Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghệ thuật truyện dạ ngân...

Tài liệu Nghệ thuật truyện dạ ngân

.PDF
97
801
94

Mô tả:

1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 NGUYỄN VĂN TÂN NGHỆ THUẬT TRUYỆN CỦA DẠ NGÂN Chuyên ngành: Lí luận văn học Mã số: 60 22 01 20 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Tôn Thảo Miên HÀ NỘI, 2013. 2 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, đội ngũ các nhà văn nữ chiếm một vị trí đáng kể, những sáng tác của họ đã đem đến cho nền văn học nước nhà những đổi mới, cách tân trên nhiều phương diện. Nhà văn Dạ Ngân là một trong số những cây bút được người đọc quan tâm trong thời gian qua. Năm 2005, nhà văn Dạ Ngân đã nhận hai giải thưởng, một của Hội nhà văn Hà Nội và hai là của Hội Nhà văn Việt Nam cho tiểu thuyết Gia đình bé mọn. Quan trọng hơn khi tác phẩm được xuất bản thì chính tác giả đã “không ngờ hiệu ứng của nó lại lớn thế” (1200 cuốn sách đã bán hết trong vòng ba tháng, hiện nay Nhà xuất bản đã in 1500 cuốn nữa). Nhiều độc giả “Cảm ơn Dạ Ngân” bởi chị đã cho họ một thân phận, một cuộc đời để có thể sống, trải nghiệm và suy ngẫm, dù chỉ là qua những trang viết mà thôi. Trong thông báo về Giải thưởng của Hội nhà văn Hà Nội năm 2004 2005 (Báo Văn nghệ số 42 ra ngày 15-10-2005), có đoạn viết: “Dù đôi chỗ có dấu hiệu phân vân và ngập ngừng giữa yếu tố tự truyện với hư cấu, Gia đình bé mọn là cuốn tiểu thuyết chắc tay, chứng tỏ độ chín của cây bút nữ được độc giả yêu mến từ đồng bằng sông Cửu Long, hiện sống và viết tại Hà Nội, trao giải cho tiểu thuyết này, Hội nhà văn Hà Nội muốn thêm một lần khẳng định sức bền của ngòi bút Dạ Ngân”. Vậy “độ chín” và “sức bền” của ngòi bút Dạ Ngân được thể hiện như thế nào qua các sáng tác của nhà văn? Đó là điều chúng tôi quan tâm trong luận văn này. 3 1.2. Theo tự thuật về tiểu sử văn học, Dạ Ngân viết văn ngay từ những năm sau chiến tranh ( Năm 1978, vì nhiều nguyên do nội tâm, tôi thấy mình phải viết. Còn nhớ, hôm ấy là một buổi trưa, căn hộ tập thể vắng tanh, tôi ngồi trước trang giấy mà tay kia vẫn nắm dây đưa võng cho con, đó là đứa con thứ hai của cuộc hôn nhân do chiến tranh thu xếp. Tôi hết sức tin mình - chắc ai cũng phải có niềm tin thiêng liêng như vậy mới viết được - tin vào sự thúc bách lương thiện của trái tim mình. Tạp chí Văn Nghệ tỉnh in truyện ấy vào số Tết, giờ tôi không dám đọc lại nó nhưng quả tình, lúc nhìn thấy cái truyện đầu tay của mình trên mặt báo, tôi tưởng mình vừa uống cả dòng sông rượu, ngây ngất và có thể làm được mọi điều tốt đẹp trên đời). Nhưng có lẽ, sự nghiệp văn chương của chị chỉ thực sự bắt đầu từ khi làn gió đổi mới, dân chủ của Đảng thổi bùng lên. Năm 1984, Dạ Ngân viết Con chó và vụ ly hôn. Nhưng truyện ngắn này đã được cất giữ rất lâu trong tủ để chờ cơ hội. Giữa năm 1986, Con chó và vụ ly hôn mới được in. Dư luận xôn xao quanh truyện ngắn này có lẽ vì “lần đầu tiên những truyện ... khó nói nhất trong quan hệ vợ chồng lại được một cây bút nữ viết ra một cách thẳng thắn, sòng phẳng đến thế” (Nguyễn Hoàng Sơn ). Bản thân Dạ Ngân lúc đó cũng ý thức được rằng ở thời điểm văn xuôi còn “e dè hay còn mãi trăn trở sau bao cấp” thì chắc chắn chị sẽ là “người đàn bà đi ngược gió một mình”. Sóng gió qua đi, nhà văn có vinh dự của một người mở đường. Năm 1987, Tạp chí Văn nghệ quân đội đã trao giải nhì cho truyện ngắn Trên mái nhà người phụ nữ của Dạ Ngân. Năm 1989, chị tiếp tục gặt hái được thành công với giải nhì cuộc thi truyện ngắn của Báo Tuổi trẻ thành phố Hồ Chí Minh cho truyện Thọ vẽ truyền thần. Năm 2004 Miệt vườn xa lắm đoạt giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam. Rồi Gia đình bé mọn ... Những sáng tác của chị tuy không trở thành “hiện tượng” (ngoại trừ tác phẩm Gia đình bé mọn), nhưng cũng có sức hấp dẫn nhất định đối với độc giả. 4 Với ý nghĩa đó, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài Nghệ thuật truyện Dạ Ngân để nghiên cứu với mong muốn trên cơ sở đi sâu tìm hiểu nghệ thuật trong sáng tác của Dạ Ngân, góp phần khẳng định những đóng góp của nhà văn đối với sự phát triển của văn xuôi Việt Nam thời kì đổi mới nói chung và văn xuôi nữ nói riêng. 2. Lịch sử vấn đề Theo khảo sát của chúng tôi, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào thật sự có quy mô và tương đối hoàn chỉnh về mặt nghệ thuật trong các sáng tác của Dạ Ngân, dù sự nghiệp của nhà văn đã được thời gian và công chúng khẳng định. Hầu hết, các bài viết hiện có đều mới ở dạng cảm nhận về một tập truyện ngắn, một tiểu thuyết mới xuất bản, hay một lời giới thiệu sách. Có lẽ vì Dạ Ngân viết không thật nhiều, lại không thuộc những “hiện tượng lạ vụt đến” tạo nên những đột biến trong làng văn kiểu như: Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài... Nhưng lặng lẽ mà quyết liệt đầy tự tin, nhà văn của miệt vườn miền Tây này đã từng bước khẳng định được chỗ đứng của mình qua mỗi tác phẩm. Năm 1986, tập truyện ngắn Quãng đời ấm áp của Dạ Ngân ra mắt bạn đọc. Tập truyện gồm 12 truyện ngắn với các mảng đề tài khác nhau ở những thời gian và không gian khác nhau. Đọc Quãng đời ấm áp, Chu Huy có cảm nhận: “Dù viết về đề tài nào đi nữa, Dạ Ngân đều hướng người đọc tìm đến cội nguồn trực tiếp hoặc gián tiếp, từ những tình cảm trong sáng, mãnh liệt, từ những nền tảng tư tưởng không bao giờ mờ phai của những năm tháng chiến tranh giải phóng đầy hy sinh gian khổ mà rất đỗi hào hùng”. Ở tác phẩm đầu tay này của Dạ Ngân, Chu Huy nhận ra những ưu trội của văn phong Dạ Ngân sau này sẽ phát triển thành thế mạnh riêng của chị: “viết khá sành về tâm lý nhân vật nữ”. Trong nhiều truyện khác, Dạ Ngân cũng gợi được ấn tượng của 5 người đọc bằng “những phát hiện. Đó là đoạn đối thoại trong Thi vị cuộc đời khi chủ nhiệm trại lúa giống vặn vẹo và răn đe chiến sĩ thi đua nông nghiệp Trần Thanh Tâm. Đó là tâm trạng xúc động của Dung trong Đêm cuối tuần. Hình ảnh miệt giồng phong phú của một tỉnh đồng bằng sông Cửu Long với dòng Nước Đục, xóm chài, cầu khỉ, với những con người với cá tính và ngôn ngữ địa phương làm cho cách viết của Dạ Ngân thêm dễ mến”. Bên cạnh đó, tác giả Chu Huy cũng nhận ra những hạn chế khó tránh khỏi của “đứa con đầu lòng” của Dạ Ngân: “còn đều đều, không có truyện thật nổi bật và giọng văn kể chuyện ở ngôi thứ nhất ở hầu hết mọi chuyện dễ nhàm chán. Dạ Ngân còn thiếu một sự nhuần nhuyễn, lô-gic trong khi xử lý các tình huống, các kết thúc thường phải dùng đến một số yếu tố ngẫu nhiên, nhưng sự cố...”; đồng thời ông cũng đặt niềm tin: “Con đường truyện ngắn của chị mới là bước đầu, chị có vốn sống và vật liệu phong phú, lại tinh tế trong nhận xét, nên người đọc có cơ sở để tin vào những sáng tác tiếp theo của chị”[67] Cũng qua những truyện ngắn đầu tay này của Dạ Ngân, nhà phê bình Nguyễn Văn Lưu đã nhận định: “Trong số những cây bút nữ viết văn xuôi hiện nay, Dạ Ngân là một tác giả trẻ đang được chú ý đến. Truyện của chị đậm đà tâm tình của một phụ nữ Nam Bộ giàu tình cảm và suy tư luôn trăn trở về cuộc sống cá nhân và đồng đội, bạn bè với gia đình, quê hương, với lý tưởng và nghĩa vụ, những khao khát nồng cháy của trái tim thiếu nữ trước cuộc đời”... Riêng truyện ngắn được giải nhì Tạp chí Văn nghệ quân đội năm 1987 Trên mái nhà người phụ nữ đã được giới phê bình đánh giá cao bởi một thứ văn xuôi giàu chất thơ. Nguyễn Trọng Hoàn khẳng định truyện có nhiều đoạn thành công bởi “ở đó hình ảnh, màu sắc, âm thanh ... được khai thác một cách 6 triệt để làm trang viết trở nên thi vị, thực sự có hồn, khiến người đọc có thể tri giác như được bước vào thế giới sinh động tồn tại dưới dạng vật chất”. Năm 1990, tập truyện ngắn Con chó và vụ ly hôn gồm chín truyện ngắn viết từ năm 1985 đến 1989 ra đời đã khẳng định thêm chỗ đứng của Dạ Ngân giữa làng văn. Nhà văn Ngô Ngọc Bội, người có công “dọn đường” cho Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp, Khách ở quê ra của Nguyễn Minh Châu và những truyện ngắn đầu tiên của Phạm Thị Hoài đến được với công chúng trong bài viết về Con chó và vụ ly hôn cho rằng: “Trong những năm 1985 - 1990, một thời văn chương có nhiều biến động : “Tìm tòi - Trăn trở Xô bồ thì Dạ Ngân vẫn bình tĩnh đi theo hướng đã chọn. Vốn là một cây bút từng trải, dày dặn vốn sống, biết khai thác sự uyên thâm của văn chương bác học, biết chắt lọc từ cuộc sống thực của đồng bằng sông Cửu Long - một cuộc sống đa dạng, một vùng ngôn ngữ đa cảm và giàu hình tượng - văn của Dạ Ngân lắng đọng, vừa ấm áp đôn hậu, vừa dữ dằn cay đắng rất Nam Bộ để rồi hướng tới cái thiện”. Ông còn nhận ra “cái mạnh nhất, quý nhất của Dạ Ngân là nghệ thuật khắc hoạ: cách nhìn của góc cạnh. Khai thác tâm lý nhân vật, tình tiết, chi tiết và sử dụng ngôn ngữ thật tài hoa. Cái đặc thù của chị là khai thác chiều sâu, truy kích đến cùng. Có thể cũng là tình huống ấy, bối cảnh ấy người khác viết rất nhạt nhẽo, vô vị. Dạ Ngân đặt đúng chỗ, điểm đúng huyệt, bằng những nét nhỏ tinh vi, có thể nói là tọc mạch - nét riêng của phụ nữ, làm cho văn của Dạ Ngân chói lên, người đọc phải sửng sốt ngơ ngác”. Nhà nghiên cứu văn học Mai Hương trong bài viết “Truyện ngắn của Dạ Ngân” đã đánh giá cao hướng khai thác, tiếp cận hiện thực riêng, nét đặc sắc trong thế giới nhân vật và văn phong của Dạ Ngân. Những thế mạnh này đều được phát huy và thể hiện trong tiểu thuyết Gia đình bé mọn - cuốn sách tâm huyết và quan trọng của nhà văn. 7 Cuốn tiểu thuyết gần đây nhất Gia đình bé mọn đã nhận được nhiều ý kiến phản hồi từ phía độc giả, các nhà văn, nhà phê bình. Nhà văn Nhật Tuấn đã viết về Chủ nghĩa hiện thực nghiêm nhặt trong Gia đình bé mọn và cho rằng: “Gia đình bé mọn của Dạ Ngân thật ra chẳng bé mọn chút nào, nó chứa đựng một dung lượng thông tin nén chặt ... Khác hẳn chiều hướng lảng tránh hiện thực tạo nên một thứ văn chương tào lao đầy rẫy trên văn đàn hiện nay, nhà văn Dạ Ngân thực sự đã dũng cảm rọi đèn vào những góc tối, khuất tất của cuộc sống, làm hiện rõ toàn cảnh bức tranh xã hội đầy nhức nhối hiện nay”. Nhà văn Hoài Nam trong Bốn lời bình cho tiểu thuyết Gia đình bé mọn nhận định đây là “cuốn tiểu thuyết kể chuyện gia đình”, qua đó “tác giả cho thấy một mẫu hình phụ nữ chủ động chèo lái con thuyền cuộc đời mình, một kiểu phụ nữ kiên nhẫn tới mức “lì lợm” để sống thật và sống đẹp với chính nhu cầu tinh thần của mình”. Thống nhất với nhận định của Nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến, nhà văn Hoài Nam khẳng định: Gia đình bé mọn còn là tiểu thuyết có đề tài “rộng hơn đề tài gia đình”. Đó là thân phận con người dưới sức ép chiến tranh “Chiến tranh đã khắc dấu ấn của nó lên đời sống xã hội, lên nhân tính, lên tình yêu của một thời kỳ đằng đẵng ngay cả khi tiếng súng chỉ còn ám ảnh trong giấc ngủ. Là người từng ở Cứ nhiều năm, sau đó lại kinh qua thời kỳ hậu chiến như hàng triệu người dân Việt Nam khốn khổ, nhà văn Dạ Ngân thấu hiểu điều này, và có lẽ Gia đình bé mọn chính là kết quả của cả một quá trình mà bà đã suy ngẫm rất nhiều về chiến tranh và những hệ quả của nó, tất nhiên theo cách riêng của bà”. Tác giả của Bốn lời bình cho Gia đình bé mọn còn khẳng định những phẩm chất làm nên thế mạnh ngòi bút của Dạ Ngân “sự cẩn trọng và tinh tế trong câu chữ, khả năng kết hợp nhuần nhuyễn giữa “mỹ văn” và ngôn ngữ đời thường của người Nam Bộ, sự sắc sảo trong phác hoạ nhân vật bằng một vài chi tiết đắt giá, nhanh 8 gọn; và sau cùng là một cái nhìn cuộc đời - dù với sự phê phán - nhưng vẫn luôn bằng ánh mắt đôn hậu”. Cũng về cuốn tiểu thuyết này, dịch giả - nhà nghiên cứu Trần Thiện Đạo tâm đắc với: “Thuật kể chuyện truyền thống không hoa hoè, không kiểu cách, không cầu kỳ, có thể bảo là cổ điển đó... là bệ phóng nhấc cuốn tiểu thuyết trồi lên, nổi bật”. Tác giả Lê Tú Anh cho rằng Gia đình bé mọn là một cuốn tự truyện dưới dạng tiểu thuyết và khẳng định đó là sự tìm kiếm thành công về mặt thể loại của Dạ Ngân. Theo Hoàng Thị Quỳnh Nga trong bài Cảm ơn Dạ Ngân nhận xét: “Đề tài về người đàn bà nổi loạn theo quan niệm đạo đức không có gì mới, cốt truyện cũng khá đơn giản. Nhưng có lẽ điều thành công của Dạ Ngân ở cuốn sách này là khả năng miêu tả sâu sắc, tinh tế những cảm giác, cảm xúc rất phụ nữ của Tiệp... cũng như tâm trạng dằn vặt đến quặn thắt của một người luôn mặc cảm không sống hết mình cho con… Ngoài những trang viết tinh tế và xúc động về cảm giác và sự giằng xé, Gia đình bé mọn còn hấp dẫn người đọc bởi bức tranh xã hội thời kỳ bao cấp”. Còn nhà văn Wayne Karlin (sinh năm 1945 tại New York) đã nhận xét: “Tiểu thuyết Một Gia Đình Bé Mọn”, cuốn sách lần theo cuộc đời của Lê Thị Mỹ Tiệp, người đàn bà từng có một thời con gái là nữ du kích góp phần vào cuộc chiến tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc và một xã hội lý tưởng, đến tuổi trưởng thành, lại đấu tranh cho giải phóng con người và tình yêu cá nhân. Hành trình của cái “gia đình bé mọn” của Tiệp trùng hợp với hành trình của đất nước nàng từ đoạn chót của cuộc chiến Việt - Mỹ đến thế kỷ 21, từ ngày đầu cuộc giải phóng và tái thống nhất đất nước (ít nhất cũng cho bên chiến 9 thắng) đến sự vỡ mộng và suy thoái do những chính sách hậu chiến có tác dụng khuyến khích tham nhũng, sự làm ăn kém hiệu quả, tiếp tục lòng hận thù giữa kẻ thua người thắng và cuối cùng là đến tận thời Đổi Mới, thời kỳ được cho là đất nước đang hướng tới sửa chữa nhiều sai lầm trong quá khứ khi thành công khi không nhưng luôn luôn phải đối mặt với những phức tạp mới. Trong khi câu chuyện của Tiệp xẩy ra giữa ba thời kỳ này - giải phóng, suy thoái, và đổi mới - và có thể tương ứng cho ba thời kỳ này - giải phóng, suy thoái, và đổi mới - bản thân Tiệp không bao giờ chỉ là vai trò tượng trưng: Dạ Ngân đã sáng tạo ra một cá nhân hiện thực đầy đặn, một sự đối lập của kiểu nhân vật thuần túy mang lý tưởng cách mạng rất có giá trong chiến tranh và sau chiến tranh và trước thời kỳ đổi mới, trong văn học Việt Nam cũng như trong tư tưởng Khổng giáo với người phụ nữ tam tòng tứ đức. Tác giả đã làm chúng ta nhận thức được cuộc đấu tranh là có tính cá nhân như thế nào khi bà xây dựng nhân vật Tiệp là một nhà văn, và một vài nhân vật khác như vậy nữa - không giống chút nào với những phần còn lại của cái gia đình quy ước của nàng - những nhân vật mà chân trời và ý nghĩa của sự lựa chọn đã rộng mở, được phơi bày ra trong văn chương của bà: “Quả tình, giữa nàng và những người thân là hai thế giới, phía kia không có Tầng đầu địa ngục, không có Sông Đông êm đềm, không có Người Tình, không có cả Rôbinxơn và Những người khốn khổ còn nàng thì lúc nào cũng sách vở bút mực, xê dịch và ham muốn. Những lúc như lúc nầy Tiệp thấy công việc viết lách của mình thật dị thường, những suy nghiệm của mình thật phù phiếm, những việc khiến mình đau khổ hoặc khát thèm thật vô bổ. Những người đàn bà rất biết tận dụng sự chi phối ấy chỉ quan tâm đến tôn ti và trật tự, đến công dung và ngôn hạnh cổ truyền, đến yên ổn và sung túc, ai là cán 10 bộ thì phải làm rạng danh thân tộc bằng cương vị ngày một cao hơn, ai là nông dân thì phải chăm chỉ và giỏi nhang đèn. Những bài báo của nàng còn có thể hiểu được, thứ văn chương mà nàng lọm cọm hằng đêm kia thì thật đáng hoài nghi vì nó không có hình thù, không có quyền lợi, suy ra nó hư vô và không quan trọng.” Tiệp, luôn là một nhà cách mạng và luôn là một độc giả, từ chối nhìn thế giới qua cái lăng kính của truyền thống hay ý thức hệ. Chẳng hạn, có một thời kỳ khi mọi người bị cấm nói điều tốt cho những người Việt Nam từng ở phía bên kia cuộc chiến, và mặc dầu bản thân nàng cũng từng chiến đấu chống lại họ, nàng vẫn ngưỡng mộ lòng chung thủy và tính cách mạnh mẽ của người vợ và con gái của một cựu đại tá Nam Việt Nam không còn nhà ở và nghèo đói đến tận cùng vì đã từng dính líu đến phía thất trận, hơn cả những con người máy và đạo đức giả cùng cơ quan. Bằng cách này hay những cách khác, cuốn tiểu thuyết dựng lên hai hoàn cảnh xã hội - nơi lằn chia cắt đất nước vẫn còn giữ lại một thời gian sau khi chiến tranh kết thúc năm 1975 - và sự mạnh mẽ của tính cách nhân vật Tiệp.Gia đình nội ngoại của Tiệp, những người miền Nam bắt nguồn từ vùng châu thổ sông Mekong đều có truyền thống nho giáo và cách mạng. Sau khi cha nàng chết trong lao tù của chính quyền Nam Việt Nam trong chiến tranh, nàng và tất cả anh chị em bắt mối với những người được gọi là Việt Cộng, những du kích của Mặt trận giải phóng miền Nam đang chiến đấu chống lại chính phủ và người Mỹ, cuộc chiến chính nàng cũng tham gia từ năm 16 tuổi. Khi gặp Tuyên lần đầu tiên, người đàn ông sau này thành chồng nàng, anh ta cũng là một chiến sĩ Mặt Trận, thì mối quan hệ của họ càng khăng khít hơn và thực ra - như sau này nàng kể lại - phải chăng cũng vì chiến tranh mỗi ngày càng ác liệt: 11 “nàng rụt sâu xuống hơn trong cái công sự với người thanh niên có thể chết cùng với mình bởi một quả pháo chụp pháo đào hay pháo trộn gì đó. Dàn đồng ca của súng đạn, đô la và giàu có chừng như bất tận, không mệt mỏi, như chúng muốn băm vằm cái ngã ba và cái cây trâm bầu trên đầu họ ra. Tai Tiệp ù đặc, mắt nàng long lanh cảm thán vì Tuyên đã nắm được tóc nàng kéo lên đúng lúc và đã ấn nàng xuống cái công sự như cái lỗ huyệt nầy. Nàng cười sằng sặc rồi nàng mếu máo khóc, bỗng nàng nín bặt vì nghe thấy có hai bàn tay đang áp vào, hàng nút áo bung ra tự bao giờ, hai trái ngực nàng đang săn lên run rẩy bởi đôi bàn tay ngốn ngấu trong thứ nước màu sữa đục, lạ quá, cảm giác được mơn trớn mà cũng được dày vò nâng lên hạ xuống trong mặt nước có mùi âm phủ, lạ quá. Hình như anh ta có hào hển rằng đã có ý với nàng từ lâu, ngay hồi mới đầu quân về cơ quan, đã chấm nàng và mơ được cưới nàng làm vợ... Không gian bỗng lịm đi, tai họa đã qua thật, nàng tót lên miệng công sự chống tay lên mép đất ngồi thở. Mùi của đất đai cây cỏ bị huỷ diệt, mùi môi của người thanh niên vừa khám phá được phân nửa nàng dưới công sự, mùi của thân xác lần đầu nghe thấy nó cồn từ bên trong ra, cấp rấp, kêu gào sống sót rồi, phơi bày rồi, tận hưởng đi buông xuôi đi. Tuyên dựng nàng đứng lên: “Giờ phải đi coi chiếc xuồng rồi kiếm chỗ, tụi nó cho pháo dọn bãi, thế nào hồi nữa cũng có đổ quân nhảy giò!” Thế là có ân tình, có kỷ niệm sống chết và có cả chữ tín trong sự trao gửi tiết trinh...” Ở chỗ này Dạ Ngân trở thành một trong số ít nhà văn hiện đại Việt Nam phơi bày một cách trực tiếp sợi tóc mong manh giữa cái chết và tình dục phát lộ ra trong thời chiến và cũng có ý ám chỉ sự mù lòa đầy quyến rũ của bản thân chiến tranh. Người tình đậm đà, đầy dũng cảm chiến trận trở thành tay quan liêu tự mãn, cuồng tín và một người cha người chồng bàng quan trong những năm hòa bình sau chiến thắng, “ mẫn cán, cần cù và hoàn toàn đáng thương hại”. Chủ nghĩa lý tưởng nồng nhiệt xã thân cho đại nghĩa và sự gần 12 kề cái chết đã từng làm họ yêu nhau, làm tình với nhau lần đầu trong nỗi kích động mạnh mẽ đã không sống sót nổi trước áp lực của cuộc sống trong hòa bình và Dạ Ngân dùng cuộc sống tình dục của Tiệp như là của đánh cược cho nỗi thất vọng đó. Trong khi nhiều nhà văn Việt Nam, từ Nguyễn Du, tác giả Truyện Kiều và vào thế kỷ 18, nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương đã đi trước dùng tình dục để thám hiểm tính cách và tập tục xã hội (và ngược lại), chuyện mô tả tình dục một cách trực tiếp của Tiệp là hiếm hoi, ít nhất cũng trong những tác phẩm văn học Việt Nam đã được dịch ra tiếng Anh mà chúng ta có dịp đọc. Tiệp đã không thỏa mãn với Tuyên và cô ấy đi tìm một tình yêu lý tưởng, xúc động và đầy cảm hứng hơn, tự buộc vào những chuyện rắc rối tệ hại, thậm chí lâm vào những thách thức còn tồi tệ hơn nhiều khi muốn làm lành với chồng, và cuối cùng thì hai mươi năm lịch sử truyền kỳ, khi Tiệp và Đính, ông chồng nhà văn xứ Bắc mà nàng đã yêu, người có hoàn cảnh li hôn phức tạp, nào con cái, công việc, và cảnh tái hôn, cái vũ trụ nhỏ gọi là gia đình “bé mọn”, thực ra đó là ánh xạ của cuộc đấu tranh của chính đất nước. Trong khi phải đối mặt với một Việt Nam sau cảnh hoang tàn chiến tranh nặng nề, cảm nhận thất vọng của Tiệp khi thấy những chiến sĩ từng đánh giặc rất hiệu quả, thì lại kém cỏi tạo dựng một xã hội mà con người có thể sống được, cảm nhận ấy lan toả khắp nơi và bi đát. Gia Đình Bé Mọn tràn ngập mô tả sinh động những pha nhỏ nhặt chuyện tham nhũng, đạo đức giả và ăn trên ngồi trốc, sự nghèo đói tột cùng và cảnh xếp hàng vô tận để có chút hàng hóa và thực phẩm sau chiến tranh. Tiệp đấu tranh để được sống với người mình yêu, vật lộn để xác định rõ tình yêu của mình cũng như khuôn dạng con người nàng cần phải có trong đời, thì nước Việt Nam của nàng cũng phải đấu tranh để khẳng định bản thân mình và tương lai mà nó muốn đạt tới như thế. Tiệp phạm sai lầm, học hỏi để 13 lớn lên, bị biến đổi như thế nào thì đất nước của nàng cũng vậy. Nếu đến thăm thủ đô Việt Nam hôm nay, thăm đường phố với san sát cửa hàng, những khách sạn và quán cà phê tràn ngập cùng với những con người kiên nghị và một tinh thần năng động có mặt ở khắp nơi, ai còn tưởng tượng được cái nghèo triền miên và cảnh đói khát của những năm bảy mươi, hơn nữa có thể tưởng tượng là những quả bom đã từng được rải xuống chính những đường phố này trong những năm chiến tranh. Vẫn còn đói nghèo và bất cập cùng tất cả những vấn đề mới mẻ đồng hành một cách căng thẳng giữa hiện đại và truyền thống trong bước ban đầu của toàn cầu hóa. Thế nhưng cũng đã có những biến đổi hầu như kỳ diệu. Cuốn tiểu thuyết đến với chúng ta năm 2005, với Tiệp và Đính, với đất nước của họ, vẫn còn nhức nhối bao vấn đề chưa có lối thoát, vẫn còn cuộc vật lộn để tự khẳng định mình, nhưng thời chiến tranh đã đi xa và sự hoang tàn cũng đã đi theo nó. Cũng như bản thân Hà Nội, đang cuộn lên với những đợt sóng ngầm của một thời đại mới: rào cản được hạ xuống, ý tưởng dám nghĩ dám làm được khởi sắc, những ý kiến được nói to, giây trói được cởi bỏ, hy vọng đang ló dạng…” Như vậy, đã có những nhận xét, đánh giá xung quanh sáng tác của Dạ Ngân từ năm 1986 đến nay. Tuy nhiên, đa phần các ý kiến mới chỉ dừng lại ở mức độ ấn tượng, cảm nhận chung hoặc phát hiện, dự đoán thông qua một tập truyện hay một tiểu thuyết của Dạ Ngân chứ chưa đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống về toàn bộ sáng tác của nhà văn. Xâu chuỗi các bài viết, các ý kiến về sáng tác của Dạ Ngân từ trước đến nay, chúng tôi thấy các ý kiến đều thống nhất ở việc khẳng định: Đề tài sáng tác chủ yếu của Dạ Ngân chính là đề tài gia đình. Song vấn đề đặt ra trong tác phẩm của bà thường lớn hơn bản thân đề tài, vượt ra ngoài 14 phạm vi đề tài như thân phận và hoàn cảnh con người trong chiến tranh, trong thời hậu chiến... Nhà văn Dạ Ngân có sở trường nắm bắt và miêu tả tâm lý nhân vật. Ngoài ra, ở chị còn có sự cẩn trọng và tinh tế trong từng câu chữ. Chúng tôi xem đây là những gợi ý quý báu của các nhà phê bình và các nhà văn, để đi sâu khảo sát một cách hệ thống hơn các sáng tác của Dạ Ngân, cũng như đóng góp của cây bút này với văn xuôi Việt Nam thời kỳ đổi mới. 3. Mục đích nghiên cứu Thông qua việc khảo sát có hệ thống các sáng tác của Dạ Ngân và trên cơ sở đi sâu tìm hiểu nghệ thuật thể hiện, luận văn nhằm: - Góp phần làm sáng tỏ nghệ thuật xây dựng nhân vật và cốt truyện cũng như để tìm hiểu một số thủ pháp nghệ thuật tiêu biểu trong truyện của Dạ Ngân. - Khẳng định những nét đặc sắc làm nên gương mặt văn chương Dạ Ngân - một cây bút văn xuôi nữ tiêu biểu thời kỳ đổi mới, cũng như những đóng góp của nhà văn với sự phát triển của văn xuôi Việt Nam hiện đại nói chung, văn xuôi thời kỳ đổi mới nói riêng. 4. Đối tƣợng, Phạm vi nghiên cứu 4.1.Đối tượng nghiên cứu Nhằm có cái nhìn bao quát về nghệ thuật truyện Dạ Ngân, chúng tôi tập trung nghiên cứu các phương diện sau đây: - Văn xuôi nữ Việt Nam đương đại và quá trình sáng tác của Dạ Ngân - Nghệ thuật xây dựng nhân vật và cốt truyện trong truyện của Dạ Ngân 15 - Một số thủ pháp nghệ thuật trong truyện của Dạ Ngân 4.2. Phạm vi nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi khảo sát toàn bộ sáng tác của Dạ Ngân nhưng tập trung chủ yếu vào các tác phẩm tiêu biểu của nhà văn. Cụ thể là: - Tiểu thuyết: + Ngày của một đời + Miệt vườn xa lắm + Gia đình bé mọn - Truyện ngắn: + Quãng đời ấm áp + Con chó và vụ ly hôn + Cõi nhà + Dạ Ngân - Truyện ngắn chọn lọc + Dạ Ngân, Nguyễn Quang Thân - Hai mươi năm tình yêu và tác phẩm (in chung với Nguyễn Quang Thân). 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu chính sau đây: - Phương pháp thống kê, phân loại - Phương pháp phân tích tổng hợp 16 - Phương pháp so sánh, đối chiếu. 6. Cấu trúc của luận văn Chương 1: Văn xuôi nữ Việt Nam đương đại và quá trình sáng tác của Dạ Ngân Chương 2: Nghệ thuật xây dựng nhân vật và cốt truyện trong truyện của Dạ Ngân Chương 3: Một số thủ pháp nghệ thuật trong truyện của Dạ Ngân . 17 NỘI DUNG CHƢƠNG 1 VĂN XUÔI NỮ VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI VÀ QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC CỦA DẠ NGÂN. 1. 1. Văn xuôi nữ Việt Nam đƣơng đại. 1.1.1 Bối cảnh xã hội sau đổi mới Sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, một kỷ nguyên mới đã mở ra cho dân tộc. Từ đây, một nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc trở thành động lực, mục tiêu định hướng cho mọi sự phát triển trong đó có sự phát triển của văn học. Khi cuộc chiến tranh vừa kết thúc, thì sức mãnh liệt về chiến công tạm lắng xuống và thực trạng của đất nước sau chiến tranh với tất cả những đổ nát, ngổn ngang, bộn bề, nhức nhối đã xuất hiện, đòi hỏi một sự nhận thức, sự đối mặt với những vấn đề phức tạp đang diễn ra. Suốt ba mươi năm tắm mình trong thực tiễn chiến tranh, dường như nhà văn chưa có điều kiện, chưa có thì giờ để nghiền ngẫm suy tư, để quan sát hiện thực từ nhiều phía. Khi chiến tranh đã lùi lại phía sau, họ mới tìm được một khoảng cách thích hợp để ngắm nghía, nghĩ suy và nhận diện nó trong tính tổng thể toàn vẹn và tính nhiều mặt của sự kiện. Những gì trong chiến tranh chưa bộc lộ, chưa được nhận thức, chưa tiện nói ra thì nay đã phơi bày trước mắt. Trong niềm vui sum họp Bắc Nam, sum họp gia đình, dòng họ, quê hương có cả những nỗi buồn do hi sinh mất mát. Trong cái được lớn của đất nước, non sông, có cái mất của mỗi con người, mỗi gia đình… Với cái nhìn đạo đức thế sự, thực tại chiến tranh đã bước đầu được lí giải bổ sung, lý giải theo tinh thần phân tích sâu sắc. Tuy thái độ thận trọng và những chiêm nghiệm sâu lắng của các nhà văn trong thời kỳ này có làm cho văn học chững lại, thiếu đi cái khí 18 thế của thời ra trận nhưng hình như đó lại là khoảng lặng cần thiết sau chiến tranh để chuẩn bị cho sự ra đời của những tác phẩm chứa đựng những quan điểm mới, cái nhìn mới về hiện thực. Hoà bình lập lại, những quy luật của đời sống chiến tranh tỏ ra không còn hiệu lực. Một quy luật khác đã hình thành và chi phối tiến trình lịch sử. Nhưng sự thay đổi đó không diễn ra một cách mau lẹ, chóng vánh, mà có khi còn kín đáo, âm thầm. Cho nên việc nhận thức nó cũng không phải là việc một sớm một chiều, không ít những quán tính, những kinh nghiệm đã trở nên lỗi thời, không phù hợp, thậm chí còn cản trở sự phát triển của xã hội đã không được nhận thức. Tiêu biểu là việc duy trì cơ chế điều hành xã hội theo kiểu hành chính, tập trung quan liêu bao cấp, gia đình trị, vấn đề họ tộc … kéo dài gần 10 năm. Với cơ chế này lực lượng sản xuất bị kìm hãm nặng nề, kinh tế hàng hoá chậm phát triển, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn, cơ sở kỹ thuật hạ tầng không được xây dựng, những vấn đề chính trị, xã hội hậu chiến không tìm được hướng giải quyết thoả đáng. Mặt khác, trên lĩnh vực đạo đức tinh thần của xã hội, những vấn đề nhức nhối do hậu quả của chiến tranh không những không được giải quyết mà còn bùng lên ở những bình diện khác nhau. “Cái nông thôn hợp tác xã hoà thuận và yên bình tất cả cho tuyền tuyến ngày nào giờ đã bộc lộ những bê bối, lủng củng, thậm chí rệu rã trước những cố gắng ràng buộc, trước sự kìm hãm của những chính sách lỗi thời không còn đáp ứng được đòi hỏi của quy luật vận động và phát triển. Bên cạnh sự nỗ lực của ý chí, một thực tại khác đã nhen nhóm và hình thành. Đây chính là mầm mống đầu tiên, là cơ sở để đất nước thức tỉnh tư duy sau những nỗ lực sai lầm” (Phan Trọng Thưởng - TCVH - số 102003.). Chưa bao giờ kịch tính của sự phát triển lại thu hút sự quan tâm của toàn xã hội như thời kỳ này. Nhiều mâu thuẫn tiềm ẩn trong cuộc sống và trong quá trình sản xuất đã đến lúc chín muồi, đòi phải được bộ lộ và giải quyết. Vấn đề quan hệ của người nông dân với ruộng đất, hay vấn đề quyền 19 lợi cá nhân, họ tộc … Ý thức về gia đình, dòng họ, quyền hành là những thí dụ. Mới nghe tưởng là vấn đề nhỏ nhưng thực chất nó là vấn đề trung tâm tác động đến cơ chế quản lý xã hội, đến đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Nhiều người nhận xét rằng đây là thời kỳ của những mâu thuẫn, xung đột không chỉ bề ngoài mà cả bên trong nội dung của mỗi hiện tượng, mỗi vấn đề. Hơn nữa, đời sống xã hội từ khi chuyển qua cơ chế thị trường càng trở nên phức tạp và căng thẳng “hằng ngày, hằng giờ diễn ra cuộc đối chứng giữa hai mặt nhân cách và phi nhân cách, giữa cái hoàn thiện và chưa hoàn thiện, giữa ánh sáng và bóng tối vẫn còn rơi rớt bên trong tâm hồn mỗi con người miếng đất nương nấu và gieo mầm nhiều lỗi lầm và tội ác” (Nguyễn Minh Châu “Bến quê” Nxb Tác phẩm mới - HN 1985 tr144). “Cái nhất thời trong cái muôn đời, cái độc ác nằm ở giữa cái nhân hậu, cái cực đoan nằm giữa cái tinh thần xởi lởi, cởi mở; cái nhảy cẫng lên lấc láo giữa cái dung dị, thái độ bình thản chịu đựng và tinh thần trách nhiệm đầy suy nghĩ “ (Nguyễn Minh Châu “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn học minh hoạ”. Văn nghệ số ra ngày 5-12-1987). Đây cũng là vấn đề ý thức, quan niệm của nhiều nhà văn trong cao trào đổi mới văn học. Ý thức này trở thành tình cảm, hứng thú, thúc giục họ cầm bút viết thêm những tấn bi kịch của con người, kiếp người, đặc biệt là con đường đi tìm hạnh phúc cá nhân của những người phụ nữ trong cuộc sống bộn bề hôm nay. Người phụ nữ đời nào cũng vậy, là tặng phẩm tuyệt diệu của tạo hóa. Nhưng sự phản ánh họ trong văn học qua cái nhìn nghệ thuật của nhà văn thì mỗi thời mỗi khác. Trong một giai đoạn mà cảm hứng công dân chi phối hoạt động sáng tác, người phụ nữ trong văn học Cách mạng Việt Nam 1945-1975 ít được nhìn nhận ở những đặc trưng giới tính. Họ thường mang trong mình một phẩm chất chung xác định giá trị con người là lòng yêu nước, ý chí chiến đấu, thành tích cống hiến cho tập thể. Họ được ca ngợi là những người “giỏi 20 việc nước đảm việc nhà”. Trong xu hướng tìm lại con người ở những đặc trưng bản thể và khát khao trần thế, các nhà văn thời kỳ đổi mới nhìn nhận người phụ nữ nghiêng về những gì thuộc về thiên tính, thiên chức của họ. Văn học đổi mới không còn nhiều những phụ nữ sắt đá, kiên cường nữa mà thay vào đó là những con người yếu đuối, nhẹ dạ cả tin, đa cảm, đa đoan... Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta được gặp gỡ đủ loại phụ nữ trong truyện của các nhà văn nữ. Bằng kinh nghiệm bản thân, các nhà văn này thoải mái phô bày đời sống của người phụ nữ ở tầng sâu bản thể. Họ đem đến cho văn học những trải nghiệm mới, những hiểu biết mới về người phụ nữ. Họ cho ta cảm nhận về người phụ nữ hiện đại, những con người thật đa sự. Sự bất ổn trong nội tâm của họ là do “bản tính” của họ mà ra chứ không do ai khác gây ra. Viết văn đòi quyền lợi cho người phụ nữ hoặc phản ánh tình trạng mất bình quyền nam nữ cũng là mục đích sáng tác của nhiều cây bút nữ thời nay. Trong văn giới Việt Nam, chúng ta thường nghe câu nói "Văn là người". Chúng tôi không cho rằng nhà văn sống ngoài đời ra sao thì sống trong tác phẩm cũng như thế. Văn không phải là tấm gương phản chiếu thành thật con người tác giả. Tuy nhiên, để hiểu sâu sắc tác phẩm của nhà văn thì một việc nhất thiết phải làm là tìm hiểu quan niệm của nhà văn về đối tượng thẩm mĩ mà họ hướng đến. Phải thấy rằng, những nhà văn nữ sau đổi mới trước hết họ cũng là những người phụ nữ hiện đại. Họ có một nghề nghiệp với những va chạm phức tạp. Họ có một gia đình với những mối quan hệ bề bộn như nhà văn Võ Thị Hảo, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ... Mỗi người có một câu chuyện, mỗi người là một dòng sông, nó chảy từ nguồn ra tới biển. Dòng sông là thứ chúng ta không thể cắt khúc, rồi xóa đi khúc này khúc nọ được, nó cần có sự liên tục. Trò chuyện với các nhà văn, lĩnh hội ý kiến của họ cũng như soi bóng mình xuống dòng sông tư tưởng của họ. Có thể dòng sông này hiền hòa, êm ả, dòng sông kia nhiều ghềnh thác
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan