Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghệ thuật biểu hiện “cái phi lý” trong tác phẩm vụ án của franz kafka...

Tài liệu Nghệ thuật biểu hiện “cái phi lý” trong tác phẩm vụ án của franz kafka

.PDF
63
1719
123

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC ĐINH THỊ DUYÊN NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN “CÁI PHI LÝ” TRONG TÁC PHẨM VỤ ÁN CỦA FRANZ KAFKA KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƠN LA, NĂM 2015 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC ĐINH THỊ DUYÊN NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN “CÁI PHI LÝ” TRONG TÁC PHẨM VỤ ÁN CỦA FRANZ KAFKA Chuyên ngành: Văn Học Nƣớc Ngoài KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Ngƣời hƣớng dẫn: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Thúy SƠN LA, NĂM 2015 Lời cảm ơn Khóa luận tốt nghiệp được hoàn thành với sự hướng dẫn khoa học và sự giúp đỡ tận tình của Thạc sĩ Nguyễn Thị Ngọc Thúy, nhân dịp khóa luận được công bố, em xin chân thành cảm ơn và tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô Nguyễn Thị Ngọc Thúy, người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ tận tình cho em trong quá trình thực hiện khóa luận. Em xin chân thành cảm ơn phòng đào tạo, sự quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ của tập thể thầy cô giáo trong khoa Ngữ Văn, của các ban ngành chức năng, của tập thể lớp K52 ĐHSP Văn-GDCD. Với nội dung khóa luận này em mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn! Em xin chân thành cảm ơn quý thầy cô và các bạn! Sơn La, tháng 5 năm 2015 Ngƣời thực hiện Đinh Thị Duyên MỤC LỤC MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài .........................................................................................................1 2. Lịch sử vấn đề..............................................................................................................2 2.1. Tình hình nghiên cứu Franz Kafka trên thế giới ......................................................2 2.2. Tình hình nghiên cứu Franz Kafka ở Việt Nam .......................................................7 3. Phạm vi nghiên cứu ...................................................................................................11 4. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................................11 5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................11 6. Phương pháp nghiên cứu: ..........................................................................................11 7. Đóng góp của khóa luận ............................................................................................12 8. Cấu trúc của khóa luận ..............................................................................................13 CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ................................................................14 1.1. Tác giả ....................................................................................................................14 1.2. Tác phẩm ................................................................................................................20 1.2.1. Tóm tắt cốt truyện ...............................................................................................21 1.2.2. Kết cấu .................................................................................................................23 1.3. Quan niệm về “cái phi lý” trong triết học và văn học ............................................25 1.3.1. Quan niệm về “cái phi lý” trong triết học ...........................................................26 1.3.2. Quan niệm về “cái phi lý” trong văn học ............................................................26 CHƢƠNG 2: KHÔNG GIAN PHI LÝ ......................................................................29 2.1. Không gian phi địa danh.........................................................................................30 2.2. Không gian bị biến dạng.........................................................................................31 2.2.1. Không gian đời tư ................................................................................................31 2.2.2. Không gian tòa án ................................................................................................33 2.3. Không gian mê cung ...............................................................................................35 Tiểu kết ..........................................................................................................................37 CHƢƠNG 3: NHÂN VẬT PHI LÝ............................................................................39 3.1. Bắt đầu từ cái tên ....................................................................................................39 3.2. Những chân dung méo mó .....................................................................................40 3.3. Hành động phi lý, tâm lý hóa .................................................................................42 3.4. Nhân vật cô đơn đi tìm sự cô đơn...........................................................................43 3.5. Nhân vật của sự thức tỉnh nghiệt ngã .....................................................................44 Tiểu kết ..........................................................................................................................45 CHƢƠNG 4: CHI TIẾT PHI LÝ ...............................................................................47 4.1. Chi tiết phi lý mang tính huyền thoại .....................................................................47 4.1.1. Chi tiết y phục .....................................................................................................48 4.1.2. Chi tiết cửa...........................................................................................................49 4.2. Chi tiết phi lý và cốt truyện “kiểu giấc mơ” ...........................................................50 4.2.1. Biến cố khởi đầu ..................................................................................................50 4.2.2. Đa tầng truyện .....................................................................................................51 4.2.3. Chi tiết “nhiễu” mạch truyện ...............................................................................52 Tiểu kết ..........................................................................................................................53 KẾT LUẬN ..................................................................................................................54 TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Thế kỉ XX, thế kỉ mà trọng tâm nó là châu Âu, đã diễn ra nhiều cuộc đổi thay, nhanh chóng, gấp gáp, dữ dội. Cho đến nay kí ức phương Tây vẫn còn hằn in rõ những sự đảo lộn giá trị cuộc sống, giá trị nhân văn từ hai cuộc chiến tranh thế giới. “Thế kỉ XIX: Thế giới là tôi Thế kỉ XX: Tôi không phải là thế giới” (V. Bela) [20; 938]. Trong bối cảnh đầy sôi động của buổi đầu thế kỉ XX, thế kỉ chứng kiến hai cuộc chiến tranh thế giới vô cùng tàn khốc, văn học nghệ thuật cũng bắt đầu làm cuộc cách mạng với phong trào tiên phong. Các văn nghệ sĩ không còn hài lòng với những quy tắc sáng tác truyền thống, họ muốn phá vỡ tất cả để giải phóng văn học nghệ thuật, cho văn học nghệ thuật được tự do biểu đạt nhằm đáp ứng với tình hình chính trị xã hội mới. Nhiều trào lưu trường phái mới ra đời như: trường phái biểu tượng, trường phái đa đa, trường phái siêu thực, trường phá vị lai... trong bản giao hưởng tư tưởng ấy đôi khi vút lên những thanh âm trong trẻo khi có quá nhiều luồng tư tưởng đua tranh nhau được khẳng định, được lột xác, thoát thai. Bởi vậy, có những nhà văn ta không thể xếp họ vào trường phái nào, nhưng những sáng tác của họ thật sự là những cái mốc của tiến trình văn học thế giới. Họ là những “hiện tượng bột phát đặc biệt mà đồng nghiệp đương thời của họ không thể theo kịp để làm thành một trường phái. Tác động và ảnh hưởng của họ chỉ diễn ra sau một thời gian thế giới mới hết ngỡ ngàng. Và khi hiểu ra thì người ta mới thấy rằng họ là những hiện tượng tới hạn không thể lặp lại. Kafka chính là một hiện tượng như vậy” [17; 6]. Cùng với Marcel Proust (1871-1922), James Joyce (1882-1941), Franz Kafka được coi là một trong những người mở đầu trong việc đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết. Những cách mới mẻ trong việc xây dựng hệ thống nhân vật, cốt truyện, cách tổ chức không gian, thời gian, ngôn từ... của tiểu thuyết hiện đại có đóng góp không nhỏ của người tìm đường Franz Kafka. Từ Kafka người ta có thể thấy rõ rằng có nhiều cách khác nhau để biểu hiện tư tưởng nhà văn trên trang viết; nghệ thuật đã và sẽ không phải là sự bắt trước hiện thực một cách trần trụi. Có thể thấy rằng Kafka chính là chiếc cầu nối nghệ thuật văn xuôi phương Tây, từ đỉnh cao nghệ thuật tiểu thuyết thế kỉ XIX, H. Balzac (1799 - 1850), sang tiểu thuyết hiện đại thế kỉ XX với những phá cách 1 táo bạo và có phần cực đoan ở tiểu thuyết mới và kịch phi lý sau này. Franz Kafka đã ra đi gần một thế kỷ, khi thời gian đã tiến hành sự phán xét nghiệt ngã mà rất công bằng của nó làm lắng xuống những niềm say mê xung quanh “thiên tài nghịch dị” (Lê Huy Bắc) hay “người Do Thái tiên tri bé nhỏ” (Đặng Thị Hạnh) thì những tác phẩm của ông vẫn làm say mê, hấp dẫn mọi người đọc, nhất là những bạn đọc trẻ ưa thích sự bí ẩn và nhạy cảm với cuộc đời. Kafka không lựa chọn cho mình cách viết ồn ào, bóng bẩy, phô trương, hào nhoáng, lung linh. Franz Kafka lại lựa chọn cho mình cách viết bình thản, lạnh lùng nhiều khi đến khô khốc rời rạc mà ông đã từng cảm nhận rằng: “Những câu văn lủng củng với nhiều chỗ trống có thể nhét được cả hai tay vào. Một câu cao, một câu thấp, tùy tiện; câu nọ chèn câu kia, như lưỡi chèn vào răng sâu hoặc răng giả vậy; có câu còn thô thiển chòi lên trước khiến cho cả truyện cứng đơ trong sự ngơ ngác đáng buồn” (Nhật ký, ngày 5 tháng 11 năm 1911) [3; 818], kỳ lạ thay có sức lôi cuốn mãnh liệt Franz Kafka có tầm ảnh hưởng đến nền văn học thế giới chính vì vậy mà khi gõ vào dịch vụ tìm kiếm nào đó với từ khóa “Franz Kafka” ta sẽ thấy hiện lên ít nhất 130.000 tư liệu về ông chỉ tính riêng bằng tiếng Anh thứ ngôn ngữ mà ông chưa bao giờ sử dụng. Chính vì vậy ngay từ lần đầu tiên tiếp xúc với tác phẩm của Franz Kafka, thế giới nghệ thuật đặc sắc của ông đã thôi thúc tôi đến với đề tài này. Chính vì vậy, chúng tôi mạnh dạn chọn Franz Kafka và tác phẩm Vụ án làm đối tượng chính cho đề tài khóa luận “nghệ thuật biểu hiện “cái phi lý” trong tác phẩm vụ án của Franz Kafka” vừa để minh chứng vừa để thấy rõ hơn thiên tài và sức cuốn hút, vẻ độc đáo của thế giới nghệ thuật Franz Kafka. Đồng thời chúng tôi cũng hi vọng quá trình tìm hiểu về tác giả và tác phẩm Vụ án của ông, sẽ học tập và tích lũy được những kinh nghiệm quý báu trong công việc nghiên cứu khoa học, một phẩm cách không thể thiếu của người giáo viên. Với những suy nghĩ như vậy, chúng tôi đã tìm đến thế giới nghệ thuật trong tác phẩm Vụ án của Franz Kafka bằng cả niềm say mê, nể phục. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Tình hình nghiên cứu Franz Kafka trên thế giới Không giống với nhiều nhà văn khác, vinh quang sự nghiệp đến ngay từ tác phẩm đầu tay, hay trong lúc nhà văn dồi dào sinh lực, tràn đầy sức sống. Franz Kafka bước vào văn đàn thế giới một cách âm thầm và lặng lẽ cho đến lúc ra đi (1924) vẫn không 2 để lại dấu ấn hay tiếng vang gì. Lúc còn sống, tác phẩm của ông được in rất ít, chủ yếu là một số truyện ngắn: Chiêm ngưỡng (1913), Lời phán quyết và người tài xế (chương một của nước Mỹ) (1913), Biến dạng (1915) (tuyển tập Franz Kafka , dịch là hóa thân), Trại cải tạo và Một thầy thuốc ở nông thôn (1915), Vô địch nhịn ăn (1924). Nhưng từ sau khi ông mất, người ta đã thấy sự ảnh hưởng của ông đối với công chúng. Năm 1924, trong báo “Quyền lợi đỏ” của Đảng cộng sản Tiệp Khắc đã viết về ông: “một nhà văn viết bằng tiếng Đức đã giã từ chúng ta, một trí tuệ tinh tế và trong sạch, từng ghê tởm thế giới này và mổ xẻ nó bằng con dao không xót thương của lẽ phải. Kafka thâm nhập vào cơ chế xã hội, ông thấy nỗi đau của kẻ này, quyền lực và giàu sang của kẻ khác. Trong những bài viết của mình, ông tấn công vào kẻ mạnh của thế giới này bằng phương tiện trào phúng và bằng một hình thức chứa đựng đầy hình ảnh” (dẫn theo Đặng Anh Đào) [10]. Lời nhận xét đầy xót xa, cay đắng mà hùng hồn ấy đã cho thấy cái nhìn thấu đáo, bao quát hệ thống tác phẩm cũng như tác phẩm của ông. Milela Jesenka, người tình của Kafka viết trên tờ báo Nhân dân tháng 6 năm ấy thì nhận thấy rằng: “Những cuốn sách (của ông) đã để lại một thực tập về thế giới hoàn chỉnh đến nỗi người ta không thể thêm vào đó một chữ nào [11]. Tới năm năm 1935, B. Brecht vẫn nhận định: “Đối với tôi, tôi ưa thích văn học Tiệp Khắc hiện đại nói chung hơn tất cả các nền văn học tư sản. Trong khi viết điều này, tôi nghĩ tới Hasek, Kafka và Bezruc” [18; 907]. Song nhiều tác phẩm quan trọng của ông đã mất Vụ án (1925), Lâu đài (1926), Nước Mỹ (1927)... có được điều này là nhờ công lao của người bạn thân Kafka, nhà văn M. Bord. Từ 1933, tác phẩm của ông được dịch và lưu truyền ở nước ngoài. Từ năm 1939, người ta thấy bắt đầu xuất hiện “thế giới Kafka”, khi con người chỉ còn là một con số trong các trại tập trung phát xít, khi thế giới phương Tây đột nhiên phát hiện ra ung nhọt vô phương cứu chữa ở cái thân thể tưởng như tráng kiện của mình, khi một sáng nào đó, những gã áo đen (hoặc áo nâu, tùy theo đồng phục kiểu phát xít Đức hay Ý) xuất hiện ở ngôi nhà mình ở, và thế là: “Anh đã bị kết tội” (Vụ án). Với tình hình như vậy người ta bắt đầu đi sâu tìm hiểu nội dung ý nghĩa cho các tác phẩm của ông, khám phá các phương diện về nội dung hình thức nghệ thuật trong văn xuôi của Kafka. Từ đây lịch sử nghiên cứu, phê bình về Kafka mới thật sự có bước tiến. 3 Kafka, sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, được coi như “một phát hiện” đối với thế giới Phương Tây, dù một phần tác phẩm của ông đã nổi tiếng từ lúc ông còn sống, như đã nói trên (Đặng Anh Đào). Tên tuổi của Kafka được đặt cạnh Dostoievski, James Joyce, William Faulkener, những tác giả lớn viết về “thân phận con người trong thế giới hiện đại”. Cùng với M. Poust, Kafka được coi là nhà văn có đổi mới kỹ thuật thời gian trong tiểu thuyết. Xung quanh “hiện tượng” Kafka có nhiều ý kiến khác nhau về luồng tư tưởng về tác phẩm của ông có nhiều trường phái văn học nhận ông là bậc thầy. M. Bord, bạn thân của Kafka cho rằng tác phẩm của ông thấm nhuần tinh thần Do Thái giáo. Ông còn nhận thấy: Kafka đã “thể hiện suy nghĩ và lời nói trong các khuôn hình và không có gì phải hoài nghi về những hình ảnh và sự kiện còn đang ám ảnh mà ông đã sáng tạo ra, ở mức độ nào đó đã nắm bắt được cái hồn và bản chất của những trải nghiệm cũng như nhận thức của thế kỷ XX”. Điều này là hoàn toàn có cơ sở ngay trong giây phút hiện tại này, chúng ta đã phản ánh trong tác phẩm. Những người theo thuyết phân tâm học gọi Kafka là “thiên tài của thác loạn”, họ đã tìm thấy trong tác phẩm của ông uẩn ức về nỗi khiếp sợ của người cha lên tinh thần ông. Điều đó chính Kafka sau này đã thừa nhận: “thậm chí nhiều năm sau tôi vẫn còn bị ám ảnh bởi bố tôi, một con người vĩ đại, người có quyền lực tối đa ấy, lại chẳng vì một lý do gì đang đêm ông đến đưa ra khỏi giường và mang tôi đi” [4; 18]. Các nhà văn thuộc chủ nghĩa Hiện sinh, chủ nghĩa cho rằng Kafka là người trường phái mình. Các nhà Tiểu thuyết Mới lại cho rằng: “cùng với M. Poust, James Joyce, Kafka là người đã “khai tử” cho “tiểu thuyết bô lão” kiểu Balzac”... [13; 85]. Đáng chú ý nhất vào những năm 1960, là ý kiến của nhà văn Pháp R. Garaudy trong hai bài viết của ông: “Về một chủ nghĩa hiện thực vô bờ bến (1963) và “Vì một chủ nghĩa hiện thực thế kỷ XX” (1968). R. Garaudy chủ yếu nói đến “huyền thoại” trong tác phẩm của Kafka, ông ca ngợi Kafka trong việc sáng tạo ra một hiện thực mới – “hiện thực có tầm Prometheus”. Những hình tượng của Kafka được R. Garaudy nâng lên thành những “mô hình”, những “huyền thoại” đi trước thời đại, nhân vật K trong tác phẩm Lâu đài đã trở thành “người báo tin cuộc đời mới, mang quanh mình một quầng ánh sáng và bí ẩn”. Và tác giả khẳng định: “chủ nghĩa hiện thực trong thời đại chúng ta là công việc sáng tạo những huyền thoại (myth) là chủ nghĩa hiện thực có tầm Prometheus” [7], sứ mệnh của tác phẩm nghệ thuật không phải là tái hiện thế giới mà là biểu hiện những hoài bão của con người. Mặc dù những ý kiến của Garaudy có 4 thể có khiên cưỡng ít nhiều, song nó cũng mở ra hướng nhìn mới về hiện thực và cách phản ánh về hiện thực. Dù ít dù nhiều Garaudy đã chỉ ra “tính huyền thoại”, đây là nét chung mà nhiều nhà nghiên cứu phương Tây tìm thấy trong tác phẩm Kafka. Một người không thể không nhắc tới là Milan Kundera, nhà lý luận tiểu thuyết đặc sắc, “nhà văn Tiệp Khắc viết bằng tiếng Pháp”, một người rất tâm huyết với những sáng tác của Kafka, ông phát hiện ra và chỉ ra “tính nước đôi” trong tiểu thuyết và nhân vật tiểu thuyết Kafka. Với M. Kundera, Kafka là một người đánh thức trí tưởng tượng, vốn là ngọn nguồn của mọi loại hình nghệ thuật: “Sự tưởng tượng bị ngủ quên trong thế kỷ XIX được Franz Kafka thình lình đánh thức dậy, và ông đã thành công trong cái việc mà những nhà siêu hiện thực sau ông đã cố sức nhưng không làm được: trộn lẫn cái mơ và cái thật” [3; 23]. Những ý kiến của ông về “tính chất Kafka” là những gợi mở quý báu cho những người nghiên cứu về Kafka sau ông. Cho tới cuối những năm 1980, một tiểu thuyết gia Đức, Martin Walser vẫn xác nhận ảnh hưởng của một nhà văn như Kafka: “Kĩ thuật viết của Kafka nhằm đột nhiên gây một sự trục trặc trong thế giới ổn định, đối với tôi đặc biệt có hiệu quả” [9; 107].. Còn nhà kí hiệu học Umberto Eco lại phát hiện ra “tính chất mở” ở tác phẩm của Kafka: “Tác phẩm của Kafka tiêu biểu cho loại tác phẩm mở: Vụ án, Lâu đài, Đợi chờ, Kết án, Tra tấn không thể được hiểu theo nghĩa đen”. Dịch giả Primo Levi, người Ý gốc Thái, đã từng dịch Vụ án của Kafka thì nhận xét: “ông để độc giả tự xoay sở về ý nghĩa những câu truyện hoang tưởng đó... chỉ riêng cuốn Vụ án có chừng 20 cách giải thích”. Tuy nhiên, có một điểm chung là hầu như những phát biểu của Kafka đều chủ yếu tập chung hai tiểu thuyết Vụ án và Lâu đài. Các truyện ngắn của ông ít được nhắc đến hơn. Trên trang web www.themodernword.com [26], Franz Kafka cũng được giới thiệu như một đại diện tiêu biểu. Với việc nêu ra các lớp ý nghĩa của các tác phẩm chẳng hạn cuộc hành trình của nhân vật K. trong Lâu đài có thể là “sự tìm kiếm cộng đồng”, “con đường tìm Thiên Chúa”, “sự phê phán thói quan liêu” hay “lời tiên tri” – tác giả đã nhấn mạnh tính chất đa nghĩa trong tiểu thuyết của Franz Kafka. Dựa vào đây, ít nhiều chúng tôi cũng có được cái nhìn toàn diện hơn về những ẩn ý của tác phẩm, từ đó thấy được quan niệm nghệ thuật của Franz Kafka. Gần đây, trên hai trang văn học talawas.org và tienve.org [24] có đăng tải một số bài viết của dịch giả Jennifer Tran về các truyện ngắn của Kafka. Tác giả viết nhận 5 định về sự gần gũi giữa Chekhov và Kafka khi nghiên cứu đoạn mở đầu truyện Cây vĩ cầm của Rothschild của Chekhov với Một thầy thuốc nông thôn của giả Kafka. Tác giả Phạm Thị Hoài khi dịch truyện ngắn Josephine, nữ ca sĩ hay Dân chuột đã cảm nhận được âm hưởng “giễu cợt, riết róng, ám ảnh và tuyệt vọng... Tràn đầy tính nước đôi như mọi tác phẩm khác của Kafka”. Reiner stach, một học giả về Kafka ở Hamburg, vừa công bố cuốn tiểu sử mới về nhà văn Kafka mang tên: The Decisve Years (tạm dịch là: Những năm tháng quyết định), “lại đặc biệt chú ý đến giá trị của 511 bức thư và ảnh mà Kafka gửi cho Felice Bauer – người mà cuối cùng nhà văn vẫn quyết định cắt đứt sau hai lần hứa hôn”, Stach cho rằng ngày Kafka gặp lại nhà M. Bord, ngày 13/8/1912, là ngày “sẽ góp phần làm thay đổi bộ mặt của một nền văn học viết bằng tiếng Đức trên bản đồ văn học thế giới” [25; 1]. Khi bước vào con đường văn học phi lý Albert Camus đã từng coi Kafka và Dostoievski là thần tượng của ông. Nathalie Sarraute, một đại diện tiêu biểu của tiểu thuyết Mới cũng nhận định: “Kafka là thiên tài của thời đại chúng ta, Kafka là nhà tiên tri báo trước kỉ nguyên của con người phi lý, con người không có sự sống”. Trong bài viết về sáng tác của Franz Kafka, A. karelsski đã khẳng định: “Cuộc các mạng thầm lặng của Kafka, trước hết ở chỗ trong khi vẫn giữ toàn bộ cấu trúc truyền thống của giao tiếp ngôn ngữ, tính mạnh lạc và logic cú pháp – ngữ pháp, tính mạnh lạc của hình thức ngôn ngữ của nó, ông đã đưa vào hệ thống có tính phi logic, tính rời rạc, tính phi lý quá quắt đầy phẫn khích của nội dung” [16; 187]. Có thể thấy rằng, đây là ý kiến chính xác thể hiện cái nhìn, sự đánh giá về thế giới nghệ thuật của Kafka trong việc nhận thức và mô tả “cái phi lý”. Đó cũng chính là sự gợi mở quan trọng cho đề tài khóa luận này. Ở Việt Nam, cũng đã có một số nhà nghiên cứu, phê bình nhắc tới cái phi lý trong tác phẩm Kafka. Tác giả Phạm Văn Sỹ trong cuốn Về tư tưởng và văn học Phương Tây hiện đại cho thấy “Kafka muốn tạo kiểu sáng tác mang tính huyền thoại về sự phi lý của tồn tại và con người”. Còn trong công trình Cái kỳ ảo trong tác phẩm của Balazac, PGS.TS Lê Nguyên Cẩn đã thấy trong tác phẩm của Kafka “Những cái thông thường, những cái hợp quy luật cứ bị cái phi lý lôi đi tuồn tuột, mất tăm mất dạng” [7; 54]. Tác giả Trương Đăng Dung trong bài viết Thế giới nghệ thuật của Franz Kafka cũng đã đưa ra cái nhìn sâu sắc về “cái phi lý” trong tác phẩm Kafka, “về thế giới phi lý, về sự tha hóa của con người trong vòng vây của những nhà thiết chế quyền lực vô hình” [20; 939]. Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Dân là người bỏ ra nhiều 6 công sức để nghiên cứu về văn học phi lý, đặc biệt là “cái phi lý” trong tác phẩm Kafka. Với hàng loạt bài viết: Kafka với cuộc chiến chống phi lý [7], cuốn nghiên cứu văn học – lý luận và ứng dụng [8] với bài viết: “cái phi lý trở thành đối tượng nhận thức” [7; 182]. Tác giả cũng khẳng định rằng cái mới của Kafka trong văn học đương thời là “đã khai phá một mảng đề tài khó xử lý: cái phi lý cả cuộc đời” [8; 18]. Năm 2002, cuốn văn học phi lý [8], tác giả Nguyễn Văn Dân khảo luận và giới thiệu, tổng hợp những bài viết trước đây của ông, đem lại một cái nhìn mới có thể nói là “tổng quát” hơn về “cái phi lý” trong thế giới nghệ thuật Kafka. Tác giả còn khẳng định vai trò mở đường quan trọng của Kafka đối với dòng văn học phi lý và phân tích đưa ra ý kiến của mình về đặc điểm “cái phi lý” trong tác phẩm Kafka. Những phát hiện và tổng hợp của tác giả Nguyễn Văn Dân về văn học phi lý và “cái phi lý” là những gợi mở hết sức quan trọng cho người viết trong quá trình tìm hiểu nghệ thuật biểu hiện “cái phi lý” trong tác phẩm Vụ án của Kafka. Tác giả Lê Huy Bắc lại chỉ ra một khía cạnh khác trong nghệ thuật mô tả “cái phi lý” của Kafka: “cái phi lý là mảng hiện thực độc đáo nữa của Kafka... Biểu hiện đầu tiên của cái phi lý ở Kafka là nhân vật không hề biết mình từ đâu tới, tồn tại vì lý do nào. Kiểu nhân vật hoang mang – lạc lối...” [3; 128]. Dù tiếp cận ở nhiều khía cạnh khác nhau và nhiều ý kiến còn riêng lẻ song đây thật sự là những gợi mở quan trọng cho chúng tôi tập trung vào đề tài Nghệ thuật biểu hiện “cái phi lý” trong tác phẩm Vụ án của Franz Kafka. Franz Kafka đã qua đời gần một thế kỷ, vậy mà sự trôi nổi quanh thế giới nghệ thuật và con người ông vẫn không ngừng lặng, mỗi ngày nó lại phát lộ những hướng tìm tòi mới, niềm say mê vẫn luôn mới mẻ. 2.2. Tình hình nghiên cứu Franz Kafka ở Việt Nam Kafka và tác phẩm của ông đến Việt Nam có phần bình lặng hơn, chủ yếu trong giới phê bình và mới chỉ bắt đầu rộ lên ở thập kỷ 1970. Tiêu biểu cho giai đoạn này là các công trình nghiên cứu của hai tác giả Đỗ Đức Hiểu và Hoàng Trinh. Giáo sư Đỗ Đức Hiểu trong công trình phê phán văn học Hiện sinh chủ nghĩa [16], gọi Kafka là “bậc tiền bối” của văn học hiện sinh chủ nghĩa, một loại văn học suy đồi, có mục đích xấu xa, phủ nhận chủ nghĩa hiện thực. Tác giả cho rằng: “Thế giới Kafka là thế giới đầy lo âu, một thứ lo âu siêu hình, không nguyên nhân cụ thể, không thể lý giải (...), tính chất thần bí bao trùm tác phẩm của Kafka” [15; 90]. Giáo sư Hoàng Trinh trong 7 công trình nghiên cứu Phương Tây – văn học và con người [23], nhận thấy Kafka là một nhà văn viết về “thân phận con người” trong thế giới “tha hóa”, “huyền thoại”. Tác giả khẳng định Kafka là nhà văn thoát ly hiện thực đời sống xã hội, không dám dấn thân, “không đủ sức nhìn ra bộ mặt thật của xã hội”, mang tinh thần bi quan và bất lực, mặc dù ông vẫn phát biểu rằng Kafka “đã lặng lẽ trút vào tác phẩm của ông cả nỗi căm giận, oán ghét của những con người không tổ chức, không tiền đồ, thậm chí không có một chỗ để sống cho yên tấm thân” [23]. Điều này cũng dễ hiểu, bởi vì thời gian này,đất nước ta đang trong giai đoạn đấu tranh quyết liệt, một mất, một còn với đế quốc Mỹ ở Miền Nam, các nhà phê bình chân chính cần vững vàng đứng trên quan điểm phê bình Mác xít, nhằm ngăn chặn luồng tư tưởng phương Tây phản động, dựa vào văn học để lôi cuốn quần chúng. Đồng thời cũng để tránh sự xáo trộn, không có lợi cho cách mạng, trong tư tưởng văn học nghệ thuật nước nhà ở giai đoạn chính trị nhạy cảm trong giai đoạn này. Đến cuối những năm 80, 90 của thế kỷ XX rải rác có một số công trình nghiên cứu nhắc đến Franz Kafka trong cuốn về tư tưởng và văn học hiện đại phương Tây, trên quan điểm phê bình Mác xít, tác giả Phạm Văn Sỹ nhận định: “đúng là trong tác phẩm Kafka chúng ta có thể thấy một số yếu tố hiện thực về tình trạng bất công, tình trạng quan liêu của xã hội đương thời (...),những tư tưởng siêu hình của Kafka phủ lên những yếu tố đó, cái thế giới hiện thực của con người bị bao phủ bởi lớp sương mù của thế giới huyền thoại” [3; 314] Trong Tạp chí Văn học nước ngoài số 4, năm 1996, tác giả Nguyễn Văn Dân với bài viết Kafka với cuộc chiến chống phi lý đã chủ yếu tập trung vào phân tích tính chất phi lý như một “đối tượng nhận thức” trong tác phẩm của Franz Kafka. Nguyễn Văn Dân cho rằng: “Trong mọi trường hợp, cái phi lý của Kafka là những tấn bi kịch của con người hiện tồn trong thế giới đương thời. Kafka không phải đi tìm kiếm cái phi lý ở đâu xa như các nhà văn lãng mạn”[8] và “Kafka đã chủ trương chỉ lưu tâm đến những con người bình thường, đến những nỗi lo đời thường của họ”[8]. Như vậy, quan điểm của Nguyễn Văn Dân đã thêm một lần khẳng định quan niệm nghệ thuật của Kafka thông qua tác phẩm là về sự bất an của con người trong một thế giới phi lý. Tác giả Đặng Anh Đào, một chuyên gia nghiên cứu Kafka ở Việt Nam, hay nhắc đến Kafka trong công trình nghiên cứu của mình. Cuốn tài năng và người thường thức [12] Đặng Anh Đào khẳng định: “Kafka: viết huyền thoại về thân phận con 8 người”. Trong cuốn Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại [10], tác giả khẳng định vai trò tiên phong của Kafka trong việc khám phá những hướng đi mới trong tiểu thuyết. Khi viết về Kafka trong giáo trình Văn học Phương Tây, tác giả lại “nhận thấy sự gần gũi của ông với chủ nghĩa biểu tượng ở đầu thế kỷ” [4; 643]. Trong một công trình nghiên cứu khác, Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại, Đặng Anh Đào đã chỉ rõ những nét đổi mới về nghệ thuật trên nhiều phương diện trong tiểu thuyết mới của phương Tây. Khi phân tích những nét đổi mới này, Đặng Anh Đào đã lấy tác phẩm của Franz Kafka làm dẫn chứng minh họa. Chẳng hạn, để giải thích cho sự di động điểm nhìn từ người kể chuyện sang nhân vật, Đặng Anh Đào viết: “Di động điểm nhìn… chính là một đổi mới mà người khai phá chính là Kafka, nó là một cách để “khách quan hóa” hiện tượng. Song điểm nhìn của nhân vật Kafka, do chỉ tập trung vào một ám ảnh, lại có một ý nghĩa chủ quan đặc biệt. Bên cạnh đó, một số chi tiết nhìn qua con mắt của nhân vật chính lại có hướng ngược lại, khách quan hóa” [12; 39]. Những phân tích dạng như trên của Đặng Anh Đào đã giúp ích chúng tôi rất nhiều trong việc tìm hiểu nghệ thuật xây dựng nhân vật của Franz Kafka – được xem như biểu hiện cụ thể của quan niệm nghệ thuật về con người và thế giới của tác giả. Nhà nghiên cứu Trương Đăng Dung trong bài viết Thế giới nghệ thuật của Franz Kafka, in trong Franz Kafka, tuyển tập tác phẩm, NXB Hội nhà văn, Trung tâm văn hóa Đông Tây, 2003, khẳng định: “đối tượng trung tâm của thế giới nghệ thuật của Kafka là sự tha hóa, nỗi lo âu, sự lưu đày và cái chết” [20; 941], và Kafka “đã thể hiện bản chất của thời đại mình một cách độc đáo, và mở ra những khả năng mới cho tiểu thuyết hiện đại”. Với luận điểm trên, Trương Đăng Dung đã nhấn mạnh quan niệm nghệ thuật của Franz Kafka về con người và thế giới thể hiện qua các tác phẩm, đã đóng vai trò mở đường khai lối cho văn học hiện đại. Nhà nghiên cứu Đặng Thị Hạnh cũng công bố một số bài viết và có những nhận định ấn tượng về sáng tác của Kafka. Trên tờ Tạp chí Ngày Nay, số 10/2004 với bài viết Mắt của Kafka màu gì? [13], tác giả đã đưa ra những luận điểm khẳng định bản chất con người, tính cách và những ám ảnh trong đời sống thường ngày ảnh hưởng đến sáng tác của Kafka như thế nào. Tác giả cũng đưa ra những ý kiến phân tích về văn phong, ngôn từ , ý nghĩa của tác phẩm của Kafka: “Đọc Kafka, ta thường phải đọc lại bởi sau khi có cảm giác đọc một cái gì đấy rất trong sáng , dễ hiểu, ta lại thấy hình 9 như có một ý nghĩa gì đấy ta chưa nắm được [13; 50], “thứ văn xuôi trong veo của Kafka không hề là dễ dịch”, bởi “màu mắt của Kafka còn khó xác định nữa là chữ nghĩa của ông” [13; 51]. Nhận định của bà trong lời giới thiệu về Franz Kafka in trong Tuyển tập truyện ngắn phương Tây thế kỷ XX (tập I): “tình cảm gia đình, bối cảnh xã hội, thay đổi lịch sử... tất cả những vấn đề này ở Kafka đều gắn với dấu ấn của “sự lâu đầy và sự phi lý” [13; 43]. Đặng Thị Hạnh đã dẫn lời Suskov để khẳng định giá trị độc đáo trong tác phẩm Kafka: “Một trong những nguyên nhân quan trọng làm cho sáng tác của Kafka không chết theo ông, không phải chỉ có ở sức mạnh gây ấn tượng lớn cho các ảo ảnh của ông, mà còn ở tính chất chân thành của sự cảm thụ thế giới có tính bi đát là đặc tính riêng của tất cả các tác phẩm Kafka, không trừ một tác phẩm nào” [13; 45]. Nhìn chung, các nhà nghiên cứu vẫn xoáy chủ yếu vào tiểu thuyết và nghệ thuật tiểu thuyết Kafka, mà hai cuốn Lâu đài, Vụ án được nhắc đến nhiều nhất, vấn đề được nhắc đến nhiều vẫn là vấn đề “huyền thoại”, “thân phận con người” trong tác phẩm của Kafka. Và chủ yếu là các công trình, các bài nghiên cứu lẻ tẻ chứ chưa có chuyên luận riêng nào về Kafka. Năm 2003, nhà xuất bản văn hóa thông tin và Trung tâm ngôn ngữ Đông Tây xuất bản cuốn Franz Kafka, tuyển tập tác phẩm [20], tập hợp các tác phẩm của Kafka đã được dịch ở Việt Nam là các bài viết của những nhà nghiên cứu đầu ngành đã cho thấy bước tiến mới trong quá trình nghiên cứu, dịch Kafka ở Việt Nam. Năm 2006, cuốn Nghệ thuật Franz Kafka [2] của Lê Huy Bắc đã được Nhà xuất bản giáo dục ấn hành và tới tay độc giả. Sau một thời gian dài nghiên cứu, có thể nói đây là cuốn chuyên luận đầu tiên ở Việt Nam có tính chất khái quát, tổng hợp sâu sắc về thế giới nghệ thuật của Franz Kafka. Tác giả đã đưa ra những nhận định hết sức táo bạo về Kafka như: “Thiên tài nghịch dị”, “Người tẩy não nhân loại”, “Người khai sinh hiện thực” hay “Người viết kinh thánh hiện đại”. Điều đặc biệt là trong cuốn sách này tác giả đã đi sâu phân tích các truyện ngắn để chỉ ra bản chất và đặc trưng “Nghệ thuật gián tiếp” của Franz Kafka cùng với tính huyền thoại và các biểu tượng trong tác phẩm của nhà văn. Công trình này đã đánh một dấu mốc quan trọng trong phê bình văn học, đặc biệt trong việc in dấu tên tuổi cũng như thế giới nghệ thuật của Franz Kafka vào những độc giả ở Việt Nam. Mới đây, năm 2007 luận văn Nghệ thuật biểu hiện cái phi lý trong tác phẩm Franz Kafka [22] của Nguyễn Thị Thắng đã đi sâu nghiên cứu các tác phẩm của Franz 10 Kafka để tìm ra nghệ thuật biểu hiện “cái phi lý” của Franz Kafka. Luận văn có đóng góp trong việc nghiên cứu về Kafka ở Việt Nam, hướng người đọc tới một cách tiếp cận mới trong việc tìm hiểu các tác phẩm Fanz Kafka. 3. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi tôi chọn để nghiên cứu đó là nghệ thuật biểu hiện “cái phi lý” trong tác phẩm Vụ án của Franz Kafka đã được dịch và giới thiệu ở Việt Nam, được in trong cuốn Franz Kafka, tuyển tập tác phẩm. 4. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tượng chúng tôi chọn để nghiên cứu, khảo sát là tác phẩm Vụ án của Franz Kafka đã được dịch và giới thiệu ở Việt Nam, được in trong cuốn Franz Kafka tuyển tập tác phẩm. 5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 5.1. Mục đích Với đề tài: Nghệ thuật biểu hiện “cái phi lý” trong tác phẩm Vụ án của Franz Kafka, chúng tôi chủ yếu tập trung nghiên cứu những thủ pháp nghệ thuật tiêu biểu được nhà văn sử dụng để mô tả “cái phi lý” trên ba bình diện của tác phẩm: Không gian nghệ thuật, nhân vật và chi tiết nghệ thuật. Kết hợp với việc tìm hiểu các thủ pháp nghệ thuật trong xây dựng các tác phẩm để biểu hiện “cái phi lý”, chúng tôi muốn hướng đến việc chỉ ra và làm sáng tỏ những cách tân nghệ thuật độc đáo của Franz Kafka so với những nhà cách tân nghệ thuật văn xuôi bấy giờ. Kafka vừa là người mở đường tài tình, vừa là người lưu giữ bí mật, nên những gì ông để lại đến ngày nay vẫn luôn mới, và không phải là một bài học dễ thuộc, dễ làm theo. Hiểu Kafka đã khó, viết về tác phẩm của ông càng không đơn giản. Song chúng tôi rất muốn bằng sự hăng say nghiên cứu khoa học của mình sẽ góp phần quảng bá rộng hơn hình ảnh, con người và giá trị nghệ thuật trong sáng tác của Kafka đến những thế hệ độc giả tiếp theo. 5.2. Nhiệm vụ Nhiệm vụ của khóa luận này là làm sáng tỏ nghệ thuật mà Kafka sử dụng để biểu hiện cái phi lý trong tác phẩm Vụ án của ông. Qua đó thấy được những sáng tạo nghệ thuật của ông độc đáo, khác lạ so với các nhà văn đương thời. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu: Để hoàn thành khóa luận này chúng tôi tiến hành nghiên cứu tác phẩm Vụ án của Franz Kafka theo hướng thi pháp học kết hợp với một số thao tác: 11 6.1. Phân tích – bình giá Tôi sử dụng phương pháp này để phân tích các chi tiết nghệ thuật như: Biểu tượng y phục, nhân vật, không gian, thời gian qua đó thấy và hiểu rõ hơn cái phi lý trong tác phẩm Vụ án của Franz Kafka. Để thấy Kafka khác với các nhà văn cùng thời, thể hiện rõ sự sáng tạo của Kafka. 6.2. Thống kê – phân loại Với tác phẩm này chúng tôi lựa chọn phương pháp thống kê để thống kê để thống kê các nhân vật dị tật trong tác phẩm, qua đó có thể thấy Kafka xây dựng trong tác phẩm những nhân vật kì dị đầy bất thường trong một thế giới ngập tràn cái phi lý. Tôi cũng lựa chọn phương pháp phân loại để phân loại các chi tiết nghệ thuật để dễ dàng đi sâu tìm hiểu. 6.3. So sánh Tôi cũng sử dụng phương pháp so sánh để so sánh lối viết văn của Kafka với các nhà văn khác để thấy rõ hơn lối viết văn sáng tạo của Franz Kafka. 7. Đóng góp của khóa luận Mạnh dạn thử sức với đề tài này, chúng tôi mong muốn được góp một tiếng nói “tri âm” khi phân tích sâu hơn một số phương diện nghệ thuật đặc sắc trong tác phẩm Vụ án của Kafka. Có thể nói đây là khóa luận đầu tiên đề cập và phân tích có hệ thống các thủ pháp nghệ thuật tiêu biểu thể hiện “cái phi lý” trong tác phẩm Vụ án của Kafka với tác phẩm Vụ án của tác giả đã được dịch và xuất bản ở Việt Nam. Chúng tôi đã đưa ra những ý kiến khá mới mẻ, trên quan điểm riêng và cá nhân của người nghiên cứu, ở chương một chúng tôi trình bày những vấn đề chung về tác giả, tác phẩm, và những định nghĩa về khái niệm. Ở chương hai không gian phi lý, chương ba nhân vật phi lý, chúng tôi vừa hệ thống vừa lý giải sâu sắc hơn các thủ pháp nghệ thuật trong việc xây dựng nhân vật, chương bốn là những chi tiết phi lý trong tác phẩm Vụ án của Kafka. Từ đó có thể thấy được tài năng nghệ thuật của tác giả. Trăn trở với thế giới nghệ thuật của “thiên tài Do Thái” này, chúng tôi không khỏi hi vọng sẽ là chiếc cầu nối để bạn đọc cùng bước lên “trên hành trình chân lý Kafka”. 12 8. Cấu trúc của khóa luận Sau phần mở đầu và kết luận là các chương: Chương 1: Những vấn đề chung Chương 2: Không gian phi lý Chương 3: Nhân vật phi lý Chương 4: Chi tiết phi lý 13 CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Tác giả 1.1.1. Gia đình Kafka chào đời ngày 3 tháng 7 năm 1883 ở gần quảng trường Altstadter ở Praha, khi ấy thuộc Đế quốc Áo - Hung. Gia đình ông là những người Do Thái Ashkenazi thuộc tầng lớp trung lưu. Cha ông, Hermann Kafka (1852-1931), là con thứ tư của Jacob Kafka, một người mổ thịt. Ông Jacob đã đưa gia dình Kafka chuyển tới Praha từ Osek, một làng người Séc có đông dân Do Thái ở gần Strakonice ở bắc Bohemia. Từ chỗ là một người chào hàng lưu động, ông vươn lên trở thành một ông chủ bán lẻ quần áo và vật trang trí, thuê tới 15 người làm thuê, sử dụng hình ảnh quạ gáy xám (trong tiếng Séc gọi là kavka) làm logo thương mại. Mẹ của Kafka, Julie (1856-1934), là con gái một nhà buôn bán lẻ giàu có ở Poděbrady tên là Jakob Lowy và được học hành tử tế hơn chồng bà. Cha mẹ của Kafka chắc đã nói một thứ tiếng Đức pha Yiddish (đôi khi gọi là Mauscheldeutsch), nhưng do tiếng Đức là phương tiện giao tiếp xã hội nên họ hẳn đã khuyến khích con cái nói tiếng Thượng Đức. Jacob và Julie có sáu người con, trong đó Franz là con cả. Hai em trai của Franz, Georg và Heinrich, chết yểu trước khi Franz lên bảy; ba em gái là Gabriele (Ellie) (1889–1944), Valerie (Vallie) (1890–1944) và Ottilie (Ottla) (1892–1943). Gia đình Kafka có một người hầu gái sống cùng họ trong một căn hộ chật hẹp. Phòng của Franz thường xuyên lạnh giá. Vào tháng 11 năm 1913, gia đình chuyển tới một căn hộ rộng hơn dù trước đó Ellie và Vallie đã lấy chồng và dọn khỏi nhà cũ. Đầu tháng 10 năm 1914, không lâu sau khi Thế chiến thứ nhất bùng nổ, các cô em này mất tin tức về chồng họ và lại trở về ngôi nhà mới này. Cả Ellie và Vallie giờ đã có con. Franz, khi đó ở tuổi 31, rời đến căn hộ yên tĩnh của Vallie và lần đầu tiên ra ở riêng. Herman được nhà viết tiểu sử Stanley Corngold miêu tả là một “thương gia to lớn, ích kỉ, hống hách” [27]; còn chính Franz Kafka gọi ông là “một người họ Kafka thực thụ xét về sự cường tráng, sức khỏe, ăn uống, giọng ầm ĩ, sự hùng biện, tính tự mãn, thói gia trưởng, khả năng chịu đựng, sự nhanh trí, hiểu bản chất con người” [27] . Trong những ngày buôn bán, bà Julie cũng dành có khi tới 12 giờ một ngày để tham gia cùng chồng trong việc kinh doanh của gia đình nên cả hai ông bà đều vắng nhà. Cho nên, tuổi thơ của Kafka có phần cô đơn và lũ trẻ trong nhà chủ yếu được nuôi 14 dưỡng bởi các cô giáo dạy trẻ và người hầu khác nhau. Mối quan hệ không yên ổn của Franz Kafka với người cha thể hiện rõ ràng trong bức “Thư gửi cha” (Brief an den Vater) dài hơn 100 trang, trong đó ông phàn nàn đã chịu tác động sâu sắc từ tính cách khắt khe và độc đoán của cha ông; trái lại, mẹ ông ít lời và nhút nhát. Hình ảnh về người cha gia trưởng có một dấu ấn rõ nét trên văn chương của Kafka. 1.1.2. Học tập Từ 1889 tới 1893, Kafka học ở một trường tiểu học nam sinh Đức (Deutsche Knabenschule) ở Fleischmarkt (tức “chợ bán thịt”), nay là đường Masná, Praha. Nền giáo dục truyền thống Do Thái của ông kết thúc với lễ thành niên Bar Mitzvah ở tuổi 13. Kafka chưa bao giờ phục vụ lễ ở giáo đường Do Thái và chỉ cùng cha tới đó dự bốn ngày lễ chính mỗi năm. sau khi rời trường tiểu học năm 1893, Kafka được nhận vào một trường trung học nhà nước kiểu cổ điển nghiêm khắc, Altstadter Deutsches Gymnasium, nằm trong khuôn viên Cung Kinský ở quảng trường Altstadter. Tiếng Đức là ngôn ngữ giảng dạy, nhưng Kafka cũng nói và viết được tiếng Séc; bởi ông học tiếng Séc ở trung học khoảng 8 năm, đạt những điểm tốt trong môn này. Ông được khen ngợi về tiếng Séc của mình, nhưng chưa từng tự coi mình là thành thạo nó. Ông đỗ kì thi tốt nghiệp trung học (tiếng Đức gọi là Matura) năm 1901. Đăng ký vào trường Đại học Karl-Ferdinands của Praha năm 1901, ban đầu Kafka theo ngành hóa học, nhưng chuyển sang ngành luật chỉ sau hai tuần. Mặc dù ông không hứng thú với lĩnh vực này nhưng nó hứa hẹn nhiều cơ hội công việc làm hài lòng cha ông. Hơn nữa, ngành luật đòi hỏi khóa học dài hơn, cho Kafka thì giờ để theo các lớp về nghiên cứu tiếng Đức và lịch sử nghệ thuật. Ông cũng tham gia vào một câu lạc bộ sinh viên tên là “Hội trường Đọc sách và Giảng bài của Sinh viên tiếng Đức” (Lese-und Redehalle der Deutschen Studenten), nơi tổ chức các sự kiện văn học, đọc sách và các hoạt động khác. Trong số những bạn bè của Kafka có nhà báo Felix Weltsch học triết, diễn viên Yitzchak Lowy đến từ một gia đình Do Thái nhánh Hasidic chính thống ở Warszawa, và các nhà văn Oskar Baum và Franz Werfel. Vào năm cuối ở đại học, Kafka gặp M. Bord, một nghiên cứu sinh ngành luật, và họ trở thành bạn suốt đời của nhau. Bord sớm nhận ra rằng, mặc dù Kafka nhút nhát và hiếm khi nói, những gì ông nói ra thường sâu sắc. Kafka là một độc giả nghiện sách suốt đời; cùng với Bord, ông đã đọc cuốn Protagoras của Plato bằng tiếng Hy Lạp cổ 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất