Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Nghệ thuật sử dụng thành ngữ trong tác phẩm của vương hồng sển...

Tài liệu Nghệ thuật sử dụng thành ngữ trong tác phẩm của vương hồng sển

.PDF
209
1
89

Mô tả:

UBND TỈNH BÌNH DƢƠNG TRƢỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT *********** VŨ THỊ VIỆT HÀ NGHỆ THUẬT SỬ DỤNG THÀNH NGỮ TRONG TÁC PHẨM CỦA VƢƠNG HỒNG SỂN CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 8220121 LUẬN VĂN THẠC SĨ BÌNH DƢƠNG - 2018 UBND TỈNH BÌNH DƢƠNG TRƢỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT *********** VŨ THỊ VIỆT HÀ NGHỆ THUẬT SỬ DỤNG THÀNH NGỮ TRONG TÁC PHẨM CỦA VƢƠNG HỒNG SỂN CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 8220121 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. HOÀNG QUỐC BÌNH DƢƠNG - 2018 i LỜI CAM OAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân. Các số liệu, kết quả đƣợc trình bày trong luận văn là trung thực, chính xác và chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất kì công trình nghiên cứu nào trƣớc đây, nếu sai sót tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm. Bình Dương, tháng 10 năm 2018 Học viên Vũ Thị Việt Hà ii LỜI CẢM ƠN Đầu tiên, tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô giáo khoa Ngữ Văn – Trƣờng Đại học Thủ Dầu Một đã tận tình giảng dạy trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại trƣờng. Xin chân thành cảm ơn phòng Sau đại học, Thƣ viện đã tạo điều kiện giúp đỡ và cung cấp tài liệu cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Bằng tấm lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn thầy hƣớng dẫn khoa học PGS.TS. Hoàng Quốc, thầy đã dành nhiều thời gian hƣớng dẫn về chuyên môn, hỗ trợ tài liệu tham khảo, trong suốt quá trình nghiên cứu khoa học và thực hiện đề tài. Tôi đã hoàn thành luận văn với tất cả tâm huyết và niềm say mê, nhƣng tôi biết sẽ không tránh khỏi những sơ sót trong quá trình thực hiện. Vì thế tôi mong nhận đƣợc những lời góp ý, đánh giá từ quý thầy cô. Cuối cùng, tôi xin gửi lời tri ân tới gia đình, ngƣời thân, bạn bè và đồng nghiệp đã luôn khích lệ, giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian học tập và thực hiện luận văn này. Xin chân thành cảm ơn! Bình Dương, tháng 10 năm 2018 Học viên Vũ Thị Việt Hà iii MỤC LỤC Trang Lời cam đoan……………………………………………………………….....….i Lời cảm ơn…………………………………………………………………...…..ii MỞ ĐẦU………………………………….......…………………...……..………1 1. Lý do chọn đề tài……….…………………………………………..………….1 2. Lịch sử vấn đề …………………………………………….......………...…..…2 2.1. Lịch sử nghiên cứu thành ngữ………………………………………….……2 2.2. Lịch sử nghiên cứu tác phẩm của Vƣơng Hồng Sển………………….……..7 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu…………………………..………….….…..8 4. Phƣơng pháp nghiên cứu……………………………………….……….……..8 5. Đóng góp của luận văn.......................................................................................9 6. Cấu trúc của luận văn………………………………………...……………..…9 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI.............................10 1.1. Khái quát về thành ngữ...............................................................................10 1.1.1. Khái niệm thành ngữ................................................................................10 1.1.2. Phân biệt thành ngữ và tục ngữ...............................................................11 1.1.3. Nguồn gốc của thành ngữ........................................................................15 1.1.3.1. Thành ngữ hình thành từ lời ăn tiếng nói của nhân dân.....................15 1.1.3.2. Vay mƣợn thành ngữ gốc Hán.................................................................18 1.1.3.3. Thành ngữ hình thành từ văn chƣơng.................................................20 1.2. Vài nét về tác giả Vƣơng Hồng Sển…………………...………...…….....25 1.2.1. Cuộc đời………………………....…………...…….…..............…….….25 1.2.2. Sự nghiệp văn chƣơng của Vƣơng Hồng Sển……………….……......…26 1.2.3. Đánh giá chung về tác phẩm của Vƣơng Hồng Sển.................................27 iv 1.3. Tiểu kết chƣơng 1…………………………………...............……..….…30 Chƣơng 2: CÁCH VẬN DỤNG THÀNH NGỮ TRONG TÁC PHẨM CỦA VƢƠNG HỒNG SỂN…………….........................................……….………...32 2.1. Thống kê định lƣợng và tần số xuất hiện thành ngữ trong tác phẩm của Vƣơng Hồng Sển…………………………………...…...…………............ …..32 2.2. Cách vận dụng thành ngữ của Vƣơng Hồng Sển xét về phƣơng diện hình thái cấu trúc………..…………..............................……………...…....….36 2.2.1. Thành ngữ vận dụng nguyên dạng………………........…………...….…36 2.2.2. Thành ngữ vận dụng cải biến, sáng tạo…………………..........….…….41 2.2.2.1. Thành ngữ cải biến về mặt ngữ âm.....................................................42 2.2.2.2. Thành ngữ cải biến về mặt từ ngữ......................................................47 2.2.2.3. Thành ngữ liên kết.........………………………………………….…56 2.2.2.4. Sự sáng tạo trong cách dùng thành ngữ của Vƣơng Hồng Sển..........57 2.3. Cách vận dụng thành ngữ của Vƣơng Hồng Sển xét về phƣơng diện cấu tạo ngữ pháp………...........…………………….…..…………....…...……..59 2.3.1. Thành ngữ đối………………………………………….....…..…….….59 2.3.2. Thành ngữ so sánh…………………………………………......….……62 2.3.3. Thành ngữ thƣờng……………………………………………….…..….65 2.4. Tiểu kết chƣơng 2…………………………..…………………………..…67 Chƣơng 3: GIÁ TRỊ BIỂU ĐẠT CỦA THÀNH NGỮ TRONG TÁC PHẨM CỦA VƢƠNG HỒNG SỂN...................................................................….…...70 3.1. Thành ngữ với việc xây dựng hình tƣợng nhân vật………...………..…70 3.1.1. Thành ngữ miêu tả hoàn cảnh nhân vật……………………………..…..70 3.1.2. Thành ngữ miêu tả ngoại hình nhân vật…………………………...……74 3.1.3. Thành ngữ miêu tả tâm lý, tính cách nhân vật…………………...….…..77 3.1.4. Thành ngữ miêu tả hành động………………………….……………….79 v 3.3.5. Thành ngữ miêu tả trạng thái, tình cảm…………………….….......……81 3.2. Thành ngữ với việc phản ánh con ngƣời yêu thích thú phong lƣu.........85 3.2.1. Thành ngữ phản ánh thú chơi sách………………………………...……86 3.2.2. Thành ngữ phản ánh thú chơi cổ ngoạn……………………...…….....…89 3.2.3. Thành ngữ phản ánh thú chơi dân gian…………………...……...……...93 3.2.3.1. Thành ngữ nói về thú chơi cá……………………………...……..….93 3.2.3.2. Thành ngữ nói về thú chơi gà………………………….......…….......93 3.2.3.3. Thành ngữ nói về thú nuôi chim……………………………....…..…99 3.3. Thành ngữ phản ánh đời sống gia đình………………………...……....102 3.4. Thành ngữ miêu tả thiên nhiên................................................................109 3.5. Hiệu quả của việc sử dụng thành ngữ trong tác phẩm……..........…….113 3.5.1. Tạo tính hàm súc, ngắn gọn cho câu văn……………...…................….113 3.5.2. Tạo cho câu văn giàu hình ảnh…………………………………….…..116 3.6. Tiểu kết chƣơng 3………………………………………….......……...…119 KẾT LUẬN………………………………...………..………………..……….121 TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................124 PHỤ LỤC vi MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Trong xã hội con ngƣời muốn giao tiếp với nhau thì cần phải có ngôn ngữ. Ngôn ngữ chính là phƣơng tiện để trao đổi tƣ tƣởng, tình cảm, thái độ nhận thức giữa mọi thành viên trong xã hội. Cho nên, thông qua giao tiếp ngƣời ta có thể nhận ra đƣợc trình độ, vốn sống, năng lực ngôn ngữ của mỗi ngƣời. Trong lời nói hằng ngày, nhân dân thƣờng vận dụng tục ngữ, ca dao, thành ngữ để lời nói thêm bóng bẩy, hàm súc, hoặc muốn rút ngắn một vấn đề nào đó. Tuy nhiên, mỗi thành ngữ mà chúng ta sử dụng lại mang rất nhiều giá trị, vì đằng sau nó là những câu chuyện hoặc là những vấn đề đƣợc cha ông ta đúc kết và truyền dạy cho nhiều thế hệ. Vì vậy, trong đời sống để hiểu đƣợc giá trị, ý nghĩa của những câu thành ngữ thì sự vận dụng càng có ý nghĩa hơn. 1.2. Thành ngữ không chỉ đƣợc sử dụng trong lời nói hằng ngày, mà còn đƣợc vận dụng nhiều trong các tác phẩm văn chƣơng. Vì thành ngữ có kết cấu hết sức chặt chẽ nên vận dụng thành ngữ vào văn chƣơng một cách tinh tế là điều không đơn giản. Cách xử lí này tƣơng đối khó, bởi vì nó đòi hỏi tác giả phải có một khả năng cảm nhận hết sức tinh tế về nghĩa của thành ngữ, đồng thời phải là ngƣời có khả năng xử lí ngôn từ để có thể “ghép” những câu thành ngữ vốn là những từ ngữ “đúc sẵn theo khuôn mẫu” xen vào những lời nói nhân vật, hay lời kể mà không bị cứng nhắc, gƣợng ép. Trong quá trình sáng tác, tác giả vận dụng thành ngữ dƣới nhiều hình thức; không chỉ vận dụng nguyên dạng, mà còn vận dụng cải biến từ nội dung đến hình thức hoặc chỉ mƣợn ý để sáng tạo theo văn phong cũng nhƣ dụng ý của tác giả. Vì vậy, nghiên cứu thành ngữ trong văn chƣơng, chính là nghiên cứu tiếng Việt, tìm hiểu những nét đẹp, sự phong phú, đa dạng của ngôn ngữ tiếng Việt. 1.3. Vƣơng Hồng Sển là một nhà văn hóa, học giả, nhà sƣu tập đồ cổ nổi tiếng của thế kỷ XX. Ông đƣợc xem là ngƣời có hiểu biết sâu rộng về miền Nam, rất đƣợc kính trọng trong giới sử học, cũng nhƣ khảo cổ ở Việt Nam và có nhiều tác phẩm giá trị. Ngôn ngữ trong sáng tác của Vƣơng Hồng Sển rất chân chất, mộc mạc, giản dị và mang đậm ngôn ngữ của vùng đất Nam bộ. Đặc biệt, ông đã sử dụng thành ngữ là cái vốn của văn học dân gian vào tác phẩm của mình rất thành công và tạo nên đặc trƣng cho ngôn ngữ văn chƣơng của nhà văn. Phát 1 huy đƣợc điều đó, câu văn của Vƣơng Hồng Sển trở nên gọn gàng, hàm súc và giàu tính hình tƣợng. Thành ngữ đi vào tác phẩm Vƣơng Hồng Sển linh hoạt, uyển chuyển và biến hóa tài tình. Phong vị dân gian đƣợc hiện lên đậm đà kín đáo mà vẫn mang dấu ấn đặc sắc trong bút pháp tác giả. Trong tác phẩm của Vƣơng Hồng Sển, ngƣời đọc nhận thấy rằng, thành ngữ đƣợc tác giả sử dụng một cách tự nhiên, nhuần nhị tuôn theo mạch cảm xúc mặc dù có nhiều thành ngữ Hán Việt đƣợc sử dụng. Chẳng hạn nhƣ các thành ngữ: thâm căn cố đế, nhập gia tùy tục, bất đắc kì tử, tứ cố vô thân, tha phương cầu thực, lực bất tòng tâm, vạn sự như ý, nhất tự thiên kim, hữu danh vô thực, độc nhất vô nhị, thanh thiên bạch nhật, thâm sơn cùng cốc, thâm căn cố đế, tụ thiểu thành đa, vinh thân phì gia, .v.v… Cho nên, theo suy nghĩ của chúng tôi, việc nghiên cứu nghệ thuật sử dụng thành ngữ trong các tác phẩm của Vƣơng Hồng Sển là cần thiết và cũng là hƣớng nghiên cứu mới. Vì thế, chúng tôi chọn đề tài Nghệ thuật sử dụng thành ngữ trong tác phẩm của Vương Hồng Sển để làm luận văn thạc sĩ của mình. Trong nghiên cứu này, ngƣời viết mong muốn tìm hiểu sâu sắc hơn về nghệ thuật sử dụng thành ngữ trong tác phẩm văn chƣơng nói chung và trong một số tác phẩm văn chƣơng của Vƣơng Hồng Sển nói riêng. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Lịch sử nghiên cứu thành ngữ Thành ngữ là kho tàng tri thức, văn hóa, xã hội, lịch sử của cả một dân tộc. Vấn đề nghiên cứu nghệ thuật sử dụng thành ngữ trong tác phẩm văn chƣơng đã trở thành đề tài thu hút của các nhà nghiên cứu, học viên, sinh viên và cả những ngƣời yêu thích văn chƣơng. Tuy nhiên, tùy vào mục đích, điều kiện, sự quan tâm mà nhà nghiên cứu, xem xét và lý giải thành ngữ trên nhiều phƣơng diện khác nhau. Trong một số công trình nghiên cứu của Đái Xuân Ninh, Nguyễn Lực và Lƣơng Văn Đang, Hoàng Văn Hành, Nguyễn Văn Tu, Cù Đình Tú… đều đƣa ra những nhận xét xung quanh các vấn đề về thành ngữ nhƣ một bộ phận của từ vựng tiếng Việt. Nguyễn Văn Tu (1968, tr.147) khi nghiên cứu về Từ vựng học tiếng Việt hiện đại cho rằng: “Những thành ngữ là từ tố cố định mà các từ trong đó đã mất 2 tính độc lập đến một trình độ cao, kết hợp làm thành một khối vững chắc, hoàn chỉnh. Nghĩa của chúng không phải do nghĩa của từng thành tố (từ) tạo ra. Những thành ngữ này cũng có tính hình tượng hoặc cũng có thể không có. Nghĩa của chúng đã khác nghĩa của những từ nhưng cũng có thể cắt nghĩa nguyên do như từ nguyên học”. Mặt khác, Nguyễn Văn Tu (1968, tr.151-152) cũng cho thấy thành ngữ trong tiếng Việt phần lớn là những câu rút gọn: “Thành ngữ có thể trùng với những tục ngữ hoặc chỉ là một bộ phận của tục ngữ. Căn cứ vào kết cấu ngữ pháp của chúng, ông chia làm hai loại: câu đơn giản và câu phức tạp”. Cù Đình Tú (1994, tr.235) trong Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt đã xét đến vai trò của thành ngữ có thể tạo nên nhiều phong cách tiếng Việt nhƣ: phong cách ngôn ngữ văn chƣơng, phong cách khẩu ngữ và phong cách chính luận. Ông cũng đề cập đến sắc thái biểu cảm và sắc thái trừu tƣợng của thành ngữ tiếng Việt: “Sự biểu đạt bằng thành ngữ của tiếng ta là sự biểu đạt vừa sâu sắc, vừa hấp dẫn bởi vì thành ngữ dùng những hình ảnh biểu trưng”. Do đƣợc cấu tạo theo nguyên tắc tầng bậc nên thành ngữ bao giờ cũng có hai nghĩa: nghĩa đen và nghĩa bóng: “Cơ chế ngữ nghĩa này khiến cho khi được vận dụng, thành ngữ làm cho sự diễn đạt vừa mang tính hình tượng (do nghĩa đen gợi ra), vừa mang tính hàm súc (do nghĩa bóng chứa đựng)”(Cù Đình Tú 1994, tr.238). Tóm lại, trong tài liệu nghiên cứu này, Cù Đình Tú đề cao giá trị sử dụng của thành ngữ tiếng Việt. Đái Xuân Ninh (1978,tr.213) trong bài viết Hoạt động của từ tiếng Việt, ông đã đi sâu những điểm nổi bật của thành ngữ: Về ý nghĩa, thành ngữ thƣờng không thể giải thích đƣợc trên cơ sở những yếu tố tạo thành. Thành ngữ luôn gắn liền với điều kiện lịch sử của một xã hội, một tập đoàn ngƣời nhất định; Về hình thức, ông chia ra hai nhóm thành ngữ theo quan hệ cú pháp: quan hệ đối xứng và phi đối xứng. Bên cạnh đó, tác giả đã có sự phân biệt khá rạch ròi thành ngữ và tục ngữ: “Khác với tục ngữ có chức năng thông báo ấy, thành ngữ chỉ là tên gọi của sự vật, trạng thái hay hành động, đúng hơn là tên gọi của những khái niệm này…”. Nguyễn Lực và Lƣơng Văn Đang (2009, tr.21-22) khi nghiên cứu Thành ngữ tiếng Việt đã phân biệt tục ngữ và thành ngữ rất rõ ràng, bên cạnh đó còn chỉ ra mối liên hệ giữa hai loại hình này chủ yếu là xét về mặt nghĩa, mặt nhận thức 3 của con ngƣời. Hai tác giả đã phân biệt: “Nội dung của thành ngữ là những khái niệm, nội dung của tục ngữ là những phán đoán. Quan hệ giữa thành ngữ và tục ngữ là quan hệ giữa các hình thức khái niệm và phán đoán. Tục ngữ là một hiện tượng ý thức xã hội, phản ánh lối sống của thời đại, lối nghĩ của nhân dân, lối nói của dân tộc. Thành ngữ thuộc hiện tượng ngôn ngữ, là công cụ giao tiếp chung của cộng đồng dân tộc. Chính trong lối nghĩ, lối nói của nhân dân thường không thể nào tách rời hình thức biểu đạt của nó”. Tác giả Hoàng Văn Hành (2010, tr. 440) trong cuốn Tuyển tập ngôn ngữ học, khi tìm hiểu về cấu tạo thành ngữ, ông chia thành ngữ làm hai loại: Thành ngữ so sánh và thành ngữ ẩn dụ hoá. Sau đó, ông đƣa ra những nhận định về thành ngữ nhƣ sau: “Một là, nếu thừa nhận rằng đặc trưng bản chất của thành ngữ là những tổ hợp từ bền vững, có nghĩa bóng bẩy, thì sự phân loại và miêu tả thành ngữ dựa vào phương thức chuyển nghĩa của chúng là sự phân loại và miêu tả hợp lí. Hai là, mọi sự khó khăn và phức tạp trong sự nhận diện các đơn vị được gọi là thành ngữ, có thể có là do tính chất trung gian hay tính chất chuyển tiếp của chúng. Bởi lẽ thành ngữ là những đơn vị thuộc ngôn ngữ. Không phải vô cớ mà các nhà ngôn ngữ học coi thành ngữ là những đơn vị từ vựng hoá tức là những đơn vị vốn là những tổ hợp từ tự do trong lời nói đã được cố định hoá và đi vào vốn từ vựng như những đơn vị ổn định. Và cũng không phải là không có lí khi các nhà nghiên cứu Văn học dân gian xếp thành ngữ vào cái vốn của vốn văn hoá dân gian, bên cạnh tục ngữ, ngạn ngữ và ca dao v.v…”. Một số tác giả nghiên cứu chuyên sâu một bộ phận của thành ngữ trong tiếng Việt: Thành ngữ đối trong tiếng Việt - Bùi Khắc Việt, Thành ngữ so sánh trong tiếng Việt - Trƣơng Đông San, Về bản chất của thành ngữ so sánh trong tiếng Việt - Hoàng Văn Hành, Nhận diện thành ngữ gốc Hán trong tiếng Việt Nguyễn Thị Tân, Một vài đặc điểm ngôn ngữ của thành ngữ gốc Hán - Hoàng Quốc, Góp thêm suy nghĩ về thành ngữ Hán Việt - Hoàng Quốc... Bùi Khắc Việt (1984, tr.111) trong bài Thành ngữ đối trong tiếng Việt, có nêu: “Thành ngữ đối (như gần đất xa trời, đổi trắng thay đen...) chiếm một vị trí quan trọng trong kho thành ngữ tiếng Việt. Nghiên cứu hiện tượng này sẽ góp phần vào việc tìm hiểu đặc điểm của thành ngữ tiếng Việt, trên cơ sở đó, tìm hiểu 4 những vấn đề có liên quan đến việc chuẩn hóa, vay mượn và sử dụng thành ngữ”. Theo ông, thành ngữ đối là thành ngữ có cấu tạo hai vế đối nhau: đối về ngữ pháp, đối về ngữ nghĩa và đối về ngữ âm. Trong đó, đối về nghĩa là căn bản nhất. Đồng thời, trong bài viết này ông cũng nhấn mạnh: “Các thành ngữ dịch từ các ngôn ngữ khác, trong nhiều trường hợp phải theo sát quy tắc đối của thành ngữ tiếng Việt... Có trường hợp thành ngữ gốc Hán được thay đổi một vài yếu tố, thí dụ: cửu tử nhất sinh trở thành thập tử nhất sinh, an phận thủ kỷ trở thành an phận thủ thường”(Bùi Khắc Việt 1984, tr.117). Từ đó, ta có thể hiểu rằng, thành ngữ vay mƣợn từ tiếng nƣớc ngoài khi vào tiếng Việt phải chịu sự chi phối của ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa của tiếng Việt. Khi nghiên cứu chuyên sâu về thành ngữ, Hoàng Văn Hành (2003, tr.6) trong bài viết Thành ngữ ẩn dụ hóa phi đối xứng trong tiếng Việt có nhận định: “Cần nói ngay rằng sở dĩ chúng tôi gọi những thành ngữ đang xét là thành ngữ ẩn dụ hóa phi đối xứng là vì hai lẽ: một là, về mặt cấu trúc, chúng không có tính đối xứng, do được cấu tạo giống hệt như những kết cấu ngữ pháp bình thường (nên còn được gọi là những thành ngữ thường); hai là, chúng được tạo nghĩa chủ yếu bằng con đường ẩn dụ hóa. Đó là hai đặc điểm nổi bật, khiến chúng khác biệt với thành ngữ so sánh và thành ngữ ẩn dụ hóa đối xứng”. Trong bài viết này, ông còn đi vào tìm hiểu về kết cấu và phƣơng thức cấu tạo của thành ngữ ẩn dụ hóa phi đối xứng. Bên cạnh đó, còn có những công trình nghiên cứu từng bình diện của thành ngữ, cụ thể nhƣ: nghiên cứu về hình thái, cấu trúc, ngữ nghĩa, màu sắc tu từ, văn hóa của thành ngữ... qua những bài viết: Về cấu trúc giao chéo trong một số thành ngữ tiếng Việt - Nguyễn Hạnh, Bước đầu khảo sát mối quan hệ giữa ẩn dụ và cấu trúc hình thức của thành ngữ - Trần Thị Hồng Hạnh, Đặc trưng tư duy của người Việt qua ẩn dụ tri nhận trong thành ngữ - Nguyễn Đức Tồn, Văn hóa thể hiện qua hình ảnh thế giới tự nhiên trong thành ngữ tiếng Hán và tiếng Việt Phạm Minh Tiến,... Cũng bàn về cấu trúc của thành ngữ, Trần Thị Hồng Hạnh (2008, tr.62) lại đi vào khảo sát mối quan hệ giữa ẩn dụ và cấu trúc hình thức của thành ngữ. Theo Trần Thị Hồng Hạnh thì: “Trong thành ngữ, trật tự giữa các yếu tố có khi không tuân theo trật tự ngữ pháp tiếng Việt thông thường, khi đó vai trò của từ 5 loại hay tính đánh dấu về mặt cú pháp có thể có những khác biệt so với các phát ngôn thông thường nhưng vẫn có thể coi là những kết cấu, trật tự bình thường”. Trong bài viết Về cấu trúc giao chéo trong một số thành ngữ tiếng Việt Nguyễn Hạnh (2008, tr.23) cho rằng thành ngữ truyền khẩu trong dân gian có thể chia làm hai loại cấu trúc: cấu trúc đối ngẫu và cấu trúc giao chéo. Cấu trúc giao chéo thoạt nghe có vẻ lạ tai, thiếu logic nhƣng thực ra chúng ta vẫn rất hay dùng trong nói năng và viết lách từ xƣa đến nay. Ông cũng khẳng định đây là đặc điểm riêng của ngôn ngữ bình dân: “Vấn đề ở đây là chúng ta phải hiểu hết cái hay, cái đẹp của loại ngôn ngữ này để đánh giá toàn diện về tiếng nói của một dân tộc. Không nên vội vàng bác bỏ qui luật tự thân của nó”. Về văn hóa thể hiện qua thành ngữ, đây là vấn đề thú vị và có ý nghĩa nên rất đƣợc quan tâm nghiên cứu. Phạm Minh Tiến có những bài nghiên cứu về văn hóa nhƣ: Văn hóa thể hiện qua hình ảnh thế giới tự nhiên trong thành ngữ tiếng Hán và tiếng Việt; Văn hóa thể hiện qua hình ảnh tôn giáo và con người trong thành ngữ so sánh tiếng Hán và tiếng Việt. Trong hai bài nghiên cứu này, Phạm Minh Tiến đi vào khai thác những điều khác biệt về tự nhiên, tôn giáo và con ngƣời giữa hai quốc gia Việt Nam và Trung Quốc đƣợc ghi nhận qua thành ngữ. Ông cho rằng sự khác biệt ấy có đƣợc là do sự khác nhau về điều kiện địa lý, lối sống, tƣ tƣởng của ngƣời Việt và ngƣời Trung Hoa. Thành ngữ còn xuất hiện với tần suất cao trong tác phẩm văn học nên có rất nhiều bài viết về thành ngữ nhƣ: Thành ngữ và tục ngữ trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương - Thanh Hòa, Thành ngữ gốc Hán trong văn bản văn học trung đại Việt Nam ở trường phổ thông trung học - luận văn thạc sĩ của Võ Xuân Trang, Tìm hiểu thành ngữ trong tác phẩm của Ngô Tất Tố - Lê Thị Diễm, Tìm hiểu nghệ thuật sử dụng thành ngữ, tục ngữ của Hồ Chí Minh - Trần Thị Xuân Đào, Đặc trưng cấu trúc và ngữ nghĩa của thành ngữ trong ca dao - Nguyễn Việt Hùng, ... Đặc biệt, luận văn Đại học của Lê Thị Nhân (2009), Trƣờng Đại học Cần Thơ với đề tài “Thành ngữ trong tác phẩm của Hồ Biểu Chánh”, chuyên nghành Văn học Việt Nam. Ở đề tài này tác giả đã khảo sát, phân loại thành ngữ trong một vài tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, từ đó chỉ ra mục đích và cách vận dụng thành ngữ của Hồ Biểu Chánh trong sáng tác văn chƣơng. 6 Bên cạnh đó, chúng ta còn phải kể đến các công trình, các bài báo khác nhƣ: Lê Dân (2001), “Sự biến dạng của thành ngữ”, Tạp chí Ngôn Ngữ và Đời Sống, số (6); Lê Thị Ngọc Diệp (2009), “Nhận xét về thành ngữ trong sách giáo khoa tiếng Việt bậc tiểu học”, Tạp chí Ngôn Ngữ, số (12); Ngô Thị Thu Hƣơng (2012), “Tìm hiểu cách sáng tạo và sử dụng cụm từ mang tính thành ngữ mới trên báo chí”, Tạp chí Ngôn Ngữ và Đời Sống, số (4); Nguyễn Văn Mệnh (1986), “Vài suy nghĩ góp phần xác định khái niệm thành ngữ tiếng Việt”, tạp chí Ngôn ngữ, số(3); Phan Xuân Thành (1990), “Tính biểu trƣng của thành ngữ tiếng Việt”, Tạp chí Văn hoá dân gian, số (3); Phan Xuân Thành (1992), “Để luận giải thành ngữ với tƣ cách là một đơn vị ngôn ngữ”, Tạp chí Văn hoá dân gian, số (1); Phan Xuân Thành (1993), “Cơ sở hình thành và biến đổi của thành ngữ tiếng Việt”, Tạp chí Văn hoá dân gian, số (1),… Nhìn chung, nghiên cứu về thành ngữ tiếng Việt nói chung và thành ngữ đƣợc sử dụng trong tác phẩm thơ văn nói riêng đã đƣợc các nhà nghiên cứu nghiên cứu quan tâm ở các bình diện khác nhau. Những kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trƣớc rất có giá trị, đáng trân trọng và rất hữu ích cho ngƣời thực hiện nghiên cứu đề tài này. 2.2. Lịch sử nghiên cứu tác phẩm của Vƣơng Hồng Sển Nói đến Vƣơng Hồng Sển là tác giả có nhiều đầu sách có giá trị nhƣng việc tìm hiểu, nghiên cứu về ông lại rất khiêm tốn. Các công trình nghiên cứu về ông chỉ mới dừng lại ở việc xem xét, đánh giá ông với tƣ cách là một nhà văn hóa, sƣu tầm đồ cổ, chứ chƣa đi sâu vào tác phẩm của ông với các giá trị văn học. Bản thân ngƣời viết mới cập nhật, đọc đƣợc một luận văn thạc sĩ của Phạm Sinh (2016), Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội với đề tài “Tạp bút Vương Hồng Sển dưới góc nhìn văn hóa”, chuyên ngành Văn học Việt Nam. Ở đề tài này, ngƣời viết dựa vào các phạm trù văn hóa để hiểu hơn mối quan hệ giữa văn hóa và văn học, đi sâu vào tạp bút của Vƣơng Hồng Sển để chỉ ra các yếu tố văn hóa chứa đựng trong tác phẩm cũng nhƣ cách thể hiện các giá trị văn hóa đó trong thể loại tạp bút của nhà văn. Qua đó, khẳng định phong cách, giá trị nhân văn, vị trí và vai trò của Vƣơng Hồng Sển trong nền Văn học Việt Nam và nhất là những đóng góp của ông cho nền văn hóa dân tộc. 7 Tóm lại, các bài viết và các công trình nghiên cứu chỉ nói về những đóng góp giá trị văn hóa của Vƣơng Hồng Sển và chƣa có công trình nào đề cập đến cách sử dụng thành ngữ trong các tác phẩm của Vƣơng Hồng Sển. Đó chính là lí do để chúng tôi chọn đề tài: Nghệ thuật sử dụng thành ngữ trong tác phẩm của Vương Hồng Sển để nghiên cứu. Qua đề tài này, chúng tôi còn tìm hiểu cách vận dụng thành ngữ, cũng nhƣ giá trị thành ngữ trong các tác phẩm của Vƣơng Hồng Sển. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu là các thành ngữ trong một số tác phẩm của Vƣơng Hồng Sển. Luận văn tập trung khảo sát, nghiên cứu nghệ thuật sử dụng thành ngữ trong một số tác phẩm của Vƣơng Hồng Sển nhƣ sau: - Dỡ mắm (2016) - Hơn nửa đời hƣ (1997) - Phong lƣu cũ mới (1970) - Tạp bút năm Qúy Dậu 1993 (2012) - Tạp bút năm Nhâm Thân 1992 (2014) - Tạp bút năm Giáp Tuất 1994 (2014) 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Xuất phát từ mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu, chúng tôi vận dụng nhiều phƣơng pháp nghiên cứu nhƣng chủ yếu ở một số phƣơng pháp chính nhƣ sau: Tiếp cận lý thuyết: ngƣời viết sẽ tiến hành tổng hợp nhiều nguồn tƣ liệu liên quan đến đề tài nhƣ sách, tạp chí, luận văn, để đảm bảo công việc nghiên cứu đƣợc xác đáng và khách quan. Phƣơng pháp thống kê, phân loại: phƣơng pháp này, để phân biệt các kiểu vận dụng một cách hệ thống, bên cạnh đó dùng phƣơng pháp này để phân loại kết quả khảo sát thành ngữ của Vƣơng Hồng Sển. Đồng thời, ngƣời viết cũng thống kê tần số xuất hiện của những thành ngữ vừa tìm đƣợc. Phƣơng pháp so sánh đối chiếu: các phƣơng pháp phân tích so sánh sẽ đƣợc sử dụng để đối chiếu các kiểu vận dụng thành ngữ trong luận văn. Ngoài ra, 8 so sánh còn đƣợc chúng tôi sử dụng khi đƣa ra cái nhìn soi chiếu giữa việc vận dụng thành ngữ của Vƣơng Hồng Sển và một số tác giả khác. Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp: các phƣơng pháp này đƣợc tiến hành nhằm làm sáng tỏ những giá trị nội dung và nghệ thuật trong các tác phẩm do thành ngữ mang lại. Cuối cùng, với phƣơng pháp tổng hợp, ngƣời viết sẽ đúc kết lại những đóng góp của thành ngữ trong sáng tác của tác giả cho nền văn học dân tộc Việt Nam nói riêng, và nền văn hóa xã hội Việt Nam nói chung. 5. Đóng góp của luận văn Luận văn góp phần làm sáng tỏ những đặc trƣng về hình thức và nội dung ngữ nghĩa của các đơn vị thành ngữ tiếng Việt. Đồng thời, góp phần quan trọng trong việc xác định cƣơng vị, đặc điểm của các đơn vị khác nhau trong hệ thống từ vựng, bao gồm cả bản thân thành ngữ cũng nhƣ các đơn vị lân cận nhƣ từ ghép, quán ngữ, từ ngữ. Kết quả nghiên cứu cũng góp phần khẳng định thêm tầm quan trọng của thành ngữ trong việc hình thành nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm văn học nói chung và tác phẩm của Vƣơng Hồng Sển nói riêng. Đồng thời, kết quả nghiên cứu này còn giúp ngƣời đọc có cái nhìn đầy đủ hơn về phong cách của Vƣơng Hồng Sển cũng nhƣ giá trị nhân văn trong các sáng tác của ông. Kết quả nghiên cứu của luận văn cũng góp tƣ liệu cho việc giảng dạy, học tập tiếng Việt nói chung và thành ngữ nói riêng trong nhà trƣờng phổ thông cũng nhƣ trong đời sống xã hội. 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận văn gồm ba chƣơng: Chƣơng 1: Cơ sở lí luận liên quan đến đề tài Chƣơng 2: Cách vận dụng thành ngữ trong tác phẩm của Vƣơng Hồng Sển Chƣơng 3: Giá trị biểu đạt của thành ngữ trong tác phẩm của Vƣơng Hồng Sển 9 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. Khái quát về thành ngữ 1.1.1. Khái niệm thành ngữ Khái niệm về thành ngữ vẫn là vấn đề đƣợc quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Cho nên, giữa các nhà nghiên cứu không thống nhất ở các quan niệm là do bản thân đối tƣợng thành ngữ. Trong cuốn Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, của tác giả Nguyễn Nhƣ Ý (chủ biên) (1997, tr.271) định nghĩa: “Thành ngữ là cụm từ hay ngữ cố định, có tính nguyên khối về ngữ nghĩa, tạo thành một chỉnh thể định danh có ý nghĩa chung khác tổng số ý nghĩa của các thành tố cấu thành nó, tức là không có nghĩa đen và hoạt động như một từ riêng biệt ở trong câu”. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, của nhóm tác giả Lê Bá Hán và cs. (2009, tr.297) cho rằng:“Thành ngữ là cụm từ hay ngữ cố định, bền vững, có tính nguyên khối về ngữ nghĩa không nhằm diễn đạt trọn một ý, một nhận xét như tục ngữ, mà nhằm thể hiện một quan niệm dưới một hình thức sinh động, hàm súc”. Ngoài nhận định trên, theo Hoàng Văn Hành (2002, tr.27) thành ngữ là một hiện tƣợng phức tạp, là một đối tƣợng ngôn ngữ đa diện nên ông chỉ ra thành ngữ có các đặc điểm sau: Tính cố định về hình thái cấu trúc; Tính cố định và bóng bẩy về ý nghĩa. Từ đó, ông viết: “Thành ngữ là một loại tổ hợp cố định, bền vững về hình thái - cấu trúc, hoàn chỉnh, bóng bẩy về ý nghĩa, được sử dụng trong giao tiếp hàng ngày, đặc biệt là trong khẩu ngữ”. Ví dụ: mồm năm miệng mười không nói mồm mười miệng năm.” Bên cạnh đó, mỗi nhà nghiên cứu thƣờng xuất phát từ những tiêu chí, những bình diện khác nhau để nhìn nhận những thuộc tính cơ bản của thành ngữ. Chính vì vậy mà có những quan niệm khác nhau về thành ngữ. Diệp Quang Ban (2010, tr.458) viết: “Thành ngữ (fomulatic phrase) là một tổ hợp tương đối ít biến đổi trong thành phần cấu tạo, có tính chất của đơn vị trọn vẹn về nghĩa tương đương với cấu tạo của một từ có ý nghĩa từ vựng, như nước đổ lá khoai có nghĩa là “không có tác dụng”, trống đánh xuôi, kèn thổi ngược là “không thống nhất (với nhau) về ý nghĩ, hành động””. Ngoài ý kiến trên, theo Nguyễn Thiện Giáp (1996, tr.12) cho rằng: “Thành ngữ là những cụm từ cố định vừa có tính hoàn chỉnh về nghĩa, vừa có 10 tính gợi cảm”. Nhƣ vậy, tác giả cũng quan tâm đến mặt cấu tạo, ý nghĩa và cấp độ của thành ngữ. Hồ Lê (1976, tr.97) cũng đƣa ra quan niệm: “Thành ngữ là những tổ hợp từ (gồm nhiều từ hợp lại) có tính vững chắc về cấu tạo và tính bóng bẩy về ý nghĩa dùng để miêu tả một hình ảnh, một hình tượng, một tính cách hay một trạng thái nào đó”. Đái Xuân Ninh (1978, tr.212) trong Hoạt động từ Tiếng Việt khẳng định: “Thành ngữ là cụm từ cố định mà các yếu tố tạo thành đã mất tính độc lập ở cái mức độ nào đó, và kết hợp lại thành một khối tương đối vững chắc và hoàn chỉnh”. Cũng nhƣ các nhà nghiên cứu trên, thì Nguyễn Hữu Huỳnh (1994, tr.212) trong Tiếng Việt hiện đại đƣa ra quan niệm: “Thành ngữ là một cụm từ cố định có tính hoàn chỉnh về nghĩa, có sắc thái biểu cảm, có tính hình tượng và tính cụ thể. Phần lớn thành ngữ đồng nghĩa hoặc tương đương với một từ (danh từ, động từ, tính từ)”. Tóm lại, các nhà nghiên cứu đã trình bày những quan niệm của mình khi bàn về thành ngữ, họ đã cố gắng đƣa ra những khái niệm, những cách hiểu về thành ngữ dựa trên cơ sở phát hiện những đặc điểm thuộc tính của nó. Nhìn chung, các nhà nghiên cứu tuy có những ý kiến khác nhau nhƣng chúng ta có thể hiểu một cách chung nhất về thành ngữ nhƣ sau: Thành ngữ là cụm từ cố định, có kết cấu chặt chẽ, vần điệu, mang nghĩa biểu trưng và sử dụng tương đương với từ. 1.1.2. Phân biệt thành ngữ và tục ngữ Cho đến ngày nay, việc phân biệt thành ngữ và tục ngữ vẫn là vấn đề đang đƣợc quan tâm của các nhà nghiên cứu thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Để xác định rõ ranh giới giữa thành ngữ và tục ngữ là điều không hề đơn giản. Đầu thế kỷ XIX, các nhà nghiên cứu văn học đã cho ra đời nhiều công trình nghiên cứu thành ngữ, tục ngữ, trong đó có công trình nghiên cứu Nam phong ngữ ngạn thi của Ngô Đình Thái, Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn của Huỳnh Tịnh Của (1897), Tục ngữ cách ngôn của Hàn Thái Dƣơng (1920),... Ngoài các công trình nghiên cứu trên, Dƣơng Quảng Hàm vẫn là ngƣời tiêu biểu cho vấn đề này. Trong cuốn sách Việt Nam văn học sử yếu (1943), Dƣơng Quảng Hàm (1996, tr.15) cho rằng: 11 “Một câu tục ngữ tự nó có ý nghĩa đầy đủ, hoặc khuyên răn hoặc chỉ bảo điều gì. Còn thành ngữ chỉ là lời nói có sẵn để ta tiện dùng mà diễn đạt một ý gì đó cho màu mè.”. Theo ông, thành ngữ chỉ là một phƣơng tiện để diễn đạt ý tƣởng của ngƣời nói chứ không mang đầy đủ ý nghĩa nội dung nhƣ tục ngữ. Có một số nhà nghiên cứu văn học dân gian có cùng quan điểm với Vũ Ngọc Phan (1994, tr.38) trong Tục ngữ, ca dao dân ca Việt Nam (1978), cũng đồng ý với nhận định trên, bên cạnh đó ông còn trình bày thêm quan điểm của mình: “Định nghĩa như vậy không rõ, vì nếu thế, tác dụng của thành ngữ cũng không khác gì tác dụng của tục ngữ. Muốn diễn đạt một ý hay tả một trạng thái nào cho có màu mè, người ta cũng thường sử dụng tục ngữ vì tục ngữ là những câu đúc kết kinh nghiệm của nhiều người nó có ý nghĩa vững chắc. Cần phải căn cứ vào nội dung mới có thể phân biệt được câu nào là thành ngữ và câu nào là tục ngữ”. Tác giả Vũ Ngọc Phan (1994, tr.36-37) còn đƣa ra ý kiến nhƣ sau: “Tục ngữ là một câu tự nó diễn đạt trọn vẹn một ý một nhận xét, một kinh nghiệm, một luân lí, một công lí, có khi là sự phê phán. Còn thành ngữ là một phần câu có sẵn, nó là một bộ phận của câu mà nhiều người quen dùng nhưng tự riêng nó không diễn đạt được một ý trọn vẹn. Về hình thức ngữ pháp, mỗi thành ngữ chỉ là một nhóm từ, chưa phải là một câu hoàn chỉnh, còn tục ngữ dù ngắn đến đâu cũng là một câu hoàn chỉnh”. Nhóm tác giả Lê Bá Hán và cs. (2009, tr.297) trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học cũng trình bày: “Thành ngữ là cụm từ hay ngữ cố định, bền vững có tính nguyên khối về ngữ nghĩa không nhằm diễn trọn một ý, một nhận xét như tục ngữ mà nhằm thể hiện một quan niệm dưới một hình thức sinh động, hàm súc. Ví dụ: đen như cột nhà cháy, đẹp như tiên, vui như mở cờ trong bụng, xấu như ma lem, vắng ngắt như chùa Bà Đanh… Ý nghĩa của thành ngữ không phải là tổng số nghĩa của các thành tố cấu thành nó tức là không có “nghĩa đen”. Thành ngữ hoạt động như một từ trong câu”. Bên cạnh đó, trong bài viết Về ranh giới giữa thành ngữ và tục ngữ đăng trên Tạp chí Ngôn ngữ, số 3, Nguyễn Văn Mệnh (1972, tr.4) đã lƣu ý đến ranh giới giữa tục ngữ và thành ngữ. Trong bài viết, tác giả dựa vào nội dung và hình thức ngữ pháp để phân biệt hai khái niệm này. Ông cho rằng, về mặt nội dung: “Thành ngữ giới thiệu một hình ảnh, một hiện tượng, một trạng thái, một tính 12
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan