỏ của mình. Và sau những biến động ấy Ngân Thành lại trở về với nhịp sống thƣờng nhật. Có thể nói qua bốn chƣơng truyện của cuốn tiểu thuyết “Ngân Thành cố sự” nhà văn Lý Nhuệ đã tái hiện lịch sử Trung Quốc những năm 1910, ở vùng đất Ngân Thành đến mức “thật thà” với những nhân vật và sự kiện, những sinh họat thƣờng nhật và cả những cuộc cách mạng. Lịch sử đƣợc trả về với cái nhìn đa chiều và thông tục. Hiện nay chƣa có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về tác phẩm “Ngân Thành cố sự” nói riêng cũng nhƣ văn chƣơng Lý Nhuệ nói chung. Qua khảo sát chúng tôi tiếp nhận đƣợc một vài bài viết đáng chú ý ở Việt Nam và Trung Quốc. Ở Việt Nam: Đáng kể nhất là bài viết của Vƣơng Trí Nhàn “Lý Nhuệ - mang lại cho cách viết cũ một triết lí mới”, đăng trên http:// www.tuoitre.com. Ở bài này, tác giả Vƣơng Trí Nhàn chỉ ra nghệ thuật tự sự của Lý Nhuệ là lối “đại tự sự” truyền thống, nhƣng ông đƣa ra triết lí mới về con ngƣời và lịch sử. Lý Nhuệ trả lời cho câu hỏi: “Đối diện với lịch sử con ngƣời là gì? Đối diện với thời gian rốt cuộc mỗi sinh mệnh có ý nghĩa gì?. Bài viết này của Vƣơng Trí Nhàn đã đƣợc dùng làm lới tựa cho cuốn “Ngân Thành cố sự” do Hội Nhà văn xuất bản. Bên cạnh đó còn có bài viết của Ngô Thị Kim Cúc đăng trên http:// www.phongdiep.net, “Lịch sử cần những đôi mắt biết quan sát”. Tác giả đã mƣợn lời của chàng thanh niên ngƣời Nhật Ojiro trong “Ngân Thành cố sự” để làm nhan đề cho bài viết. Theo Ngô Thị Kim Cúc, lịch sử của thành phố Ngân Thành nói riêng, và lịch sử nói chung tồn tại nhờ có những đôi mắt biết quan sát. Toàn bộ lịch sử Ngân Thành đƣợc quan sát và ghi chép lại qua ống kính và những tấm ảnh của Ojiro. Qua ống kính ấy, ta thấy đƣợc “những cái chết, những bài học đau xót”, và cả “sự trung thực của lịch sử”. Những chàng trai lãng mạn nuôi mộng đổi thay Ngân Thành đều phải trả giá bằng mạng sống. Ngƣợc lại ngƣời lính già Nhiếp Cần Hiên mới là ngƣời thấu hiểu lịch sử và con ngƣời Ngân Thành. Dân nghèo Vƣợng Tài thì chẳng đoái hoài tới lịch sử bởi nó chẳng liên quan đến những bánh phân trâu và cuộc sống của anh. Bài viết của Minh Thi trên http:// www.laodong.com có nhan đề ấn tƣợng “Ngân Thành cố sự - sự đày ải kép tinh thần con ngƣời”. Tác giả giải thích sự đày ải kép ấy nhƣ sau: Vì cái “chân lí” của cách mạng Tân Hợi mà biết bao ngƣời hi sinh đi tìm kiếm, nhƣng để rồi lại đƣa Trung Quốc đến thất bại nặng nề hơn trong Cách mạng văn hóa. Con ngƣời tự tạo ra cảnh khốn cùng cho mình. Lịch sử tàn nhẫn dìm chết những sinh mạng con ngƣời từ Âu Dƣơng Lang Vân, Lƣu Lan Đình, Lƣu Chấn Võ đến Nhiếp Cần Hiên. Bài viết khái quát nhất về giá trị của cuốn tiểu thuyết “Ngân Thành cố sự” là của Thanh Lan trên http:// www.baomoi.com với nhan đề: “Ngân Thành cố sự, cuốn tiểu thuyết vĩ đại của Trung Quốc”. Vĩ đại bởi cuốn tiểu thuyết này đã đạt giải thƣởng văn học Mao Thuẫn, đƣợc xếp vào “100 tiểu thuyết lớn nhất của Trung Quốc mọi thời đại”. Nội dung của câu chuyện là viết về “lịch sử bi thƣơng ở Ngân Thành” thời Vãn Thanh với những “nỗi đau khổ cùng cực của ngƣời Trung Quốc” cả về thể xác và tâm hồn. Lý Nhuệ đã xây dựng thành công hai hình tƣợng: lịch sử và ngƣời “anh hùng”. Khuôn mặt lịch sử đƣợc tái hiện chân thật, sinh động, cụ thể. Còn ngƣời anh hùng thì bị giằng xé giữa cách mạng – gia đình, có lúc bị tƣớc mất khả năng hành động. Đó là ngƣời anh hùng thất bại. Thất bại nhƣng vẫn hiên ngang. Nhìn chung các bài viết ở Việt Nam về tác phẩm “Ngân Thành cố sự” mới dừng lại ở bƣớc đánh giá ban đầu về giá trị nội dung, tƣ tƣởng và nghệ thuật của tác phẩm. Đa số các ý kiến đều chỉ ra cách tiếp cận mới mẻ của Lý Nhuệ trƣớc đề tài lịch sử - con ngƣời. Khám phá về nội dung sẽ kéo theo phát minh về hình thức. Nên Lý Nhuệ một mặt kế thừa những thủ pháp của lối kể chuyện truyền thống mặt khác thổi vào đó hơi thở nghệ thuật tự sự hiện đại. Ở Trung Quốc, nghiên cứu về văn chƣơng Lý Nhuệ có những bài viết nhƣ: Vƣơng Xuân Lâm “Cảnh quan lịch sử với cái nhìn trí tuệ”, trên http:// www cnki.net; Lƣu Hy và Lâm Dĩnh : “Lịch sử phản phúng và đối thoại” đăng trên http:// www.enki.net; Vƣơng Nhiêu “Bàn về tiểu thuyết gia Lý Nhuệ” (Lời tựa cho cuốn “Lý Nhuệ, Tinh tuyển tập”, NXB Yên Sơn, Bắc Kinh, 2006); Vƣơng Đức Uy “Đọc Ngân Thành cố sự của Lý Nhuệ” (Trích 20 nhà tiểu thuyết đƣơng đại, NXB Tam Liên thƣ điếm, 2006)… Vƣơng Xuân Lâm tìm hiểu“đôi mắt” của Lý Nhuệ khi nhìn chủ đề lịch sử từ “Chốn xƣa” đến “Ngân Thành cố sự”. Nếu thời gian tự sự trong “Chốn xƣa” dài đến một thế kỉ thì trong “Ngân Thành cố sự” chỉ có trên dƣới mƣời hôm trong tiết trung thu 1910. Lý Nhuệ viết “Chốn xƣa” với một niềm xúc động mãnh liệt, một giọng điệu rất bức xúc. Đến “Ngân Thành cố sự” giọng điệu trở nên lạnh lùng. Ngôi kể thứ ba làm cho lịch sử tự nhiên hiện ra. Điều đó cho thấy cách nhìn của Lý Nhuệ với lịch sử có sự thay đổi: một cái nhìn trí tuệ. Trong sách giáo khoa, lịch sử phát triển có quá trình trật tự, lí tính. Nhƣng với Lý Nhuệ thì lịch sử thật khó lƣờng: bất ngờ và tàn nhẫn. Tất cả các nhân vật trong “Ngân Thành cố sự” đều là những vai diễn hiến tế trên diễn đàn lịch sử đẫm máu từ đám nông dân tạo phản, ngƣời cách mạng đến ngƣời trấn áp cách mạng. Theo hai nhà nghiên cứu Lƣu Hy và Lâm Dĩnh trong bài viết: “Lịch sử phản phúng và đối thoại” đăng trên http:// www.enki.net thì: “Ngân Thành cố sự” là văn bản rút gọn cao độ về thời gian, không gian và ý đồ của Lý Nhuệ rất rõ ràng: trong một không gian có ý nghĩa tƣợng trƣng, dung hợp mấy mệnh đề lớn của lịch sử lại với nhau tạo thành kết cấu tự sự to lớn của “Ngân Thành cố sự”. Cách mạng ở Ngân Thành không ngờ kết thúc sớm, hình thành sự “tiêu giải” (triệt tiêu và giải thể) ý nghĩa lịch sử vốn có của nó. Cuối cùng dẫn đến khuyết vắng ý nghĩa và trở thành phản phúng đối với bản thân chủ đề lịch sử. Khách trâu Vƣợng Tài không quan tâm đến cách mạng và cũng trở thành một sự phản phúng đối với cách mạng. Vƣợng Tài dùng thanh tre “lịch sử” có ghi mật khẩu hủy bỏ bạo động cách mạng của Lƣu Lan Đình làm giá phơi phân trâu. Vƣơng Đức Uy với bài viết: “Đọc Ngân Thành cố sự của Lý Nhuệ” (Trích 20 nhà tiểu thuyết đƣơng đại, NXB Tam Liên thƣ điếm, 2006); cho chúng ta thấy cái nhìn phản tƣ lịch sử của nhà văn họ Lý. Lý Nhuệ đi ngƣợc lại với thứ lịch sử mô tả cách mạng trong sách giáo khoa. Với Lý Nhuệ, lịch sử thật bất ngờ, “cái đáng phát sinh thì không phát sinh, cái không nên phát sinh thì cứ phát sinh”. Ở thành phố Ngân Thành chí ít có bốn lực lƣợng: phần tử cách mạng, quan lại địa phƣơng, gia tộc buôn muối, ngƣời nông dân khởi nghĩa ô hợp. Nếu viết theo công thức cũ thì mỗi thế lực cát cứ một nơi, Ngân Thành giống nhƣ một miếng bánh bị chia bốn. Nhƣng Lý Nhuệ viết khác đi: “phần tử cách mạng thì hồ đồ, nhu nhƣợc; quan lại địa phƣơng có thể tƣơng kế tựu kế, diệt quân cách mạng; đại gia buôn muối cơ mƣu nhƣng cũng thất bại; khởi nghĩa nông dân tuy thất bại nhƣng cuối cùng vẫn trở thành “khắc tinh”. Và khi sự kiện cách mạng kết thúc (cuộc bạo động không thành của Đồng Minh Hội, tạo phản của nông dân) thì bất luận kẻ thắng hay bại đều rơi vào trạng thái âu lo vô vọng. Trong bài viết “Bàn về tiểu thuyết gia Lý Nhuệ”, Vƣơng Nhiêu cũng cho ta thấy cách tiếp cận và thể nhiện đề tài lịch sử của nhà văn Lý Nhuệ. Tiểu thuyết của Lý Nhuệ bao giờ cũng có tầng sâu. Đó là kiểu kết cầu từ “hiện thực quay lại nhìn lịch sử”, “từ lịch sử phản tƣ hiện thực”; thông qua “cái ảo ảnh hƣ giả của lịch sử để thể hiện nhân sinh vĩnh hằng bên ngoài lịch sử”. “Ngân Thành cố sự” khác với “Chốn xƣa”, nhân vật trung tâm không có, sông – núi – trâu – tre… trở thành một kiểu loại nhân vật của tác phẩm. Nhân tố hằng định của tiến trình lịch sử đƣợc làm nổi bật, do đó cũng phủ nhận cái gọi là “tiến trình lịch sử”, phủ nhận cái gọi là “LỊCH SỬ”. Trong tiểu thuyết này, tác giả đã phát hiện ra những kẽ hở trong lịch sử ở sách giáo khoa. “Ông đã vƣơn tới nhân sinh bên ngoài lịch sử”. Cả “Chốn xƣa” và “Ngân Thành cố sự” đều dùng phƣơng thức tự sự toàn tri. Bốn bài viết trên đều góp phần khẳng định nhà văn Lý Nhuệ đã soi chiếu nhân vật lịch sử bằng con mắt lạnh lùng, trí tuệ của văn minh, từ đó nhìn ra đƣợc bức tranh toàn cảnh cũng nhƣ những góc khuất của vấn đề. Viết về một đề tài không mới nhƣng cái mới của Lý Nhuệ chính là cách nhìn, nhƣ R.Gamzatop nhận định: “Đừng nói cho tôi đề tài hãy nói cho tôi đôi mắt”. Tìm hiểu về tình hình nghiên cứu “Ngân Thành cố sự” của Lý Nhuệ ở Việt Nam và Trung Quốc, chúng tôi đi đến một số nhận định sau: - Khi tìm hiểu về “Ngân Thành cố sự” phải đặt nó trong văn mạch sáng tác của Lý Nhuệ từ “Chốn xƣa” để thấy đƣợc sự chuyển biến trong cách tiếp cận vấn đề và nghệ thuật tự sự của tác giả. - Vấn đề “đôi mắt” hay nói cách khác chính là vấn đề quan điểm, lập trƣờng, cách nhìn, cách nghĩ của Lý Nhuệ đƣợc quan tâm khá nhiều, bàn khá kĩ và sâu sắc. - Vấn đề “Nghệ thuật tự sự” trong những bài viết trên đƣợc nhắc đến qua: ngôi kể, điểm nhìn, giọng điệu,… nhƣng mới dừng ở mức cảm nhận chứ chƣa có công trình nghiên cứu nào thật hoàn chỉnh. Cho nên chúng tôi chọn đề tài này để từ đó tiếp cận và khám phá tác phẩm. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Tên đề tài của luận văn là: Nghệ thuật tự sự trong “Ngân Thành cố sự” của Lý Nhuệ. Với đề tài này, chúng tôi tiến hành giới hạn khái niệm Nghệ thuật tự sự. Về khái niệm tự sự, chúng tôi sử dụng không phân biệt với kể chuyện, trần thuật. Chúng đều là cách dịch khác của từ narrative trong tiếng Anh. Tìm hiểu về nghệ thuật tự sự có nghĩa là chúng tôi sẽ tìm hiểu các biện pháp, cách thức mà ngƣời kể chuyện sử dụng để dựng lên câu chuyện. Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi xin đi sâu vào ba vấn đề chính: Ngƣời tự sự (bao gồm: ngôi kể, điểm nhìn, giọng điệu); nhân vật và ngôn ngữ tự sự. Luận văn sẽ tiến hành khảo sát nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết “Ngân Thành cố sự”, tác phẩm do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành năm 2007. 4. Mục đích nghiên cứu Sử dụng lí thuyết nghệ thuật tự sự để lí giải hiện tƣợng Lý Nhuệ. Chỉ ra một trong những hƣớng hiện đại văn học là: hiện đại trên cơ sở của truyền thống. Đƣa tác phẩm của Lý Nhuệ gần gũi, dễ tiếp cận hơn với bạn đọc bình dân ở Việt Nam. Đồng thời khu biệt đƣợc những nét đặc sắc nghệ thuật của ông với nhà văn khác. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng riêng lẻ (hoặc kết hợp) một số phƣơng pháp nghiên cứu văn học chính nhƣ: phƣơng pháp so sánh, phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp thi pháp học… Trong quá trình thực hiện, ngƣời viết sử dụng các thao tác tiếp cận, khai thác văn bản nhƣ: thống kê, phân loại, lập bảng, nhận xét, phân tích, giải thích,… để làm sáng tỏ các luận điểm luận cứ trong phạm vi cần giải quyết của đề tài. 6. Cấu trúc của luận văn Sau Mở đầu là các chƣơng: Chƣơng 1: Ngƣời tự sự. Chúng tôi bắt đầu nội dung của luận văn bằng chƣơng “Ngƣời tự sự” – ngƣời kể chuyện. Bởi ngƣời kể chuyện là khái niệm trung tâm trong việc phân tích văn bản tự sự. Sự hiện diện của ngƣời kể chuyện, ngôi kể, điểm nhìn, giọng điệu, cách kể liên quan đến hiệu quả của câu chuyện. Chƣơng 2: Nhân vật nhƣ là phƣơng thức tự sự Ở chƣơng này, chúng tôi khảo sát nhân vật nhƣ là đối tƣợng đồng thời cũng chính là phƣơng thức tự sự của nghệ thuật kể chuyện. Nhân vật đƣợc Lý Nhuệ sử dụng nhƣ một công cụ phản ánh hiện thực, thể hiện tƣ tƣởng nghệ thuật, cũng nhƣ quá trình tƣ duy tự sự của nhà văn. Chƣơng 3: Ngôn ngữ tự sự Ngôn ngữ của ngƣời kể chuyện góp phần không nhỏ vào sự thành công của tác phẩm. Chúng tôi tập trung nghiên cứu đặc trƣng ngôn ngữ tự sự của nhà văn Lý Nhuệ, tạo ra nét khu biệt giữa ông với các nhà văn khác. Cuối cùng là Kết luận và Thƣ mục tài liệu tham khảo. Trong phần kết luận, chúng tôi tổng kết lại những đặc sắc về nghệ thuật tự sự trong “Ngân Thành cố sự” của Lý Nhuệ, chỉ ra xu hƣớng mới trong việc tiếp cận nghệ thuật tự sự của Lý Nhuệ. 7. Đóng góp mới của luận văn Đây là một công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc về Nghệ thuật tự sự trong “Ngân Thành cố sự” của Lý Nhuệ. Chỉ ra những đóng góp mới của nhà văn ở phƣơng diện nghệ thuật tự sự. Góp thêm một tiếng nói trong việc giảng dậy văn học nƣớc ngoài trong các trƣờng đại học. Chƣơng 1: NGƢỜI TỰ SỰ Những phát hiện của G.Genette về ngƣời trần thuật (ngƣời tự sự) là một cuộc cách mạng đối với lý luận tự sự học hiện đại. Ngƣời đọc hiện nay không chỉ quan tâm tác giả kể cái gì mà còn xem tác giả kể nhƣ thế nào? Cái hay, sự hấp dẫn của một tác phẩm phụ thuộc rất nhiều vào nghệ thuật kể chuyện của nhà văn. Ở chƣơng này, chúng tôi tập trung nghiên cứu vấn đề ngƣời tự sự trên các bình diện: ngôi kể, điểm nhìn và giọng điệu. Ngƣời tự sự là ngƣời trực tiếp đảm nhiệm vai trò kể chuyện trong nghệ thuật kể chuyện của Lý Nhuệ. Với ngôi kể truyền thống - ngôi thứ ba, ngƣời kể chuyện giấu mặt; Lý Nhuệ đã khéo léo trong việc xử lý ngôi kể và điều tiết điểm nhìn. Mỗi chƣơng truyện của Lý Nhuệ đƣợc kể bằng một lối kể có nhiều khoảng trống, quãng ngƣng tạo điều kiện cho ngƣời đọc thƣởng thức và đồng sáng tạo. Giọng văn Lý Nhuệ cứ điềm nhiên, lạnh lùng, tỉnh táo; có lúc lại là giọng thâm trầm của ngƣời ƣa triết lý. Điểm nhìn và giọng điệu trong "Ngân Thành cố sự" của Lý Nhuệ có chung xuất phát điểm từ sự trăn trở của nhà văn về hai chữ "lịch sử", về những vấn đề mang tính triết lý: "Đối diện với lịch sử con ngƣời là gì? Đối diện với thời gian rốt cuộc mỗi sinh mệnh có ý nghĩa gì?" 1.1 Khái niệm người tự sự Khái niệm "ngƣời tự sự" hay còn gọi là ngƣời kể chuyện, ngƣời trần thuật đã trở nên quen thuộc đối với các nhà nghiên cứu Việt Nam, đƣợc sử dụng khá rộng rãi. Theo tác giả Diệp Tú Sơn: "ngƣời tự sự là một nhân vật quan trọng trong tác phẩm, đảm nhiệm công việc thuật lại câu chuyện" [32, 32]. Trong cuốn "Từ điển thuật ngữ văn học", nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi quan niệm: "hình tƣợng ngƣời kể chuyện trong tác phẩm văn học chỉ xuất hiện khi nào câu chuyện đƣợc kể bởi một nhân vật cụ thể trong tác phẩm. Đó có thể là hình tƣợng của chính tác giả... có thể là một nhân vật đặc biệt do tác giả sáng tạo ra... Một tác phẩm có thể có một hoặc nhiều ngƣời kể chuyện" [13, 191]. Nguyễn Thái Hòa trong cuốn: "Những vấn đề thi pháp của truyện" khẳng định: "ngƣời kể chuyện là ngƣời biết tất cả", biết cả cốt truyện, nhân vật và dẫn dắt nhân vật hành động. Tác giả cho rằng có hai hình thức kể trực tiếp là: "ngƣời kể kể về mình" (ngƣời kể chuyện ở ngôi thứ nhất) và "ngƣời kể kể về ngƣời khác" (ngƣời kể chuyện ở ngôi thứ ba). Nhƣ vậy mảng tài liệu lý luận về vấn đề ngƣời kể chuyện khá phong phú và thống nhất, góp phần bổ sung cho nhau. Các tác giả đều nhất trí ngƣời tự sự là ngƣời dẫn dắt câu chuyện của tác phẩm; có thể là hình tƣợng tác giả cũng có thể là một nhân vật do tác giả sáng tạo nên; có thể lộ diện hoặc ẩn tàng; có thể xuất hiện ở ngôi thứ nhất hoặc ngôi thứ ba. Hình tƣợng ngƣời kể chuyện đem lại cho tác phẩm một cái nhìn và một sự đánh giá bổ sung về mặt tâm lí, nghề nghiệp hay lập trƣờng xã hội cho cái nhìn của tác giả, làm cho sự tái tạo con ngƣời và đời sống trong tác phẩm thêm phong phú và nhiều phối cảnh. Không có bất cứ một nguyên tắc nào trong việc lựa chọn ngôi tự sự. Lựa chọn nhƣ thế nào là do dụng ý của nhà văn trong việc bộc lộ tƣ tƣởng của mình thông qua tác phẩm sao cho chân thực và khách quan nhất. Trong "Ngân Thành cố sự", Lý Nhuệ đã chọn cho mình một ngƣời kể chuyện hấp dẫn, lôi cuốn độc giả. 1.2. Ngôi kể truyền thống, cách kể sáng tạo Về vấn đề "ngôi kể", từ trƣớc tới nay, tác phẩm văn học thƣờng đƣợc kể ở hai ngôi chính là ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba. Thông thƣờng, khi ngƣời kể chuyện là một nhân vật trong tác phẩm, xƣng "tôi" thì có nghĩa là chuyện đƣợc kể ở ngôi thứ nhất. Còn chuyện đƣợc kể bằng một ngƣời kể chuyện giấu mặt, không tên tuổi, ta gọi đó là ngƣời kể chuyện ngôi thứ ba. Gần đây các nhà nghiên cứu còn bàn đến vấn đề ngƣời kể chuyện ngôi thứ hai - với tƣ cách là ngƣời đối thoại với độc giả. Tiểu thuyết của Lý Nhuệ đi theo lối cũ, sử dụng ngôi kể thứ ba, ngƣời kể chuyện giấu mặt (ẩn tàng). Lần đầu tiên khi kể lại câu chuyện về thành phố Ngân Thành trong tiểu thuyết “Chốn xƣa”, tác giả sử dụng ngôi kể chủ đạo là ngôi thứ ba. Trong tác phẩm “Chốn xƣa” chỉ duy nhất một lần tác giả sử dụng ngôi thứ nhất xƣng "tôi" để kể lại câu chuyện. Đó là trong phần ba chƣơng hai, nhân vật Lý Nãi Chi xƣng tôi "ghi vào nhật kí những trang băn khoăn, khổ đau, bàng hoàng và tuyệt vọng": "Ngày 5 tháng 1 năm 1928. Đêm hôm qua lại mơ thấy thầy Nho, không biết đây là lần thứ bao nhiêu. Lần nào cũng đều sợ hãi và thê thảm nhƣ nhau. Tôi kêu lên làm chị Hận giật mình, chạy đến hỏi mơ thấy gì. Giấc mơ vô cùng thê thảm làm sao nói với chị đƣợc. Trên thế gian này có nơi đâu giết thầy một cách tàn nhẫn đến nhƣ thế không? Một thế giới tàn nhẫn nhƣ vậy quả là nỗi đau thƣơng lớn nhất của loài ngƣời?'' [27, 49]. Lần thứ hai, trở lại với con ngƣời và vùng đất Ngân Thành trong tiểu thuyết "Ngân Thành cố sự", Lý Nhuệ hoàn toàn chỉ sử dụng ngôi kể thứ ba truyền thống. Ngƣời kể ẩn tàng, đứng ngoài cuộc, quan sát kể lại mọi sự kiện xảy ra ở thành phố Ngân Thành giai đoạn trong thời Vãn Thanh năm 1910. Áp dụng cách làm của Manfred Jahn - tác giả cuốn "Trần thuật học, nhập môn lý thuyết trần thuật”, chúng tôi sẽ khảo sát tất cả các đoạn mở đầu ở các phần của các chƣơng trong cuốn tiểu thuyết "Ngân Thành cố sự" để khẳng định Lý Nhuệ chỉ sử dụng ngôi kể thứ ba. Chương/Phần Đoạn văn Ngôi kể/Điểm nhìn I/ 1. Ngƣời Ngân Thành ngày nay đã không NKC giấu mặt kể theo điểm còn ngửi thấy mùi phân trâu nữa rồi. nhìn của tác giả Vào hai triều Minh - Thanh hoặc sớm hơn, trƣớc đó sáu bảy trăm năm ngƣời Ngân Thành vẫn dùng phân trâu khô làm nhiên liệu đun nấu.... 2. Những ngƣời lính vác theo một cái sọt NKC giấu mặt đi chuyển to bê bết máu từ ngoài phố vào trong điểm nhìn từ mình sang gian phòng lớn của quán trà Hội Hiền. nhân vật Nhiếp Cần Hiên Máu tƣơi chảy ròng ròng qua khe sọt. Vào cái khoảnh khắc đáy sọt chạm đất Nhiếp Cần Hiên nghe thấy rất rõ tiếng máu rơi. Nhiếp Cần Hiên có cảm giác những giọt máu tƣơi bắn thẳng vào mắt mình. 3. Mặc cho anh trai kiên quyết phản đối mặc NKC giấu mặt kể theo điểm cho anh trai luôn miệng cảnh cáo không nhìn của tác giả đƣợc chính dáng gì tới đám con gái "China", nhƣng Hideyam Hoko vẫn thích đến bến đò Thính Ngƣ để giặt quần áo. 4. Hoko biết vì sao anh trai kiên quyết NKC giấu mặt kể tựa vào phản đối chuyện tình cảm của cô. Ngƣời điểm nhìn của nhân vật cô yêu là Ino Toruzo. Anh không phải là Hoko ngƣời Nhật mà là ngƣời Trung Quốc,… 5. Khi bƣớc ra quán trà, Âu Dƣơng Lang NKC giấu mặt kể tựa vào Vân và Hideyama Ojiro đột nhiên nhìn điểm nhìn của nhân vật thấy hai cái xác không đầu. Tự nhiên Ojiro Ojiro thấy kích động và muốn chụp ảnh. Anh biết đây là cơ hội hiếm có, là một cảnh tƣợng dễ gì đã gặp 6. Thời gian còn lại không nhiều, nhƣng NKC giấu mặt kể theo điểm giờ này vẫn còn nắng, mặt trời chênh nhìn của tác giả chếch đằng tây chiếu xuống thành phố san sát nhƣ bát úp sau lƣng, một khung cảnh nghìn năm dễ gì đã gặp 7 Cách cổng Tây của thành cũ không xa nt có một con đƣờng núi nhỏ tách ra từ đƣờng cái, xe ngựa có thể chạy. Men theo con đƣờng đƣợc rừng tùng che phủ đó khoảng năm dặm về phía tây nam, sẽ tới cuối thung lũng... II/ 1. Nhiếp Cần Hiên lơ đãng ngậm chặt NKC giấu mặt kể tựa vào miệng chiếc ống điếu bằng bạc trắng, điểm nhìn của nhân vật nhẹ nhàng rít một hơi, rồi lại một hơi Nhiếp Cần Hiên nữa mới phát hiện ra những sợi thuốc trong nõ điếu đã cháy hết từ lâu… 2. Nhạc Thiên Nghĩa đứng trên chiếc ghế NKC giấu mặt kể theo điểm bành quấn chặt vải đỏ, từ trong lỗ châu nhìn của tác giả mai của bức tƣờng đổ nát ở cửa ải Đồng Lĩnh, hết nhòm về phía Đông lại ngó về phía Tây. Thời tiết rất đẹp không một gợn mây, đúng là một ngày đẹp trời đầy nắng. 3. Dốc phân trâu nằm trên ngọn núi Tạ Vũ Nt Phong. Lƣng chừng núi có một cái động, ngƣời Ngân Thành gọi nó là Động Tiên. Tƣơng truyền trƣớc kia có một vị đạo sĩ đã từng tu luyện tại đây. 4. Trịnh lão gia cắm ba thẻ hƣơng vào bát Nt hƣơng trên bàn thờ, rồi chùi lòng bàn tay vừa đƣợc rửa sạch vào chiếc tạp dề da trƣớc ngực, sau đó cao giọng gọi với vào nhà trong 5. Cách đây hai năm trƣờng Dục Nhân Nt khai giảng năm học đầu tiên. Do thời gian chuẩn bị tƣơng đối gấp, trăm công nghìn việc rối nhƣ canh hẹ, nên chƣa kịp sáng tác một bài hát cho trƣờng. 6. Cùng với việc tống Âu Dƣơng Lang Nt Vân vào nhà lao, Nhiếp Cần Hiên lập tức dẫn ngƣời và vũ khí đến trƣờng Dục Nhân. Từng toán lính từ trong doanh trại ra khỏi thành bóng tôi nhập nhoạng, súng ống kinh ngƣời tiếng chân rầm rập 7. Đoàn quân vào đến Đồng Lĩnh tốc độ Nt hành quân liền chậm lại rõ rệt. Hai khẩu sơn pháo, mỗi khẩu do bẩy chú ngựa kéo, dù vậy công việc kéo pháo vẫn vô cùng vất vả. III/ 1. Nhìn đoàn quân Nhiếp Cần Hiên mất Nt hút trong đêm, Lƣu Lan Đình tuy rất do dự nhƣng rồi anh vẫn quyết định không đợi vị Tổng chỉ huy đó nữa, lập tức đình chỉ việc chuẩn bị bạo động, nhanh chóng cất giấu toàn bộ vũ khí. 2. Mặc dù nóc lán đã phủ kín cành cây, quần NKC giấu mặt di chuyển áo vẫn ƣớt đẫm sƣơng thu. Khi Nhạc điểm nhìn từ mình sang Thiên Nghĩa ngồi dậy xoa xoa cánh tay nhân vật Nhạc Thiên Nghĩa mỏi nhừ, đêm đen vẫn còn đang ngự trị…Tối qua lại có ngƣời vào báo, chừng ba trăm đội viên tiếp tục bỏ ngũ. Nhạc Thiên Nghĩa than thầm: thích đi đâu thì đi... Nhạc Thiên Nghĩa này chẳng ép ai tạo phản. 3. Thổi nấu ăn uống đàng hoàng xong xuôi, NKC giấu mặt kể theo điểm một tốp chủ lực của tiểu đoàn Một, trung nhìn của tác giả đoàn Hai, lữ đoàn hỗn hợp Một, thuộc sƣ đoàn bộ binh số 17 tiến lên phía trƣớc năm dặm, hợp cùng với toán quân đi trƣớc. 4. Sƣơng rất nặng đến cả tiếng chim hót Nt trong rừng cũng nhƣ ƣớt đẫm hơi sƣơng. Mặt trời vẫn còn chƣa lên tới đỉnh núi, nhƣng những tia nắng sớm vẫn cứ dồn hết đám mù xuống thung lũng. 5. Vào cái tối mà Âu Dƣơng Lang Vân ra Nt tự thú, Nhiếp Vần Hiên đã thả hết toàn bộ nghi phạm ngay trƣớc mắt anh ta… 6. Ngƣời Ngân Thành đều biết hai mƣơi Nt tháng tám là ngày sinh nhật Lƣu Tam Công của Đôn Mục Đƣờng, hơn nữa họ còn biết ngày hai mƣơi tháng tám năm nay là lần sinh nhật thứ sáu mƣơi, lục tuần đại khánh. IV/ 1. Qua trấn Kê Minh, thế núi thấp hẳn Nt xuống, qua đèo là nhìn thấy Ngân Thành từ xa. Những cần trục cao sừng sững, dãy tƣờng thành đồ sộ, dòng sông Ngân Khê uốn lƣợn nhƣ chiếc đai ngọc đã trong tầm mắt. 2. … Cái đầu trong giỏ treo trên tƣờng NKC giấu mặt kể tựa theo thành kia có đúng là đầu của Âu Dƣơng điểm nhìn của nhân vật Lang Vân không? Làm sao có thể tin Ojiro đƣợc một Âu Dƣơng Lang Vân thƣ sinh trói gà không chặt mà lại bị ngƣời ta chặt đầu? Không quan tòa, không tòa án, không bất kì một cuộc điều tra, không một chứng cứ... thế mà một đầu ngƣời đã bị chặt! 3. Vƣợng Tài cắm hai thân cây ngải khô NKC giấu mặt kể chuyện đang cháy dở vào một chiếc bát đựng theo điểm nhìn của tác giả gạo, rồi chụm mồm thổi một hơi nhẹ. Phù, tắt rồi! Hai cây ngải vừa rồi hãy còn cháy vậy mà thoắt cái vụt tắt, tỏa ra hai làn khói xanh huyền bí vò giữa khoảng tối trƣớc mắt 4. Bà Sáu Thái đóng cổng, quay lại thở phào, NKC giấu mặt kể theo điểm giờ thì rảnh rang rồi một xu nhân tình cũng nhìn của nhân vật bà Sáu không nợ ai. Nợ những ngƣời chất phác Thái hiền lành nhƣ Vƣợng Tài thì lại càng áy náy không yên. Cảnh mẹ góa con côi sao mà dám nợ tình nghĩa thiên hạ....? 5. Lƣu Chấn Võ sau khi hạ trại tại trƣờng NKC giấu mặt kể theo điểm Dục Nhân, vội dẫn theo kị vệ binh trở nhìn của tác giả vè vƣờn Hƣơng Quế Phố Văn Miếu. Đội kị binh dũng mãnh, súng ống mới tinh phóng trên đƣờng phố, cá sắt nện trên đá lát đƣờng cồm cộp. 6. Bảy tám ngọn đèn mỡ trâu treo trên Nt tƣờng, trên cột hai bên bàn rƣợu, mùi mỡ trâu theo làn khói đen tỏa khắp. Cách bài trí trọng đại sảnh vẫn theo kiểu cũ. 7. Chẳng ai nói đƣợc một năm có bao Nt nhiêu lƣợt thuyền chở muối đi về trên dòng Ngân Khê. Cũng chẳng ai nói đƣợc rõ ràng trong một năm có bao nhiêu muối đƣợc chuyển đi từ Ngân Khê và có bao nhiêu tiền bạc chảy về Ngân Khê. 8. Ngày hai mƣơi ba tháng tám, cứ nhƣ có Nt ngƣời ra lệnh, nghìn vạn con trâu từ bốn phƣơng lũ lƣợt kéo về Ngân Thành nhƣ nƣớc thủy triều. Trên đƣờng lớn hay đƣờng mòn, đâu đâu cũng thấy từng đàn trâu nhƣ dƣới đất chui lên, cùng đi về một hƣớng Qua bảng thống kê trên, chúng ta thấy: ngƣời kể chuyện hàm ẩn trong tác phẩm có hai trƣờng hợp. Trƣờng hợp một: Ngƣời kể chuyện hàm ẩn tựa vào điểm nhìn của nhân vật để kể. Trƣờng hợp hai: ngƣời kể chuyện hàm ẩn kể lại câu chuyện theo điểm nhìn của chính mình. Và nhiều khi điểm nhìn của ngƣời kể chuyện có sự di chuyển từ: điểm nhìn của mình sang điểm nhìn của nhân vật. Nhiều ngƣời hay nhầm ở trƣờng hợp một cho rằng ngƣời kể chuyện ở đây là nhân vật, ngôi thứ ba. Thực chất vấn đề không phải nhƣ vậy. Chúng tôi xin phân tích đoạn văn mở đầu thuộc phần 5 chƣơng I của tiểu thuyết "Ngân Thành cố sự": "Khi bƣớc ra quán trà, Âu Dƣơng Lang Vân và Hideyama Ojiro đột nhiên nhìn thấy hai cái xác không đầu. Tự nhiên Ojiro thấy kích động và muốn chụp ảnh. Anh biết đây là cơ hội hiếm có, là một cảnh tƣợng dễ gì đã gặp. Đáng tiếc trong tay lại không có máy ảnh. Hơn nữa hiện tại anh còn phải hộ tống ngƣời bạn đồng hành của mình về trƣờng. Anh sốt ruột kéo Âu Dƣơng Lang Vân đi ra phía ngoài." [29, 52 ]. Ở đoạn văn trên không có sự xuất hiện trực tiếp của ngôi thứ nhất chỉ có sự xuất hiện của ngôi thứ ba đƣợc cụ thể hoá bằng tên riêng (Ojiro) với cảm nhận (thấy kích động), suy nghĩ (biết đây là cơ hội hiếm có, tiếc là trong tay không có máy ảnh), tâm trạng (sốt ruột), hành động (kéo tay Âu Dƣơng Lang Vân đi ra phía ngoài). Ojiro là nhân vật hành động, là chủ thể của hành động đƣợc kể lại, là chủ ngữ trong câu. Ojiro thuộc về hiện thực đƣợc nói đến. Mặt khác, Ojiro không phải là ngƣời kể chuyện xƣng bằng tên riêng, có một ngƣời nào đó nữa quan sát Ojiro, kể về Ojiro. Ngƣời kể chuyện hàm ẩn này đã mƣợn giọng nhân vật để kể. Có nhƣ vậy anh ta mới dễ dàng nhập vào đời sống nội tâm của Ojiro - một ngƣời háo hức đến Trung Quốc vì tính hiếu kì. Với cách kể này, Lý Nhuệ tạo nên ở ngƣời đọc những cảm giác trực tiếp, gần gũi với nhân vật khiến chúng ta không có cảm giác đang nghe kể mà đang chứng kiến trực tiếp. Những đoạn văn mở đầu ở các phần của các chƣơng với ngôi kể thứ ba, ngƣời kể chuyện giấu mặt, kể theo điểm nhìn của tác giả; anh ta tỏ ra là một "thƣợng đế toàn thông". Anh ta biết mọi thứ về nhân vật, sự kiện: chuyện những đàn trâu kéo về Ngân Thành trong ngày hội, lịch sử Ngân Thành đầy ắp khói phân trâu khô, biệt thự Tùng Sơn, dốc Phân Trâu, động Tiên... Để khách quan hoá tự sự và khẳng định vai trò của độc giả trong tiếp nhận, Lý Nhuệ đã sử dụng kĩ thuật di chuyển điểm nhìn vào nhân vật. Ngƣời kể chuyện giấu mặt nhƣng đã dần dần dời chỗ vào nhân vật, nhìn nhận mọi sự kiện bằng điểm nhìn, cách nhìn của nhân vật. Chúng tôi sẽ khảo sát cụ thể vấn đề này ở phần 1.3 của chƣơng hai. (2) Đối chiếu với các nhà văn Trung Quốc đƣơng đại, chúng tôi thấy: Lý Nhuệ đã táo bạo lựa chọn cho mình một lối đi riêng trong vấn đề ngôi kể. Cao Hành Kiện, tác giả cuốn tiểu thuyết nổi tiếng "Linh Sơn" sử dụng ngƣời tự sự ở ngôi nhân xƣng thứ hai. Nhà văn Giả Bình Ao đa số sử dụng ngôi nhân xƣng thứ nhất trong các tiểu thuyết của mình. "Tần xoang" là một cuốn trƣờng thiên thành công của Giả Bình Ao. Toàn bộ câu chuyện về những biến thiên của phố Thanh Phong trong hai mƣơi năm đƣợc tác giả đặt dƣới lời kể của nhân vật Dẫn Sinh: "Chuyện này cũng đã lâu lắm rồi, chỉ có những ngƣời cao tuổi ở phố Thanh Phong này là hiểu rõ, còn những ngƣời ít tuổi chẳng ai biết gì, nhƣng tôi tôi lại biết" (Điệu Tần, Lê Bầu dịch, NXB Văn hóa thông tin, 2007). Với tiểu thuyết của Mạc Ngôn, chuyện cũng thƣờng đƣợc kể theo ngôi thứ nhất. Trong "Cao lƣơng đỏ", tôi kể về câu chuyện của ông tôi (Từ Chiếm Ngao), bà tôi (Phƣợng Liên), bố tôi (Đậu Quan). Trong "Báu vật của đời" nhân vật tôi - đứa con thứ chín của nhà Thƣợng Quan cũng dùng đôi mắt tuổi thơ để nhìn nhận những chuyện của ông, bà, cha, mẹ, anh, chị của mình. Trong "Đàn hƣơng hình" có sự kết hợp giữa ngôi kể thứ nhất và thứ ba. Với bút lực vững vàng của mình, Lý Nhuệ dẫu để ngƣời kể chuyện ở ngôi thứ ba vẫn khiến ngƣời đọc bị cuốn hút theo những dòng tả cảnh đẹp, đƣợm buồn đến nao lòng; những kiến thức mới mẻ, thú vị về vùng đất Ngân Thành. Nhà văn cũng khiến ngƣời đọc khắc khoải, dằn vặt cùng Nhiếp Cần Hiên với những suy nghĩ về thời cuộc, cùng Lƣu Lan Đình với những trăn trở, do dự trƣớc quyết định huỷ bỏ lệnh bạo động... Ngƣời kể chuyện hàm ẩn đã tựa vào điểm nhìn của nhân vật để kể và độc giả của họ cũng không kém phần bị cuốn hút vào câu chuyện của con ngƣời toàn thông ấy. Đó chính là sự tài tình và sáng tạo trong cách kể của tác giả. Ở điểm này, chúng ta thấy nhà văn Nam Cao của Việt Nam cũng là một trƣờng hợp nhƣ thế. Với ngôi kể thứ ba nhƣng Thứ, San, Oanh, Đích trong tiểu thuyết "Sống mòn" khiến chúng ta bị ám ảnh mãi về những kiếp sống đang ngày càng rỉ ra, mài mòn đi; những đay nghiến tầm thƣờng trong bữa cơm thƣờng nhật.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan