Nghệ thuật miêu tả chiến tranh qua trận xích bích trong “tam quốc diễn nghĩa” của la quán trung.docx
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
——————————
KHOA VĂN HỌC & NGÔN NGỮ
KHOÁ 2008-2012
******
ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN MÔN VĂN HỌC TRUNG QUỐC
NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ CHIẾN TRANH
QUA TRẬN XÍCH BÍCH TRONG “TAM
QUỐC DIỄN NGHĨA” CỦA LA QUÁN
TRUNG
Giảng viên hướng dẫn: T.S TRẦN LÊ HOA TRANH
Nhóm thực hiện:
BÙI THANH HÙNG
NGUYỄN LAN HƯƠNG
TRẦN THỊ HƯƠNG
VŨ THỊ GIÁNG HƯƠNG
NGUYỄN NHẬT AN KHÁNH
HUỲNH THỊ AN KHƯƠNG
NGUYỄN THỊ THANH LAM
LÊ THỊ LAN
VƯƠNG HOÀI LÂM
NGUYỄN THỊ LIÊN
THÁI THỊ MỸ LIÊN
0856010063
0856010064
0856010066
0856010067
0856010069
0856010071
0856010074
0856010075
0856010076
0856010077
0856010078
1
*********
Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 04 năm 2010
MỤC LỤC
Mục lục..............................................................................................................2
Dẫn luận........................................................................................................3
Chương 1: “Trận Xích Bích”-từ lịch sử đế văn học...................................5
1.1. Trận Xích Bích trong lịch sử Trung Quốc.................................................5
1.2. Trận Xích Bích trong Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung...........8
Chương 2: Kỹ thuật huấn luyện, diễn tập quân đội...................................12
2.1. Kỹ thuật bố trí đội hình quân sự................................................................12
2.2. Phương pháp luyện tập thủy chiến.............................................................15
Chương 3: Các chiến lược, sách lược quân sự............................................17
3.1. Ngoại giao..................................................................................................17
3.2. Tâm lý.........................................................................................................19
3.3. Gián điệp ....................................................................................................22
3.4. Hỏa công.....................................................................................................23
3.5. Bại chiến.....................................................................................................24
Chương 4: Vai trò của các nhân vật trong trận đánh................................26
4.1. Nhân vật Khổng Minh................................................................................26
4.2. Nhân vật Chu Du........................................................................................29
4.3. Nhân vật Tào Tháo ....................................................................................33
4.4. Các nhân vật khác.......................................................................................36
Chương 5: Ảnh hưởng của trận Xích Bích.................................................38
5.1. Trong thơ văn..............................................................................................38
5.2. Trong các lĩnh vực khác.............................................................................45
Chương 6: Kết luận......................................................................................47
Danh mục tài liệu tham khảo.......................................................................48
2
DẪN LUẬN
“TAM QUỐC DIỄN NGHĨA”
HÌNH TƯỢNG HÓA CỦA TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ
Trong lịch sử văn hóa Trung Quốc, cùng với Hồng Lâu Mộng, Thủy Hử, Tây
Du Ký, Tam Quốc Diễn Nghĩa là bốn bộ tiểu thuyết lớn mệnh danh là “ Kỳ thư”. Gọi
là “Kỳ thư” vì mỗi tiểu thuyết nêu trên đều là một bộ bách khoa toàn thư đề cập đến
nhiều vấn đề khác ngoài văn học nghệ thuật như chính trị, văn hóa,tôn giáo, xã hội…
Theo tác giả Phùng hoán Minh- Những mưu lược nổi tiếng trong Tam quốc,
NXB Công an Nhân dân, Tam Quốc Diễn Nghĩa nhìn tổng quan bao gồm bốn tầng
diện:
Một là tầng ngoài lịch sử, Tam Quốc Diễn Nghĩa thuộc thể loại tiều thuyết
giảng sử (cách phân loại của Lỗ Tấn) nội dung tai hiện lại bức tranh lịch sử giai đoạn
tam quốc phân chia trong lịch sử Trung Hoa.
Hai là tầng văn học, không thể bỏ qua giá trị văn chương quan trọng của tác
phẩm này đã đóng góp lớn cho nền văn học Trung Quốc nói riêng cũng như văn học
thế giới nói chung.
Ba là tầng văn hóa hẹp, trong các hình tượng nhân vật của Tam Quốc Diễn
Nghĩa, có chứa đựng ý thức dân tộc rõ ràng và đăc trưng chủ yếu của người Trung
Hoa.
Bốn là tầng sâu triết học, trong Tam Quốc Diễn Nghĩa tác giả đã đư ra những
mưu lược và phương pháp xử thế giàu tính trí tuệ của các nhân vật.
Trong tầng diện thứ tư nêu trên, Tam Quốc Diễn Nghĩa đã tập hợp những mưu
lược xoay quanh hạt nhân “Chính trị” là chủ yếu và dễ nhận biết nhất.
Cụ thể, Tam Quốc Diễn Nghĩa đã đề cập đến năm phương diện lớn trong lĩnh
vực chính trị:
Thể chế chính trị
Tư tưởng luân lý chính trị
Đấu tranh quyền lực chính trị
Đấu tranh quân sự
Đấu tranh ngoại giao
Trong đó về thể chế chính trị tác giả không nêu đơn thuần thể chế chính trị của
các tập đoàn quyền lực phong kiến, mà miêu tả hiện tượng phổ biến là sự suy thoái
trầm trọng trong tố chất người lãnh đạo, đồng thời vạch ra nhưng được mất trong các
phe phái chính trị.
Đề tài “Nghệ thuật miêu tả chiến tranh qua trận Xích Bích trong Tam Quốc
Diễn Nghĩa của La Quán Trung” lấy cơ sở hình tượng hóa triết học chính trị vì những
lý do sau đây:
Thứ nhất là mối quan hệ giữa chính trị và quân sự có tính gắn bó mật thiết, tác
động hữu cơ lẫn nhau.
3
Thứ hai, trận Xích Bích tuy miêu tả chiến tranh nhưng dung lượng nội dung
phác họa toàn cảnh trận chiến không nhiều và sắc nét, cái không khí hoành tráng sôi
động chưa phải là phông nền chủ đạo, là đỉnh điểm trong trận chiến. Mục tiêu quan
trọng mà tác giả đưa đến là toàn bộ những đấu tranh chính trị dẫn tới kết quả cuộc
chiến và thành bại của những phe phái, nhân vật.
Tóm lại, nghệ thuật miêu tả chiến tranh của La Quán Trung trong trận Xích
Bích là biểu hiện đỉnh cao của nghệ thuật chính trị- quân sự mà chúng ta cần khai
thác, tìm hiểu.
4
CHƯƠNG 1
“TRẬN XÍCH BÍCH”- TỪ LỊCH SỬ ĐẾN VĂN HỌC
1.1. Trận Xích Bích trong lịch sử Trung Quốc:
1.1.1. Vấn đề địa danh “ Xích Bích”:
Khu vực có khả năng xảy ra trận Xích Bích (khúc sông kéo dài từ Hoàng Châu
xuống thành phố Xích Bích)
Vị trí chính xác của trận Xích Bích đã gây tranh cãi cả trong công chúng và
giới học giả từ rất lâu nhưng chưa bao giờ đi đến được một kết luận cuối cùng, một
phần xuất phát từ việc Trường Giang đã thay đổi dòng chảy có từ thời nhà Tùy và nhà
Đường dẫn đến nhiều địa danh lịch sử không còn nằm ở vị trí cũ của nó.
Theo sử liệu thì bại quân của Tào Tháo rút về phía Bắc dọc theo Trường Giang,
chứng tỏ chắc chắn rằng địa điểm trận Xích Bích nằm ở đâu đó trên bờ Nam Trường
Giang. Cũng theo sử liệu thì liên quân Tôn-Lưu đã ngược dòng Trường Giang từ Phàn
Khẩu và Hán Khẩu (Trường Giang chảy xuôi ra Đông Hải theo hướng Đông) chứng tỏ
Xích Bích phải nằm ở phía Tây của Phàn Khẩu
1. Một địa điểm khác từng được coi là Xích Bích đó là núi Xích Bích ở Hoàng
Châu, đôi khi còn được gọi là "Xích Bích của Tô Đông Pha" hay "Văn Xích Bích". Cái
tên này xuất phát từ hai bài Xích Bích phú của Tô Thức làm vào thế kỷ 11.
2. Phổ Kì, hay thành phố Xích Bích ngày nay, vốn nằm đối diện với Ô Lâm,
được nhiều học giả cho là địa điểm có khả năng lớn gần với vị trí của Xích Bích, vì
vậy nó còn có tên khác là "Vũ Xích Bích". Tại đây có một vách đá trên đó có đề chữ
khẳng định vị trí trận đánh, các chữ này được cho là có niên đại khoảng giữa thời nhà
Đường và nhà Tống, tức là ít nhất đã có 1.000 năm tuổi.
3. Một giả thuyết khác cho rằng Xích Bích nằm ở bờ Nam Trường Giang, ở hạ
lưu của thành phố Xích Bích, dựa theo tác phẩm địa lý Thủy kinh chú xuất bản thời
nhà Thanh.
4. Một giả thuyết lại cho rằng Xích Bích là tên gọi phần lãnh địa thuộc bờ nam
Trường Giang, còn địa phận bờ bắc Trường Giang là Ô Lâm
5. Thành phố Vũ Hán (tại hợp lưu của Trường Giang và Hán Thủy) cũng được
coi là một khả năng cho Xích Bích. Theo giả thuyết này thì trận Xích Bích đã diễn ra
ngay ở phần hợp lưu.
1.1.2. Những ghi chép trong chính sử :
Trận Xích Bích là một trận đánh lớn vào cuối thời Đông Hán có tính chất quyết
định đến cục diện chia ba thời Tam Quốc. Trận đánh diễn ra vào mùa Đông năm Kiến
An thứ 13 ( tức năm 208) giữa liên quân Tôn Quyền-Lưu Bị với đội quân lấy danh
nghĩa triều đình của Tào Tháo.
Năm 208, Tào Tháo dẫn đại quân nam chiến. Trong khi đó Lưu Biểu đau ốm
còn quân đội Kinh Châu thì mệt mỏi sau những xung đột với lực luợng của Tôn
Quyền. Thêm vào đó là sự tranh giành quyền thừa kế của hai con trai Lưu Biểu là Lưu
5
Kì và Lưu Tông. Kết quả là Lưu Kì bị truất quyền thừa kế quyền kiểm soát Kinh Châu
thuộc về Lưu Tông
Tào Tháo lập tức chớp lấy cơ hội tấn công Kinh Châu. Lưu Tông đầu hàng
nhanh chóng và Tào Tháo kiểm soát được Giang Lăng, đồng thời tăng cuờng được
một lực luợng thủy quân mạnh và giàu kinh nghiệm chiến đấu ở Kinh Châu.
Lưu Bị một phải chạy xuống phía Nam cùng rất nhiều nạn dân Kinh Châu, lực
luợng này sớm bị đội quân tinh nhuệ của Tào Tháo đuổi kịp và đánh bại tại Truờng
Bản.
Lưu Bị cùng tàn quân rút về Hạ Khẩu và bắt liên lạc với sứ thần của Tôn
Quyền là Lỗ Túc. Theo một số sử liệu thì Lỗ Túc đã khuyên Lưu Bị rút quân xa hơn
về phía Đông tới Phàn Khẩu. Theo một thuyết khác thì Lưu Kì sau đó hợp quân với
Lưu Bị tại Giang Hạ còn quân sư của Lưu Bị là Gia Cát Luợng đuợc phái tới Sài Tang
để thuơng luợng với Tôn Quyền về một liên minh chống lại Tào Tháo.
Truớc khi liên minh Tôn – Lưu đuợc thành lập Tào Tháo đã gửi một bức thư
cho Tôn Quyền trong đó nói tới việc Tào Tháo đang thống lĩnh 80 vạn binh mã và đề
nghị Tôn Quyền đầu hàng. Triều thần Đông Ngô lúc này chia làm hai phe chủ hàng và
chủ chiến, phe chủ hàng do Trương Chiêu đứng đầu, phe chủ chiến do Chu Du, nguời
chỉ huy quân đội của Tôn Quyền, cùng Lỗ Túc, Gia Cát Luợng lại đề nghị Tôn lập
một liên minh chống Tào với Lưu Bị. Cuối cùng Tôn Quyền đã nghiêng về phe chủ
chiến, ông cử Chu Du, Trình Phổ cùng Lỗ Túc dẫn 30.000 binh mã ra mặt trận, liên
minh với Lưu Bị chống quân Tào.
Giai đoạn đụng độ ban đầu tại Xích Bích
Thủy quân Tôn-Lưu ngược dòng Trường Giang từ Hán Khẩu-Phàn
Khẩu tới Xích Bích, tại đây họ chạm trán với tiền quân của Tào Tháo. Vốn bị
hành hạ bởi bệnh dịch và sự suy giảm về tinh thần cũng như sức chiến đấu do
cuộc hành quân kéo dài từ Bắc xuống Nam, quân Tào không thể giành được lợi
thế trong những trận giao tranh nhỏ ban đầu và buộc phải lui về đóng quân ở Ô
Lâm.
Để giảm sự tròng trành của thuyền chiến ( làm quân Tào vốn không
quen với thủy chiến thường xuyên rơi vào trạng thái say sóng), Tào Tháo ra
lệnh dùng xích sắt nối nhiều thuyền lại với nhau.
Quan sát động thái này của Tào, tướng Hoàng Cái bên phía Đông Ngô
đã kiến nghị Chu Du dùng kế trá hàng và được Chu Du tán đồng. Việc gửi thư
trá hàng của Hoàng Cái lập tức được Tào Tháo tin theo. Việc trá hàng thuận lợi,
Hoàng Cái chuẩn bị một đội thuyền để bơi sang đánh úp vào thủy trại Tào.
Giai đoạn thủy chiến
Khi đội “hàng binh” của Hoàng Cái đến giữa sông thì các hỏa thuyền
bắt đầu được châm lửa và chúng theo gió Đông Nam lao thẳng vào hạm đội
của Tào. Trong điều kiện gió lớn và bị xích vào nhau, các thuyền chiến của Tào
6
Tháo nhanh chóng bắt lửa khiến một số lớn binh mã chết cháy trên thuyền
hoặc chết đuối dưới sông.
Giai đoạn tháo chạy của Tào Tháo về hướng Hoa Dung
Trong lúc quân Tào Tháo đang hoảng hốt thì liên quân Tôn-Lưu do Chu
Du dẫn đầu đã chiếm lĩnh trận địa và chia cắt lực lượng của Tào Tháo, buộc
ông ta phải ra lệnh rút lui sau khi phá hủy một số phần lớn thuyền chiến còn
lại. Tào Tháo cùng bại binh rút lui về phía đường cái Hoa Dung xuyên qua
vùng đầm lầy lớn phía Bắc hồ Động Đình. Trong điều kiện mưa nặng hạt khiến
đuờng rút lui càng trở nên lầy lội, Tào Tháo phải ra lệnh cho binh lính, kể cả
những nguời bị thuơng, vác theo các bó cỏ để lấp đuờng. Khó khăn cho quân
Tào càng trầm trọng khi Chu Du và Lưu Bị không ngừng đuổi theo họ cho tới
tận Nam Quận. Cuối cùng thiệt hại nặng nề khiến Tào Tháo phải bỏ miền Nam
rút về Nghiệp Quận, để lại Từ Hoảng và Tào Nhân giữ Giang Lăng, Nhạc Tiến
giữ Tuơng Duơng và Mãn Sủng giữ Đương Dương.
Sau trận Xích Bích, Tào Tháo không bao giờ còn hội đủ một đội thủy binh lớn
để tiêu diệt hai đối thủ ở phuơng Nam. Kết quả này của trận Xích Bích đã buớc đầu
định hình cho thế chân vạc thời Tam Quốc của ba nuớc Tào Ngụy – Thục Hán – Đông
Ngô và vì thế nó đuợc coi là trận đánh có ý nghĩa lớn trong lịch sử Trung Quốc.
1.2. “Trận Xích Bích” trong “Tam quốc diễn nghĩa” của La Quán Trung:
1.2.1. Vị trí trận đánh: Hồi 43- hồi 50 tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa- La
Quán Trung, cuối thời kỳ đầu đối kháng giữa Lưu Bị và Tào Tháo, mở đầu giai đoạn
tranh chấp vùng Kinh Châu giữa Tào Tháo, Tôn Quyền và Lưu Bị.
1.2.2. tóm tắt các sự kiện chính:
Hồi 43
Tào Tháo xua quân xuống phương nam, gửi hịch dụ hàng Đông Ngô.
Nội bộ tập đoàn Đông Ngô phân chia thành 2 phái chủ hòa – chủ chiến.
Đang lúc Tôn Quyền phân vân thì Lỗ Túc đưa Gia Cát Lượng đến Đông
Ngô.Tuy vấp phải sự phản đối của hàng ngũ mưu sĩ Đông Ngô nhưng cuối
cùng Khổng Minh cũng làm lay động được ý chí của Tôn Quyền.
Hồi 44
Theo lời di huấn của Quốc Thái,Tôn Quyền bèn trưng cầu ý kiến Chu
Du. Khổng Minh dùng kế khích tướng khiến Chu Du quyết tâm kháng
Tào.Thấy Khổng Minh túc trí đa mưu, Chu Du sai Gia Cát Cẩn thuyết phục
Khổng Minh nhưng không thành. Được lệnh của Tôn Quyền, Chu Du đem
5 vạn quân đến cửu sông Tam Giang đóng trại.
Hồi 45
Không chiêu mộ được Khổng Minh, Chu Du toan bày kế dụ Khổng
Minh đoạt lương Tào ở Tụ Thiết hòng ám haị y. Khổng Minh cao kế dùng
lời nói khích khiến Chu Du mắc mẹo phản đòn. Sau đó Chu Du toan mời
Lưu Bị sang Đông Ngô để loại trừ, may nhờ Quan Vũ theo hộ vệ nên sự
7
việc thất bại. Thoát kế hiểm của Chu Du, Lưu Bị từ biệt Khổng Minh về
Phàn Khẩu. Bấy giờ, Chu Du chém sứ giả, Tào Tháo đem quân đánh Chu
Du song thất bại. Tào Tháo bèn sai Sái Mạo, Trương Doãn lập thủy trại lớn
để luyện quân thủy. Sau lần Chu Du do thám, Tào tháo sai Tưởng Cán sang
dụ hang Chu Du. Chu Du mượn tay Tưởng Cán đưa thư hàng giả của Sái,
Trương khiến Tào Tháo mắc mưu chém tướng.
Hồi 46
Hay Khổng Minh biết mình dụng kế phản gián, Chu Du bèn buộc
Khổng Minh nộp 10 vạn tên để xử tội y theo quân luật. Đoán được sắp có
sương mù, Khổng Minh nhờ Lỗ Túc chuẩn bi thuyền cỏ sang thủy trại Tào
Tháo đánh động .Tào Tháo khôn ngoan bắn tên chi chít vào trên bó cỏ. Sau
đó Khổng Minh và Chu Du cùng đưa ra kế sách đánh hỏa công chống Tào.
Trong khi đó phía Tào, Tuân Du hiến kế đưa Sái Trung, Sái Hòa sang trá
hàng. Cả Chu Du lẫn Khổng Minh đều đoán được kế gian, nhưng Chu Du
vẫn thu chúng làm phản gián. Mặt khác Chu Du lại nhờ Hoàng Cái y kế khổ
nhục sang hàng Tào.
Hồi 47
Hoàng Cái ngỏ kế nhờ Hám Trạch gửi thư cho Tào Tháo. Tào Tháo gian
hùng không tin, Hám Trạch dùng lời ứng phó khiến Tào Tháo mắc kế. Dù
đắc ý nhưng Tào Tháo vẫn nghi ngại bèn sai Tưởng Cán sang thăm dò. Chu
Du giam lỏng Tưởng Cán, cố ý giúp Cán gặp Bàng Thống. Theo lời tiến cử
của Tưởng Cán, Bàng Thống gặp Tào Tháo hiến kế dùng xích sắt ghép
thuyền lại.
Hồi 48
Bàng Thống trở về, lại bị Từ Thứ vạch trần kế liên hoàn, ông giúp Từ
Thứ phao tin Bắc loạn để y lánh quân, giữ ải Tản Quan để tránh nạn sau
này. Về phần Tào Tháo sau khi được kế của Bàng Thống đâm ra tự mãn bày
tiệc rượu, ngâm thơ, lại chẳng nghe lời các mưu sĩ. Sau đó Tào Tháo điểm
quân tiến công, Chu Du nghênh chiến .Nhận thấy gió thổi ngược bơ Nam,
Chu Du tức đến thổ huyết.
Hồi 49
Chu Du thổ huyết, lâm bệnh ,Khổng Minh lại đề nghị chữa căn bệnh
“thiếu gió đông” của Chu Du bằng cách dựng đàn thất tinh để cầu gió. Ngày
22/11 gió đông nam nổi lên, Chu Du khiếp sợ Khổng Minh có tài bèn sai
Đinh Phụng, Từ Thịnh đến giết Khổng Minh. Khổng Minh đoán trước sự
tình đã dặn Lưu Bị cử Triệu Vân chờ ở sông đưa y về Hạ Khẩu. Khổng
Minh về Hạ Khẩu lại cắt cử các tướng chặn đường lui của Tào Tháo. Về
phần Chu Du, y cử Hoàng Cái lấy hỏa thuyền giả thuyền lương đến thẳng
núi Xích Bích. Thuyền được gió, bốc cháy lan ra thuyền bè bên Tào, quân
Tào thất bại.
8
Hồi 50
Thua trận ở Tam Giang, Xích Bích, Tào Tháo rút lui về đường Ô Lâm.
Chu Du bố trí Cam Minh, Lã Mông, Lãng Thống chặn Tào Tháo ở Ô Lâm.
Quân Tào từ Hợp Phì tiếp ứng cũng bị Tôn Quyền chặn đánh. Bị Lục Tích,
Thái Sử Từ đánh bừa vào, Tào Tháo phải chạy ra Di Lăng. Tại phía tây Ô
Lâm, Tào Tháo bị Triệu Vân đánh úp chạy về Nam Di Lăng, qua hang Hồ
Lô. Khổng Minh bố trí Trương Phi phục kích Tào tháo tại hang Hồ Lô, Tào
Tháo rút về hẻm Hoa Dung. Quan Vũ chờ sẵn ở đường Hoa Dung, Tào
Tháo lấy ân tình xưa xin Quan Vũ tha cho đường sống, rồi lại rút về Nam
Quận, hội quân với Tào Nhân, sau đó cử Tào Nhân trấn thủ Nam Quận, bản
thân rút về phương bắc.
9
CHƯƠNG 2
KỸ THUẬT HUẤN LUYỆN- DIỄN TẬP QUÂN ĐỘI
Kỹ thuật huấn luyện- diễn tập quân đội trong chiến tranh là điều kiện quan
trọng quyết định tài năng huấn luyện quân sự của người chủ tướng cũng như sự thắng
bại giữa các bên tham chiến.Là một tác phẩm kinh điển của thể loại tiểu thuyết giảng
sử, Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung đã phác họa lại một giai đoạn lịch sử đầy
những cuộc chiến khốc liệt, hào hùng. Trong đó, để phô diễn sinh động cái hồn của
thời đại trong tác phẩm, tác giả đã không ngừng tái hiện kỹ thuật diễn tập quân đội
trong quân sự qua nhiều nhân vật cũng như trong nhiều trận đánh.Chính kỹ thuật quân
sự tài tình này là hình thái đầu tiên và cũng là hình thái dễ nhận biết nhất trong thủ
pháp miêu tả chiến tranh của La Quán Trung.Là một cuộc chiến hoành tráng , là một
sự kiện trọng yếu ảnh hưởng mạnh mẽ đến nội bộ toàn bộ tác phẩm, trận Xích Bích
cũng không nằm ngoài nguyên tắc trên.Nhìn chung, kỹ thuật huấn luyện- diễn tập
quân đội trong trận Xích Bích biểu hiện cụ thể ở hai phương diện, đó là kỹ thuật bố
trí đội hình quân sự và phương pháp luyện tập thủy chiến.
2.1 Kỹ thuật bố trí đôi hình quân sự :
Theo thống kê của người viết từ hồi 43 đến hồi 50 của tiểu thuyết, tác giả La
Quán Trung có 7 lần miêu tả tường tận việc bố trí đội hình quân sự của ba nhân vật
chủ chốt: Chu Du, Tào Tháo và Khổng Minh.
Trong tổng số 7 lần bố trí nói trên nhân vật Chu Du đã trực tiếp thực hiện đến 5
lần phân phối nhân sự.
Lần thứ nhất, là lúc Tôn Quyền phong Chu Du làm đô đốc, Trình Phổ làm phó
đô đốc,Lỗ Túc làm tán quân hiệu úy .Ngay sau đó, Chu Du đã làm lễ truyền hịch dụ
tướng nhưng đồng thời phân bố quân lực ra cửa sông Tam Giang đóng quân
“…Hàn Đương, Hoàng Cái làm tiền bộ tiên phong; Tưởng Khâm, Chu Thái
làm đội thứ hai; Lạc Thống, Phan, Chương làm đội thứ ba; Thái Sử Từ, Lã Mông làm
đội thứ tư; Lục Tốn, Đổng Tập làm đội thứ năm; Lã Phạm; Chu Trị đi tuần phòng cả
bốn mặt, và đốc thúc quan quân thủy lục…”
Lần thứ hai, là khi sứ quan của Tào Tháo sang gửi thư sang Chu Du, Chu Du
đã chém sứ giả rồi gửi đầu cho Tào Tháo, rồi y đem quân đánh trận đầu với quân Tào.
“…Cam Ninh làm tiên phong, Hoàn Đương làm tả dực , Tưởng Khâm làm hữu
dực , Chu Du đi tiếp ứng…”
Lần thứ ba , là lúc Khổng Minh cầu được gió đông nam, “…Từ Thịnh đi đường
thủy, Đinh Phụng đi đường bộ, cùng đến cả đàn Thất Tinh ở núi Nam Bình…”để giết
Khổng Minh
Lần thứ tư,là lúc Chu Du cử các tướng chặn đường lui quân của Tào Tháo .
Cuối cùng là đoạn bước vào cuộc chiến thực sự ,Chu Du sai “…Hoàng Cái
chuẩn bị hỏa thuyền một mặt mang thư hẹn Tào Tháo đêm nay đến hàng; một mặt
điều bốn đội thuyền theo Hoàng Cái tiếp ứng . Đội nhất là Hoàn Đương , đội nhì là
Chu Thái , đội ba là Tưởng Khâm , đội tư là Trần Võ…Chu Du cùng với Trình Phổ
10
ngồi trên chiếc thuyền to đốc chiến ; Từ Thịnh, Đinh Phụng làm tả hữu hộ vệ. Còn Lỗ
Túc , Hám Trạch và bọn mưu sĩ ở nhà giữ trại …”
Thủ pháp tường thuật công tác bố trí quân vụ của Chu Du đã diễn tả được bản
lĩnh quân sự ở nhân vật này.Là tướng lĩnh được đánh giá cao trong tập đoàn Ngô Tôn,
Chu Du thật sự đã không ngừng phát huy năng lực của mình vào trận đánhlịch sử, có
liên quan đến mệnh hệ của tập đoàn Ngô Tôn, nâng vị trí của Chu Du thành nhân vật
trọng tâm của giai đoạn truyện. Bên cạnh đó, kỹ thuật bố trí đội hình quân sự của Chu
Du đã phần nào lột tả được tính cách, lập trường tư tưởng cũng như những thủ đoạn
chính trị mà La Quán Trung cố gắng khắc họa ở nhân vật.
Nói như trên, không có nghĩa là Chu Du tài năng hơn Tào Tháo. Tuy không thể
hiện toàn vẹn bản chất và tài năng thực của mình trong diễn biến truyện cũng như
không giành được thắng lợi cuối cùng, nhưng điều đó không khẳng định rằng kỹ thuật
điều quân khiển tướng của Tào Tháo là kém.Trong giai đoạn diễn biến trận đánh, tuy
Tào Tháo chỉ duy nhất một lần tổ chức điều khiển các tướng dưới quyề, đó chính là
lúc sau khi Tào Tháo uống rượu ngâm thơ.
“Quân thủy và quân bộ đều chia làm năm hiệu cờ. Quân thủy, tướng trung quân
cờ vàng là Mao Giới, Vu Cấm; tướng tiền quân cờ đỏ là Trương Cáp; tướng hậu quân
cờ đen là Lã Kiền; tướng tả quân cờ xanh là Văn Sính; tướng hữu quân cờ trắng là Lã
Thông. Quân mã bộ thì Từ Hoảng làm tướng tiền quân, cờ đỏ; Lý Điển làm tướng hậu
quân, cờ đen; Nhạc Tiến làm tướng tả quân, cờ xanh; Hạ hầu Uyên làm tướng hữu
quân, cờ trắng; Hạ Hầu Đôn, Tào Hồng thì tiếp ứng cả hai đường thủy lục; Hứa Chử,
Trương Liêu hộ vệ và đi lại đốc chiến.”
Nếu như La Quán Trung miêu tả công tác phân phối nhân lực của Chu Du như
một tướng lĩnh có dư tài năng quân sự, sự gan dạ, và cũng không thiếu cái ngông vốn
có của người trẻ tuổi, thì tác giả lại tinh tế diễn tả bản lĩnh,sự khôn ngoan,cẩn trọng
của một lão tướng nổi tiếng gian hùng.với ưu thế về số đông quân sự,Tào Tháo không
hề để phí phạm một quân một tốt nào trong công cuộc nam chinh của mình.Tào Tháo
phân chia cụ thể các toán quân,chỉ đạo rõ công việc chính cũng như chú thích cờ hiệu
của các tướng chỉ huy công việc bố trí công phu và tỉ mỉ như thế thì chỉ có những ai
đã thấm nhuần binh thư và các thủ pháp điều hành quân sự mới cò thể làm nên.
Nếu như công tác diễn tập của Chu Du và Tào Tháo là những diễn tập điển
hình cho kĩ thuật diễn tập quân đội phong kiến thì ở Gia Cát Lượng kĩ năng phân chia
nhiệm vụ cho các tướng lĩnh trong tập đoàn Lưu Bị sau khi trốn về Phàn Khẩu là tiêu
biểu cho cách đánh linh hoạt và hiện đai. Trong Tam quốc diễn nghĩa,tập đoàn Lưu Bị
đại diện cho chí hướng và nguyện vọng của nhân dân nên phương pháp đánh cũng rất
nhân dân.Trong khi Chu Du chặn đánh Tào Tháo ở các đường lộ lớn,thì Khổng Minh
lại bắt bí Tào Tháo trong những con đường tắt hẻm núi,hang động…Điều đó phản ánh
sâu sắc lối đánh du kích trong chiến tranh nhân dân.Điểu đó vừa bao hàm yếu tố
khách quan vì sự suy yếu lực lượng của tập đoàn Lưu Bị bấy giờ nhưng cũng là sự
11
chủ quan trong ý đồ tác giả muốn khắc họa bản chất nhân dân vào tập đoàn Lưu Bị mà
nhân dân ủng hộ.
2.2 Phương pháp luyện tập thủy chiến
“ Mặt bộ cầm quân tài Tử Kính,ra sông đánh thủy có Chu Du..” Tuy xét về mặt
luyện thủy Chu Du la nhân vật nổi bật ,nhưng trong miêu tả của La Quán Trung thì
hồi 43 đến hồi 50,phép luyện tập thủy chiến được dề cập chủ yếu bên phe Tào Tháo.
Đó là điều rất dễ hiểu,nhưng trong phân tích tương quan lực lượng giữa Ngô và
Tào,Chu Du đã chỉ ra nhược điểm lớn của phe Tào Tháo chính là quân bắc giỏi đánh
bộ mà đem thủy chiến .Vì lẽ đó mà khi binh Kinh Châu,Tào Tháo đã thu cả hai tướng
giỏi là Sái Mạo ,Trương Doãn dùng để luyện thủy quân và trong trận giao tranh đầu
tiên ,Sái ,Trương đã được cử đánh Chu Du.Sau thất bại đó Tào Tháo đã cắt cử 2 tướng
này lập thủy trại để luyện thủy : “ Suốt giải ven sông, lập ra một thủy trại cực to,
thuyền lớn đóng xung quanh phía ngoài, thuyền nhỏ ở trong. Chia ra làm hai mươi
cửa, có đường đi lối lại nối liền, đèn đuốc sáng rực trời; doanh trại trên cạn dài hơn ba
trăm dặm, khói, lửa nghi ngút.”
Khí thế của thủy trại còn sôi nổi đến độ Chu Du phải tìm cách hại hai tướng
Sái, Trương. Không chỉ Chu Du, mức độ tuyệt diệu của thủy trại này làm cho Bàng
Thống phải thán phục.
“Những trại này tựa vào sườn núi, men rừng, trước sau liên hệ với nhau, ra vào
có cửa, lui tới có đường, … ở mé nam chia làm hai mươi bốn cửa, thuyền lớn bao bọc
phía ngoài như một bức thành: Giữa là những thuyền nhỏ, lối ra vào thật phân
minh…”
Thủy quân đã tinh nhuệ ,tinh thần tác chiến trên sông nước của Tào càng
cao.Khi sương mù lên,lại nghe tiếng hò reo của phía Khổng Minh,Tào Tháo đã tỉnh
táo suy luận “sương mù dày đặc ,quân giặc kéo đến thất thần tất có mai phục,không
nên khinh động”.
Đáng nói vì trình độ luyện thủy còn có Bàng Thống..
“…Người phương bắc không quen ngồi thuyền bị sóng đánh nghiêng ngả mới
sinh ra bệnh. Nếu đem thuyền lớn nhỏ, ghép lại thành từng cụm độ ba chục chiếc hoặc
năm chục chiếc, đầu đuôi dùng xích sắt ghép liền với nhau, trên thuyền lát ván phẳng
phiu, như thế chẳng những người đi lại dễ dàng, mà đến ngựa chạy cũng được. Nên
làm ngay lúc này đi, thì còn lo chi thủy triều và sóng gió nữa”
Tuy đóng góp của Bàng Thống mang bản chất là một kế liên hoàn dẫn dắt Tào
Tháo vào vòng tự mãn, nhưng chi tiết trên cũng đủ thấy sự am hiểu trong tác
chiến thủy trận của Bàng Thống.
12
CHƯƠNG 3
NHỮNG CHIẾN LƯỢC- SÁCH LƯỢC QUÂN SỰ
3.1. Ngoại giao:
Trong lịch sử Trung Hoa thời kì tam quốc đánh dấu một giai đoạn các tập
đoàn phong kiến tranh chấp quỵền lực lẫn nhau. Trong đó nổi trội lên là 3 tập đoàn
Lưu, Tôn, Tào tương ứng với cục diện 3 nhước Ngụy, Thục, Ngô sau này. Mỗi tập
đoàn luôn là đối thủ với 2 thế lực còn lại. Thế nhưng trong quan hệ chính trị,
không phải kẻ thù mãi là kẻ thù, cũng có lúc để giải mục đích chung các tập đoàn
còn liên minh với nhau một cách tạm thời. Chính những tình huống này vai trò của
hoạt động ngoại giao mới thật sự quan trọng.
Trong giai đoạn trận Xích Bích, không ít các hoạt động ngoại giao đã được
thực hiện giữa cả 3 đối tượng chính của tiểu thuyết. Các tập đoàn Lưu, Tôn, Tào,
trong đó trọng điểm vẫn là hoạt động ngoại giao giữa 2 phe Tôn-Lưu để tiến hành
liên minh chống Tào.
Xuất phát từ ý thức bảo vệ và phát triển lợi ích của mỗi bên, 2 tập đoàn TônLưu đã tiến tới thiết lập liên minh. Đó là một hệ quả khách quan trong bối cảnh
truyện. Chúng ta cần biết để thiết lập một liên minh chính trị cần nhiều điều kiện
đồng thời. Thứ nhất các bên phải có chung một kẻ thù, thừ hai là phải thỏa mãn
nhu cầu lợi ích của các bên tham gia liên minh. Cả 2 điều kiện trên đều thỏa mãn
nhu cầu của truyện. Mục đích của Tào Tháo là xưng bá trung nguyên, thống nhất
Trung Quốc, trong khi các tập đoàn chính trị lớn mạnh như Viên Thiệu, Lã Bố,
Lưu Biểu...trong đó bao gồm cả Lưu Bị và Tôn Quyền phân chia cát cứ đã trở
thành trở ngại lớn cho bước đường chính trị của Tào Tháo. Vì lẽ đó không sớm thì
muộn Lưu Bị và Tôn Quyền cũng phải đối mặt với Tào Tháo. Vì phá Lưu Bị sau
khi thất bại ở Tân Giã, thế lực bị hao mòn cần thời gian nghỉ dưỡng để phục hồi
lực lượng nếu Tào Tháo đánh úp thì cầm chắc thất bại. Còn về phía Tôn Quyền
nếu để Tào diệt Lưu Bị thì thiên hạ chỉ còn mỗi y là đồi địch Tào Tháo khó lòng
đương cự được. Chính vì sự suy xét tình thế kỹ lưỡng như vậy hai bên đã sớm có ý
đồ liên minh vừa bảo đảm lực lượng vừa phát triển thêm được ưu thế sau này. Biểu
hiện cụ thể là phía Ngô Tôn đã cử Lỗ Túc đến bên Lưu để xem xét tình hình, và
bên Lưu cũng đã cử Khổng Minh sang Ngô bàn kế kháng Tào.
Thiết lập được liên minh, vấn đề quan trọng giữa các bên là duy trì liên minh
cho đến khi đạt được hiệu quả. Trong hoàn cảnh Tào Thái có thề lực lớn mạnh cho
nên việc duy trì liên minh là điều kiên quyết để duy trì mức độ gắn bó chặt chẽ
giữa các phe. Trong thời kì chuẩn bị cho trận xích bích, Khổng Minh đã tỏ ra hết
sức tích cực trong việc duy trì cố kết này. Trong quá trình tiếp xúc với Đông Ngô,
Khổng Minh luôn phải vượt qua những thử thách bằng sự khéo léo của mình để
củng cố tinh thần phá Tào của phía Ngô. Không những vậy, Khổng Minh đã không
ít lần đóng góp vào việc làm suy yếu nhuệ khí quân Tài như việc “thuyền cỏ mượn
tên”, làm ngơ trước mưu kế của Chu Du để đảm bảo tính bí mật. Cùng một mục
13
đích Khổng Minh cũng tham gia vào quá trình hoạch định chiến thuật hỏa công và
chuẩn bị điều kiện (cầu gió đông) để tiến hành đánh hỏa công. Ngoài ra tinh thần
thiện chiến liên minh phía Lưu cón bộc lộ rõ ở Lưu Bị. Trong sự việc Chu Du mời
Lưu Bị sang Ngô để thừa cơ giết đi, Lưu Bị dù hay biết sự chẳng lành nhưng vì sợ
lỡ tình giao hảo gây hỏng đại sự cũng liều mình sang Ngô.
“Ta nay kết liên với Đông Ngô, cùng phá Tào Tháo. Nay Chu Du muốn
gặp ta, nếu ta không đi thì không phải là tình đồng minh với nhau. Hai bên cứ ngờ
vực lẫn nhau, việc to hỏng mất.”
Cùng là các phe liên minh, Chu Du là người đại diện cho Đông Ngô thì
không những không suy tính sâu xa mà còn nhiều lần tìm cách phà vỡ liên minh để
giải quyết mâu thuẫn riêng của mình. Trái ngược với Chu Du, Lỗ Túc thật sự quan
tâm đến vấn đề lớn trước mắt, ông quan tâm đếm mức nhiệt tình, đôi khi ông cứ
như bị Khổng Minh lợi dụng vì sự nhiệt tình đó. Thật vậy với tư cách đưa Khổng
Minh về Ngô, Lỗ Túc luôn tỏ ra đồng tình với Khổng Minh trong việc kháng Tào.
Nhiều lần ông đã giúp Khổng Minh né tránh được những mưu kế thâm hiểm của
Chu Du. Lỗ túc cũng là cái cầu nối thăm dò tâm lý giữa Khổng Minh và Chu Du.
Thêm nữa, đáng nói trong hoạt động ngoại giao cón có việc Tưởng Cán hai
lần sang phá Chu Du, Hám Trạch đưa thư trá hàng giùm Hoàng Cái, cũng như
Bàng Thống hiến kế ghép thuyền cho Tào Tháo. La Quán Trung hết thảy mọi khả
năng trí tuệ của nhân vật vào hoạt động ngoại giao một cách tỉ mỉ.
3.2. Tâm lý:
Như đã trình bày trong phần dẫn luận, trận Xích Bích được miêu tả chủ yếu
qua những mưu lược tài tình của các tuyến nhân vật. Những mưu lược này tập
trung hướng vào tâm lý của các bên, tìm cách áp đảo hoặc hóa giải những chiến
lược thâm sâu của đối phương. Thứ nhất là ở nhân vật Khổng Minh. Khổng Minh
trong Tam Quốc Diễn Nghĩa là chân dung đại diện cho trí tuệ siêu phàm của nhân
dân. Trí tuệ ấy được khắc họa sâu sắc và đậm nét ở mọi thồi điểm , nhất là trong
các sự kiện lớn nắm trong diễn biến nội dung tác phẩm , trong đó có trận Xích
Bích.
Với thân là sứ giả đại diện cho tập đoàn Lưu Bị, Khổng minh trong hành
trình đến Giang Đông phải đảm bảo được hai yêu cầu là thiết lập và duy trì liên
minh chính trị quân sự. Đặc biệt giải quyết hai vấn đề đó , Khổng Minh còn nhiệm
vụ phải chú tâm giải quyết hai vấn đề trên mà không gây tổn hại đến lợi ích của
tập đoàn phía sau mình. Chính vì vậy mà mọi chiến thật tâm lý của Khổng Minh
luôn hướng đến hai điểm trên.
Dựa trên sự thông hiểu đối phương cũng như thu thật xử lý tin tức nhạy bén
Khổng Minh biết Tôn Quyền là một nhà lãnh đạo có chí lớn và sớm nhìn ra cục
diện thời thế. Tuy nhiên một điểm mà Tôn Quyền hạn chế nhất chính là do dự,
không quyết đoán. Từ một logic thực tế là sự nghiệp của Tôn Quyền không như
14
Lưu Bị, Tào Tháo khôngphải dobản thân tự tạo mà được thừa kế từ cha anh, cho
nên mọi quyết sách của Tôn Quyền đều phải phục chúng và tránh gây ra mâu
thuẫn lớn. Để đảm bảo uy tín của mình Tôn Quyền luôn tranh thủ ý kiến của cấp
dưới trước khi ra quyết định quan trọng. Chính vì vậy, Khổng Minh đã chỉa mũi
chiến lược tâm lý vào các nhân vật xung quanh Tôn Quyền. Đầu tiên là Lỗ Túc, Lỗ
Túc là nhân vật mà Tôn Quyền tin cậy nhất ở Đông Ngô, chiếm được lòng y chính
là đã có trong tay 50% cơ hội. Trong quá trình xây dựng lòng tin ở Lỗ Túc, Khổng
Minh không ngừng phô diễn năng lực của mình và mượn đó làm cầu nối đến với
Tôn Quyền. Đối tượng kế đếm mà Khổng Minh lưu tâm đến là đám mưu sĩ ở
Đông Ngô mà Trương Chiêu là người đứng đầu. Trong con mắt của Khổng Minh
đám mưu sĩ chẳng là gì đối với mình nên ông tỏ ra kiêu ngạo, xem thường họ, mà
thực tế cho thấy hàng mưu sĩ ấy không đủ sức “cãi lý” với một mình Khổng Minh.
Tuy nhiên đối với Tôn Quyền, những kẻ mà Khổng Minh cho là “một lũ khoác lác
hư danh bịp bợm” lại có sức lay động đáng kể. “Trương Chiêu là mưu sĩ bậc nhất
của Tôn Quyền , nếu mình không áp đảo đươc hắn thì sao thuyết phục dược Tôn
Quyền”. Cuộc đấu tranh của Khổng Minh và các mưu sĩ Đông Ngô đã thể hiện bản
lĩnh, sự vững vàng trong chiến thuật mưu phạt tâm công của Khổng Minh.
Tuy nhiên để thực sự thuyết phục đượct Tôn Quyền, Khổng Minh phải giải
quyết kẻ nắm 50% cơ hội còn lại tức là Chu Du.khác với hàng mưu sĩ văn nhân,
Khổng Minh thiến hành thủ đoạn tâm lý ở hàng võ tướng khác hẳn. Bởi lẽ trong
nội bộ Đông Ngô phân hóa thành hai phe chủ hòa và chủ chiến, hai phe trên tương
ứng với hai ban văn và ban võ trong tập đoàn. Hầu như các võ tướng đều có ý
thuận theo Khổng Minh, riêng Chu Du là trường hợp ngoại lệ. Bởi lẽ Chu Du tuy
là võ tướng nhưng lại hơn người khác một cái đầu dùng thâm kế. Chu Du không
nhẹ dạ như Lỗ Túc sẳn sàng tin Khổng Minh, nhưng ông cũng không bảo thủ như
hàng mưu sĩ, do Chu Du tinh tế đánh giá tính hính hiện thời thực ssự có phần bất
lợi cho Ngô. Muốn giải quyết được võ tướng “khó nuốt” này, Khổng Minh phải
đánh vào tâm lý ngông tàn, coa ngạo của Chu Du, lợi dụng nó để khích Chu Du để
Chu Du phải quyết kháng Tào. Điều đó đồng nghĩa với việc cầm chắc 100% quyết
định của Tôn Quyền. Song chiến thuật tâm lý của Khổng Minh còn thận trọng hơn
nữa khi dùng các cách với Chu Du, giải quyết những vướng mắc tong lòng Tôn
Quyền, khích lệ quyết tâm chiến đấu của y.
Hình thức đấu tranh tâm lý của Khổng Minh còn được vận dụng trong những
tình huống bất lợi, một mặt phải hóa giải ý đồ gian hiểm của Chu Du, một mặt
phải duy trì liên minh, hoặc chờ đợi thời cơ lớn. Khi Chu Du dùng kế mượn dao
giết người, lừa Khổng Minh đoạt lương Tào ở Tụ Thiết, Khổng Minh đã dùng kế
khích tướng buộc Chu Du rơi vào Kế phản đòn. Hoặc khi tình huống trận đánh đã
đi đến giai đoạn kết thúc, Khổng Minh dự đoán mâu thuẩn tư tưởng giữa ông và
Chu Du sớm muộn gì cũng dẫn tới phá phá vỡ liên minh, ông đã dựng việc huyễn
hoặc “cầu gió đông” để lừa mị tâm lý Chu Du. Mục đích chính của biện phàp này
15
là Khổng Minh muốn lợi dụng sự ma mị để át chế tâm lý phe địch, đồng thời sử
dụng đàn tthấ tinh tấm bình phông che chắn cái ý đồ chuẩn bị trốn khỏi Đông Ngô,
tách bản thân khỏi ssự kiểm soát của Chu Du.
Tuy Khổng Minh nổi bật lên toàn bộ cục diện vì tài đấu tranh tâm lý nhưng
hai nhân vật then chốt còn lại cũng không tỏ ra kém nổi bật. Nhất là Tào Tháo.
Trong chiến lược nam chinh, Tào Tháo đã chuẩn bị sẵn cho mình chiến lượcmưu
phạt tâm công. Chiến lược đó thể hiện sâu sắc trong lời bài hịch gưi sang Ngô
chiêu hàng.
“Ta phụng mệnh vua, đánh kẻ có tội. Cờ trỏ về nam, Lưu Tôn phải bó tay,
dân Kinh Tương nghe thấy tin, răm rắp hàng phục. Nay thống lĩnh trăm vạn hùng
binh, nghìn viên thượng tướng, muốn cùng với tướng quân họp săn ở Giang Hạ, để
đánh Lưu Bị, cùng chia đất đai, giao hảo với nhau mãi mãi. Xin đừng ngờ vực, trả
lời ngay cho.”
Cũng giống như Khổng Minh, tào Tháo cũng đánh vào yếu diểm cua Tôn
Quyền nhưng không phải sự do dự mà là tâm trãng nhát gan sợ địch. Với uy thế
đông về lực lượng Tào Tháo muốn dùng như cách đã dùng cách với Sái Thị và
Lưu Tôn, dự định đoạt Giang Nam không tốn một binh một tốt. Mặt khác thủ thuật
tâm lý của Tào Tháo còn được sử dụng để đe dọa những người mà ông còn nghi
ngờ như Haám Trạch để trong cơn nguy ngập bộc lộ ý đồ và bản lĩnh của mình,
cho ông thấy giá trị sử dụng y trong chiến lược của mình.
Không giống Khổng Minh và Tào Tháo, bản lĩnh đấu tranh tâm lý của Chu
Du có phần bị động, thậm chí có lúc rơi vào thế bí của đối phưong gây ra mà
không hay. Tuy nhiên cũng cần thấy Chu Du khéo dùng nghệt thuật đấu tranh tâm
lý để đạt được mục đích nắm bắt nội tình phía Tào thông qua Tưởng cán, hai aanh
em họ Sái, Hám Trạch, Bàng Thống, cũnh như võ đoáan được tâm ý Khổng Minh
qua Lỗ Túc.
3.3. Gián điệp:
Trận Xích Bích trong Tam Quốc Diễn Nghĩa tập trung thể hiện nhữngthủ thật
giao tranh bao gốm các hoạt động chính thức lẫn không chính thức mà thuật dùng
gián điệp là tiêu biểu.
Thủ đoạn dùng gian kế xuất phát điểm đầu tiên là từ Tào Tháo. Khi hay tin
Ngô đã chọn cách đương đầu với mình , lại cử Chu Du ra làm đô đốc. Ví muốn
chiêu háng Chu Du nên sai Tưởng Cán sang thuyết phục. Thế nhưng Chu Du là kẻ
tinh ranh, trong lúc so sánh lực lượng hai bên bất lợi cho Đông Ngô, phía giặc lại
có tướng tài luyện thủy thì Chu Du khó lòng công kíchvào nhược điểm không
quen đánh thủy của quân Tào. Chính vì thế khi Tưởng Cán sang là cơ hội tốt dùng
kế mượn dao giết người. Chu Du khéo léo tạo tình huông vừa xiết vừa buông để
lợi dụng Tưởng Cán. Một mặt thì tạo cho Tưởng Cán cảm giác nặng nề khi sai
Thái sử Từ đứng hầu tiệc, phàm ai nói việc công thì chém. Chính sự nghiêm túc ấy
16
đã gợi trong lòng y sự tò mò. Mặt khác Chu Du làm một loạt động tác giả:thư giả,
tin giả, giả say, giả vờ không phòng bị... dể Tưởng Cán sa vào ý đồ của mình.
Đúng như đoán định, Tưởng Cán lẫn tào Tháo đều mắc kế Chu Du. Bởi lũ Trương,
Sái vốn chỉ là hai con cờ quan trọng mà tào tháo cần chứ không tin cậy, cho nên
ông sẳn sàng loại bỏ khi có dấu hiệu phản bội.
Lần thứ hai, tào tháo sử dụng Sái Trung, Sái Hòa sang Ngô trá hàng để nắm
tình hình nội bộ Chu Du. Đáng tiếc Tào Tháo lại quá gian hùng, ông không đặt tin
cậy vào những “vệ tinh”mà mình đã cài đặt một cách đích đáng.. chính vì nghi ngờ
, taìo phải kgbống chế gia quyến của họ khiến họ bộc lô những sơ hở khi sang Chu
Du. ấy vậy,mà khi Chu Du mượn cả hai phao tin thì Tào Tháo lại tin răm rắp.
Không những vậy ý thức đề phòng của y dường như bị tiêu giảm tối đa bởi sự dàn
xếp khéo léo của Chu Du, ChuDu mượn tay Hoàng Cái, Hám trạch làm cho Tháo
mở rộng thêm niềm tin, cũng như thêm vào thái độ tự mãn, chủ quan. Dùng cùng
một thủ thuật đến hai lần, mượn tay Tưởng Cán đưa bàng Thống cùng ý đồ của
mình hiến cho tào Tháo. Phải nói trong nghệ thuật vận dụng gián điệp, ChuDu là
một bậc thầy. Bởi lẽ mọi ý đồ dụng gián xuất phát đều phục vụ cho Tào nhưng
cuối cùng đều ngược lại làm lợi cho Du.
3.4. Hỏa công:
Một vấn đề cần làm rõ, trong mọi thủ thuật, mưu lược diễn ra trong quá trình
tiến triển các sự kiện của trận Xích Bích đều nhắm tới một mục tiêu cuối cùng, đó là
chiến thuật hỏa công. Trong số mọi họat động đã nêu, trực tiếp chuẩn bị cho đánh hỏa
công hai tiền đề quan trọng đã được thực thi bởi hai mưu sĩ bậc nhấc đương thời:
Ngọa Long- Giá Cát Lượng và Phượng Sồ- Bàng Thống.
Như đã thảo luận trong chương 2, Bàng Thống là người đề ra kế sách đem xích
săt ghép thuyề lớn nhỏ với nhau để khi đánh hỏa công các thuyền khó lòng tách ra.
Song điều kiện quan trọng nhất của lối đánh hỏa công là do Khổng Minh dàn
dựng. Binh pháp Tôn Tử có ghi lại: “Phát hòa hữu thời, khởi hỏa hữu nhật”, tức là
muốn đánh hỏa công phải xem biết thời cơ. Thời cơ theo Khổng Minhtính toán chính
là ngày 20/11. Vì sao phải chọn ngày 20/11? Xét về mặt lịch pháp Trung Hoa, 1năm
chia làm 24 tiết thì 20/11 chính là tiết đông chí. Nhìn nhận từ khía cạnh thiên văn học,
tiết đông chí là ngày trái đát nhận được nhiều ánh sáng mặt trời nhất, đồng thời làm
cho khí hậu thay đổi. Từ ngày xưa, ngưởi Trung Hoa đã phát hiện ra việc này và đúc
kết thành quy luật “hạ chí âm sinh, đông chí dương sinh”. Theo quy luật này mọi hiện
tượng thời tiết trước đông chí có thể thay đổi sau ngày đông chí. Tức là hướng gió từ
tây bắc sẽ chuyển sang đông nam. Lợi dụng quy luật trên Khổng Minh đã giả lập đàn
Thất Tinh để cầu gió, thực chất ngày hôm đó co gió đông hay không chính Khổng
Minh cũng không biết rõ. Vì lẽ đó Khổng Minh đã nói với Lỗ Túc : “… Nếu ta cầu
trời mà không thành thì cũng không có gì là lạ”. Kỳ thực, nếu là qyu luật trong phép
hành quân sao Chu Du và Tào Tháo lại không biết? Với Chu Du, đây có lẽ là biểu
17
hiện của sự thiếu kinh nghiệm tác chiến, chiến lược kém nhạy bén. Còn với Tào Tháo
đó là biểu hiện của sự đánh giá sai tình huống. Đích thực Tào Tháo cũng nắm bắt
được quy luật nói trên nhưng do nhầm lẫn đánh giá trong khoảng thời gian dài mà
không chú ý đến những biến đổi cục bộ trong khí tượng, phần vì thái độ chủ quan nên
chuốc lấy thất bại.
“Hành hỏa tất hữu nhân, nhân tất tố cựu” , Đánh hỏa công ngoài yếu tố thời cơ
cần có sự tham gia của điều kiện vật chất và tướng lĩnh chủ quản. Trong trận Xích
Bích của Tam Quốc Diễn Nghĩa, nhân tố này được miêu tả hế sức rỏ nét:
“…Hoàng Cái cầm đao vẫy một cái, các thuyền mé trước nhất tề đốt lửa. Lửa được
gió, gió bốc lửa, thuyền bay vùn vụt như tên, rực cháy ngút trời: Hai chục chiếc hỏa
thuyền tràn vào thủy trại…Thuyền trong trại Tào Tháo bén lửa bốc cháy tứ tung, lại bị
xích sắt khóa chặt, không sao chạy thoát. Bên kia sông, pháo nổ đùng đùng, bốn mặt
hỏa thuyền ùa đến. Trên mặt sông Tam Giang gió cuốn lửa bay, trên trời dưới nước đỏ
rực như mặt trời mọc…”
3.5. Bại chiến:
Hình thái bại chiến lược cũng là một vấn đề đáng khai thác trong các sách lược
hành binhở trận Xích Bích. Trong 36 kế mưu lược cổ nhân Trung Hoa cũng xếp bại
chiến là hình thức chiến lược quan trọng để chuẩn bị về lâu dài cho những trận chiến
nối tiếp. Riêng trong nội dung đề tài này người viết chỉ khai hác hai tình huống bại
chiến.
Thú nhất là thủ pháp” Tả thi hoàn hồn” của tập đoàn Lưu Bị. Cũng như đã thảo
luận ở phần trước, tập đoàn Lưu Bi yếu về số đông lực lượng nên bị thất bại ở Tân
Giã. Thất bại này sẽ dẫn tới bị tiêu diệt hoàn toàn nế không có sách lươc chống Tào
hiệu quả. Trên cơ sở phân tích tình hình chiến lược, tập đoàn Lưu Bị đã tìm cách thiế
lập liên quân với Ngô Tôn nhằm định hướng những mục đích sâu xa:
Nói là liên minh nhưng thực chất quân Lưu chỉ thực sự tham gia trong giai đoạn Tào
Tháo hoàn toàn rệu rã trước khí thế áp chiến của quân Ngô. Lợi dụng quân đội Ngô
Tôn diệt mối đe dọa trước mắt là Tào Tháo. Đó là kế “Tá đao sát nhân” (mượn dao
giết người).
Lợi dụng tình thế hỗn loạn sau đại chiến Xích Bích, Lưu tiến đế chiếm lấy
Kinh Châu, vùng trọng địa chiến lược mà cả ba thế lực đều dom ngó để làm bàn đạp
xưng bá Trung Nguyên. Đó là kế “Hỗn thủy mô ngư”(khuấy nước mò cá).
Liên minh với Tôn trước mắt tạo bước tiến cho Tôn cũng như cho tập đoàn mình, hạ
ưu thế phía Tào, cân bằng lực lượng các bên. Đồng thời lại sử dụng Quan Vụ làm con
cờ bảo lưu mạng sống Tào Tháo, giữ thế ba chân vạc, dùng Tào khiến Tôn không thể
uy hiếp mình. Đó là kế “ Viễn giao cận công” (ở xa giao thiệp, ở gần tấn công).
Thứ hai là những suy tính của Tào Tháo sau khi thất bại ở Xích Bích. Tự thấy
bản thân bị sa lầy, Tào Tháo biết rõ vấn đề về kâu dai là phải bảo toàn tính mạng để
tính kế về sau, nên y đã dung sách lược cuối cùng “ Tẩu vi thượng”. Con đường lui
quân của Tào tháo cũng rất gian nan, hế về Ô Lâm lại sang Di Lăng, Di Lăng bị chặn
18
lại rút về Nam Quận. Tào Tháo cùng một luc phải đối phó 3 kẻ địch, quân Lưu- Tôn
truy sát, quân sĩ đang suy giảm nhuệ khí, và chính bản thân Tào tháo đang gánh chịu
thất bại nhục nhã. Giải quyết khó khăn về phía mình Tào Tháo tỏ ra hết sức lạc quan,
chạy đến đường này bị chặn đánh lại chạy sang ngõ khác, nhưng hễ thấy bình yên
chốc lát thì y lại cười Chu Du, Khổng Minh kém trí y. Đối với tướng sĩ Tào tháo đã
cảnh tĩnh bằng lời than oán khóc Quách Gia, đó đích thực là lời cay động chạm đến ý
thức quân sĩ vì không muốn làm kẻ bất tài. Cuối cùng , đối với kẻ địch Quan Vũ, Tào
Tháo đã nhắc đến mối ân tình xưa thuyết phục ông tha cho đương sống.
19
CHƯƠNG 4
VAI TRÒ CỦA CÁC NHÂN VẬT TRONG TRẬN ĐÁNH
4.1. Nhân vật Khổng Minh:
4.1.1. Mục tiêu chiến lược rõ ràng, luôn giành thế chủ động.
Trong bối cảnh diễn ra trận Xích Bích, cũng như trong toàn bộ tác phẩm Tam
Quốc Diễn Nghĩa, Khổng Minh luôn xác định Tào Tháo chính là kẻ thủ chính thức
của tâp đoàn Lưu Thục. Thứ nhất, vì Tào tháo luôn hướng mũi tiến công tâp trung vào
quân Lưu Bị. Thứ hai, trên danh nghĩa chính quyền Tào Ngụy đã thay thế nhà Đông
Hán đi ngược trật tự phong kiến. Nguyên nhân đầu là lý do chính yếu, còn lý do thứ
hai là cái cớ để tiến hành chống Tào, tranh thủ sự ủng hộ của người dân. Chính vì thế,
Khổng Minh đã đề ra đối sách lên minh với Đông Ngô để chống Tào.
Để xác lập được liên minh với Đông Ngô, đồng thời duy trì liên minh đó,
Khổng Minh lại vạch ra cho mình những tiểu chiến lược để đạt được kết quả như ý.
Muốn tranh thủ được sự thỏa thuận của Tôn Quyền Khổng Minh phải giải quyết được
những đối tượng có sức lay động ý chí Tôn Quyền như Chu Du, Lỗ Túc, lực lượng
mưu sĩ Đông Ngô. Mỗi loại đối tương ông lại sử dụng những phương pháp hế sức
khác nhau. Trên thực tế mọi chiến lược mà ông vạch ra trong nhiệm vụ liên minh đều
có kết quả như dự tính.
Mục tiêu chiến lược của Khổng Minh không chỉ giải quyết những vấn đề trước
mắt mà còn dự tính chó thế cục dài lâu. Chính vì vậy Khổng Minh đã tìm cho mình
ứng cử viên sáng giá là Quan Vũ để bảo đảm thế cục chân vạc. Biết Quan Vũ có ân
tình với Tào Tháo nhưng vẫn cử y đi chặn Tào Tháo ở hẻm Hoa Dung và cho rằng
việc Quan Vũ thả Tào Tháo là một việc tốt chính là trủ bị cho sự lớn mạnh của Đông
Ngô sau khi đánh bại Tào sẽ thôn tính cả Lưu. Giữ Tào Tháo chính là cách phòng bị
an toàn nhất đối với ngưới bạn liên minh này. Việc Khổng Minh dựng đàn Thất Tinh
cầu gió đông cũng là sự tranh thủ công lao để giành đoạt Kinh Châu sau này cho Lưu
Bị.
4.1.2. Nắm bắt tin tức, hiểu biết sâu sắc về đối phương.
Mặc dù Khổng Minh hoạt động bên tập đoàn Lưu Bị nhưng gần như ông luôn
nắm bắt được thông tin bên ngoài một cách chính xác. Ông biết rõ cá tính Tôn
Quyền,vai trò của cấp dưới Tôn Quyền trong những quyế sách của ông. Chẳng những
vậy ông còn biết đến vai trò đặc biệt của Trương Chiêu, chu Du theo như lời ủy thác
của Ngô Quốc thái.
Xét cho cùng thì Tôn Quyền là chư hầu một nước nên nhiều thông tin là phải,
thế nhưng đến những nhân vật không phài hàng danh giá ông cũng tường tận kĩ càng.
Trong lúc tranh luận cùng hàng ngũ mưu sĩ Đông Ngô, Khổng Minh rành rọt danh
tính, tên tự từng người, lại biết rõ lai lịch họ. Ví dụ nhu hỏi khéo Lục Tích“Ông có
phài là người ăn cắp quit trong bữa tiệc của Viên Thiệu đó không?”.
Chuyện chính trị đã vậy, Khổng Minh còn lưu tâm đến cả vấn đề gia đình riêng
tư của người khác. Rõ là phải biế Tiểu Kiều lả vợ Chu Du, mà Chu Du lại vô cùng yêu
20
- Xem thêm -