Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghề may ở xã vân từ, huyện phú xuyên, thành phố hà nội (tt)...

Tài liệu Nghề may ở xã vân từ, huyện phú xuyên, thành phố hà nội (tt)

.PDF
25
262
80

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC Xà HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC Xà HỘI LÊ THỊ HUẾ NGHỀ MAY Ở Xà VÂN TỪ, HUYỆN PHÚ XUYÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành: Văn hóa học Mã số: 60310640 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HÓA HỌC HÀ NỘI, năm 2017 C«ng tr×nh ®-îc hoµn thµnh t¹i: Häc viÖn Khoa häc x· héi Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: GS.TS. NguyÔn Xu©n KÝnh Ph¶n biÖn 1: ........................................:......................................................... ................................................................................................. Ph¶n biÖn 2: ................................................................................................. ................................................................................................. LuËn văn sÏ ®-îc b¶o vÖ tr-íc Héi ®ång chÊm luËn văn th¹c sÜ häp t¹i: Häc viÖn Khoa häc x· héi................giê..............ngµy..............th¸ng ............. n¨m.............. Cã thÓ t×m hiÓu luËn v¨n t¹i: Th- viÖn Häc viÖn Khoa häc x· héi MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Phú Xuyên là một vùng đất được mệnh danh là “đất trăm nghề” của tỉnh Hà Tây cũ, nay thuộc thành phố Hà Nội. Trong những năm gần đây, việc khôi phục, phát triển các làng nghề truyền thống là một trong những chiến lược phát triển kinh tế - văn hóa của huyện. Ngoài những làng nghề truyền thống nổi tiếng có lịch sử lâu đời như khảm trai (Chuyên Mỹ), đan cỏ tế (Phú Túc), nặn tò he (Phượng Dực)… trên địa bàn huyện còn phát triển một số nghề mới mang lại thu nhập cao cho người dân đó là nghề may com lê (Vân Từ), nghề giày da (Phú Yên). Trong đó nghề may com lê ở Vân Từ đã và đang góp phần tích cực làm nên bức tranh tươi sáng văn hóa các làng nghề ở Phú Xuyên. Nghiên cứu về nghề may ở Vân Từ chúng ta không chỉ thấy được diễn trình của nghề may từ xưa đến nay mà còn thấy được vai trò, vị trí và những tác động của nó đến đời sống kinh tế - văn hóa của người dân Vân Từ nói riêng và người Phú Xuyên nói chung. Việc phát triển thành công nghề trong đó có nghề may là một hướng đi đúng trong chủ trương ly nông bất ly hương ở Vân Từ hiện nay. Đây là một “bài toán khó” mà nhiều địa phương khác chưa có hướng giải quyết. Chính vì thế, đối với chúng tôi nghề may ở Vân Từ có một sức hấp dẫn riêng và cần phải được nghiên cứu cụ thể góp phần nhận diện bức tranh văn hóa làng nghề ở Vân Từ nói riêng và ở huyện Phú Xuyên nói chung một cách đầy đủ hơn. Chính điều này đã thôi thúc tác giả chọn đề tài “Nghề may ở xã Vân Từ, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội” làm luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Ở phần này chúng tôi nêu một vài công trình tiêu biểu trong nghiên cứu về nghề và làng nghề truyền thống. Hầu hết các công 1 trình này đều đề cập đến những nghề thủ công truyền thống ở nước ta mà nhiều nhất là ở đồng bằng Bắc Bộ với một số nghề lâu đời như nghề đúc đồng, nghề gốm, nghề mộc, nghề thêu, nghề đan lát…Từ những nhận xét, kết luận của các tác giả đã cho chúng tôi cơ sở lý luận về nghề và làng nghề truyền thống, để từ đó triển khai và thực hiện đề tài nghiên cứu của mình. Trong phạm vi hẹp, viết về nghề may và nghề may ở Vân Từ có một số công trình và bài viết trên báo chí. Nhìn chung những tài liệu viết về nghề may xã Vân Từ còn khá ít ỏi và mới chỉ mang tính chất giới thiệu về nghề may. Chính vì vậy, trên cơ sở những tài liệu đã đọc, chúng tôi có điều kiện nghiên cứu sâu hơn và đầy đủ hơn về nghề may ở Vân Từ. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu: Tìm hiểu một địa phương thành công trong hướng ly nông bất ly hương. - Nhiệm vụ nghiên cứu: Giới thiệu tổng quan xã Vân Từ; trình bày diễn trình nghề may com lê ở xã Vân Từ; trình bày những biến đổi trong nghề may xã Vân Từ hiện nay; suy nghĩ về những vấn đề đang đặt ra như nghệ nhân làng nghề, xây dựng thương hiệu, phát triển làng nghề kết hợp với du lịch. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tƣợng nghiên cứu: Nghề may ở xã Vân Từ từ sau khi đất nước thống nhất đến nay. - Phạm vi nghiên cứu: Nghề may diễn ra ở Vân Từ từ sau khi đất nước thống nhất đến nay. Ngoài ra luận văn cũng tìm hiểu những người thợ Vân Từ đã làm nghề may ở Hà Nội trước 1975. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Phƣơng pháp luận: Chúng tôi quan niệm nghề may Vân Từ gắn với bối cảnh tức là gắn với làng nghề Vân Từ nói riêng, đặt nghề và 2 làng nghề trong bối cảnh nghề và làng nghề huyện Phú Xuyên nói chung. - Phƣơng pháp nghiên cứu: Để hoàn thành luận văn này chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: + Phương pháp phân tích, tổng hợp các nguồn tư liệu thành văn đã viết về làng nghề để có cơ sở hiểu biết trước khi bắt tay vào nghiên cứu đề tài. + Phương pháp điền dã dân tộc học với nhiều thao tác như: Quan sát, tham dự, phỏng vấn sâu, phỏng vấn nhóm. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Phác thảo diện mạo nghề may Vân Từ trong bối cảnh nghề và làng nghề ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội. - Nhận diện một địa phương thành công trong mô hình ly nông bất ly hương. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm có ba chương như sau: Chương 1: Tổng quan về xã Vân Từ, chương 2: Diễn trình nghề may com lê ở xã Vân Từ, chương 3: Những biến đổi trong nghề may Vân Từ và một số vấn đề đặt ra. Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LÀNG NGHỀ VÀ TỔNG QUAN VỀ Xà VÂN TỪ 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1. Khái niệm nghề Theo Từ điển tiếng Việt: “ Nghề là công việc làm theo sự phân công lao động của xã hội hay nghề khái niệm chỉ hoạt động sản xuất kinh doanh” . 1.1.2. Khái niệm làng nghề và làng nghề truyền thống 3 Có nhiều tác giả đưa ra nhiều cách hiểu khác nhau về làng nghề và làng nghề truyền thống. Ở phần này chúng tôi điểm qua một số khái niệm của các nhà nghiên cứu đi trước để làm cơ sở lý luận cho đề tài. Về khái niệm làng nghề: Trong cuốn Tổng tập nghề và làng nghề truyền thống Việt Nam, làng nghề được định nghĩa như sau: “Làng nghề là những làng trước đây sống dựa vào nông nghiệp do điều kiện khách quan nào đó (vị trí địa lý thuận lợi, nghề phụ có thị trường tiêu thụ trên bình diện vùng, miền…) nên đã chuyển sang sản xuất hàng thủ công mang tính chuyên biệt những vẫn không tách khỏi nông nghiệp, có quy trình, bí quyết làm nghề nhất định. Những mặt hàng do thợ thủ công sản xuất có tính thẩm mỹ và có thị trường tiêu thụ rộng lớn. Về khái niệm làng nghề truyền thống: Tác giả Dương Bá Phượng cho rằng, làng nghề là một thiết chế gồm hai bộ phận cấu thành là “làng” và “nghề”….Là làng ở nông thôn có một (hoặc một số) nghề thủ công nghiệp tách hẳn ra khỏi nông nghiệp và kinh doanh độc lập. Làng nghề truyền thống là những làng nghề xuất hiện lâu đời trong lịch sử và còn tồn tại cho đến ngày nay, là những làng nghề tồn tại hàng trăm năm, hàng nghìn năm. 1.2. Tổng quan về xã Vân Từ 1.2.1. Vị trí địa lý, dân cƣ và lịch sử hình thành xã Vân Từ 1.2.1.1. Vị trí địa lý Xã Vân Từ nằm bên tả ngạn sông Nhuệ, phía Tây Nam huyện Phú Xuyên, cách trung tâm Hà Nội khoảng gần 40 km. Phía Bắc giáp thị trấn Phú Xuyên, xã Sơn Hà, xã Tân Dân; phía Đông giáp xã Phúc Tiến; phía Nam giáp xã Phú Yên; phía Tây giáp xã Chuyên Mỹ và xã Minh Đức (huyện Ứng Hòa). Xã được chia làm 10 thôn gồm: Chản, làng Chính, làng Chung, làng Cựu, làng Thượng, làng Trãi, làng Từ Thuận và Dịch Vụ. 4 1.2.1.2. Dân cƣ Theo một số nguồn tư liệu và lời kể của người dân địa phương thì các làng ở Vân Từ có lịch sử lâu đời. Hiện nay tổng dân số toàn xã là 5.790 người với 1.706 hộ, trong đó đều là người kinh. Trong xã có nhiều dòng họ cùng sinh sống như dòng họ Trần (chủ yếu ở thôn Cựu), dòng họ Nguyễn (chủ yếu ở thôn Từ Thuận), dòng họ Phạm, Kiều…. 1.2.1.3. Lịch sử hình thành xã Vân Từ Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 xã Vân Từ vốn từ hai xã Từ Thuận và Vân Hoàng thuộc tổng Thường Xuyên. Cách mạng tháng tám năm 1945 thành công là mốc lịch sử trọng đại khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tất cả các mặt của xã hội đều có sự chuyển biến lớn, trong đó hệ thống hành chính cũng thay đổi so với trước đó. Xã Từ Thuận được đổi thành xã Từ Điều. Đến tháng 1 năm 1946 hai xã Vân Hoàng và Từ Điều hợp nhất lấy tên là xã Vân Từ. Năm 1950 xã Vân Từ sáp nhập với xã Phú Yên thành xã Trần Phú. Năm 1957 lại tách xã Trần Phú làm 2 xã như cũ là Phú Yên và Vân Từ như ngày nay. 1.2.2. Nghề nghiệp Vốn là xã thuộc đồng bằng chiêm trũng, nên việc sản xuất nông nghiệp của người dân gặp muôn vàn khó khăn. Vân Từ nằm ngay cạnh Sông Nhuệ, đó là khúc sông hình chữ S, hai bờ sông không có đê, lòng sông nông, mùa mưa nước từ đầu nguồn đổ về ở đây trở thành túi nước của huyện Phú Xuyên. Hiện nay hệ thống kênh mương đã được cải tiến, đưa nước, thoát nước vào đồng ruộng theo ý muốn của người nông dân nên việc sản xuất nông nghiệp cũng thuận lợi hơn, năng suất lúa đạt 233kg/ sào/vụ, một năm làm hai vụ. Chính vì việc sản xuất nông nghiệp rất vất vả nên người Vân Từ đã làm thêm nhiều nghề thủ công khác nhau để kiếm sống, trong 5 đó có nghề may com lê, nghề đóng giày, khâu giày, nghề khảm trai…Trong đó nghề may hiện nay được xem là một nghề cính của người Vân Từ. 1.2.3. Tín ngƣỡng, phong tục tập quán Về tín ngưỡng – tôn giáo, ngoài tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt thì ở đây còn có tín ngưỡng thờ thành hoàng làng. Đối với những hộ làm nghề may còn có thêm tín ngưỡng thờ tổ nghề may. Ở Vân Từ người hầu hết đại đa số người dân đều tin theo đạo phật. Họ thường đi lễ chùa vào ngày rằm và mùng một, hoặc gia đình có việc gì trọng đại đều lên chùa thắp hương và hỏi ý kiến của sư thầy. Ngày nay ở Vân Từ vẫn còn giữ được những phong tục tốt đẹp như cưới hỏi, mừng thọ, tang ma… Tuy nhiên để phù hợp với nếp sống mới, mỗi phong tục cũng có sự biến dổi nhất định, nhất là trong “việc cưới, việc tang và lễ hội”. Chẳng hạn như thực hiện việc tang văn minh tiết kiệm, người Vân Từ rất hưởng ứng việc khuyến khích hỏa táng theo chủ trương của thành phố Hà Nội. 1.2.4. Đình, chùa và nhà cổ * Đình làng Cũng như những vùng quê khác, đối với người Vân Từ đình làng là nơi gần gũi, quen thuộc. Đây không chỉ là nơi diễn ra các công việc hội hè, đình đám của làng mà còn là nơi mà trong tâm của mỗi người dân xa quê nhớ về. Hiện nay ở Vân Từ còn giữ lại được một số ngôi đình như: đình làng Từ Thuận, đình làng Chản, Chính, Chung, Cựu, Thượng, Vực. Trong đó đình làng Từ Thuận là một ngôi đình tiêu biểu. * Chùa làng Ứng Cử Chùa làng Ứng Cử có tên tự là Viên Quang tự, thuộc thôn Ứng Cử, xã Vân Hoàng, tổng Thường Xuyên, huyện Phú Xuyên nay là 6 chùa thôn Ứng Cử, xã Vân Từ, huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội. Chùa tọa lạc trên một khu đất rộng trên 3.000 m2, được xây dựng từ năm 1624. Chùa khởi công xây dựng khi chưa có dòng sông Nhuệ, chùa được xây hướng về phía Tây Nam, đây là thế đất tam thai ngũ nhạc. Hiện nay chùa Viên Quang còn lưu giữ được nhiều bia, một quả chuông đúc năm 1877 và 2 tấm hoành phi Tuệ nhất tâm, 13 pho tượng cổ, 1 ngôi tháp thờ nhà sư tổ Thích Thông Viên. Chùa Viên Quang là một ngôi chùa cổ mang nhiều giá trị lịch sử văn hóa của vùng đất Thăng Long xưa. Năm 2013 chùa đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp thành phố. * Chùa làng Cựu Chùa Dồi còn có tên gọi là Phúc Nhuệ tự thuộc thôn Cựu xã Vân Từ. Người dân nơi đây cho rằng chùa này rất linh ứng và cái tên “Phúc Nhuệ” ý nói Phật luôn ban phước lành cho dân như nước dòng Nhuệ Giang. Tổng thể kiến trúc của chùa gồm có: Tam quan, tiền đường, thượng điện, nhà mẫu, nhà vong, nhà tổ đường, phía sau là nhà tổ ni và một dãy nhà khác. Năm 2004 chùa xây thêm nhà vong là nơi gửi vong của những người không nơi nương tựa, những người bị chịu những oan ức. Bên trong có các bệ cao đặt bia tên của những người đã khuất. Hàng ngày cứ 12 giờ, sư thầy lại mang cơm lên và đánh chuông nhỏ và gọi tên người đã khuất để họ được về ăn cơm cửa phật. Chùa Dồi không những có nét kiến trúc cổ kính mà còn là nơi thể hiện nét văn hóa tín ngưỡng người dân làng Cựu nói chung và Vân Từ nói riêng. * Kiến trúc nhà cổ làng Cựu 7 Làng Cựu ở Vân Từ được mệnh danh là “làng biệt thự cổ”. Nơi đây còn lưu giữ được lối kiến trúc Việt cổ và lối kiến trúc mang đậm phong cách phương Tây. Thời Pháp thuộc, người thợ làng Cựu nổi tiếng với nghề may âu phục ở khắp Bắc Kỳ, nhiều người giàu lên nhanh chóng. Khi về làng, họ xây nhà theo lối kiến trúc Pháp đang thịnh hành thời đó ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng. Trong tổng thể của ngôi làng hai lối kiến trúc này không làm mất đi vẻ hài hòa mà càng làm đẹp hơn, độc đáo hơn kiến trúc của làng. Những ngôi nhà cổ kính của làng Cựu giờ đây đang đứng trước bài toán về mối quan hệ giữa việc giữ gìn di sản kiến trúc với việc đổi mới không gian sống. Nhiều gia đình không có đủ kinh tế để phục dựng những tư gia bề thế như xưa trong khi các công trình đã bắt đầu xuống cấp. Thiết nghĩ cần phải có sự vào cuộc của các cấp lãnh đạo để bảo tồn nét văn háo độc đáo này. Tiểu kết chƣơng 1 Nằm trong cái nôi của vùng văn hóa đồng bằng Bắc Bộ, Vân Từ là một trong những xã có bề dày lịch sử và văn hóa. Con người Vân Từ vốn cần cù, chịu khó và tài hoa. Với địa hình là một trong những vùng trũng nhất của huyện Phú Xuyên, việc sản xuất nông nghiệp của xã lại khó khăn gấp bội. Chính sự khắc nghiệt của điều kiện tự nhiên mà con người Vân Từ sớm tìm cho mình những nghề phụ để tăng thêm thu nhập, trong đó có nghề may com lê truyền thống. Chính nghề may đã giúp đời sống của người dân Vân Từ có sự trù phú hơn các làng quê khác trên địa bàn huyện. Người Vân Từ hiện nay luôn có ý thức giữ gìn và bảo tồn nghề may truyền thống của làng, sự phát triển của nghề là sự nỗ lực cố gắng của từng thành viên trong cộng đồng làng. Hiện nay xã Vân Từ đã trở thành một xã đạt chuẩn nông thôn mới tiêu biểu của huyện Phú Xuyên. 8 Chƣơng 2 DIỄN TRÌNH NGHỀ MAY COM LÊ Ở Xà VÂN TỪ 2.1. Nghề may Vân Từ trong bức tranh làng nghề Phú Xuyên 2.1.1. Những làng nghề chính ở Phú Xuyên Huyện Phú Xuyên từ lâu được biết đến là mảnh đất “đất trăm nghề”, hầu hết làng nào cũng có nghề và có 40 làng được thành phố Hà Nội công nhận là làng nghề. Mỗi sản phẩm truyền thống đều in đậm dấu ấn bàn tay tài hoa của những nghệ nhân đầy tâm huyết. Không chỉ mang lại đời sống ấm no, nghề truyền thống còn trở thành biểu tượng, tạo nên nét văn hóa riêng tiêu biểu cho mỗi vùng quê Phú Xuyên và điều đó đã đi vào tục ngữ, ca dao. Hiện nay trên địa bàn huyện còn bảo tồn và phát triển một số nghề thủ công tiêu biểu như: Nghề khảm trai (Chuyên Mỹ), nghề đan cỏ tết (Phú Túc), nghề nặn tò he (Phượng Dực), nghề giày da (Phú Yên). 2.1.2. Vị trí của nghề may Vân Từ trong bức tranh làng nghề Phú Xuyên Chục năm trở lại đây nhờ sự phát triển của nền kinh tế mà nghề may ở ngay tại Vân Từ đã có những bước phát triển mới, giờ đây khi nhắc đến làng nghề may Com lê người ta đều biết đến bàn tay tài hoa của người Vân Từ. Có thể nói nghề may đã và đang góp phần không nhỏ vào việc phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn xã Vân Từ nói riêng và huyện Phú Xuyên nói chung. Hiện nay kinh tế làng nghề phát triển, tỷ trọng giá trị sản xuất tiểu thủ công nghiệp làng nghề ngày càng tăng trong tổng giá trị sản xuất toàn huyện. Không chỉ thế nghề may ở Vân Từ còn là một nghề chủ lực trong chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo Quyết định 1956 của Thủ tướng Chính phủ. Nghề may com lê không chỉ góp phần vào việc giải quyết việc làm cho lao động nông thôn mà còn làm cho bức tranh văn hóa 9 các làng nghề ở huyện Phú Xuyên thêm phần đa dạng. Trong thời gian tới Vân Từ sẽ là một trong những điểm để đầu tư phát triển du lịch bên cạnh những làng nghề khác như: Nghề mộc (Tân dân) - nghề khảm trai, sơn mài (Chuyên Mỹ) - nghề đan cỏ tế (Phú Túc) - nghề nặn tò he (Phượng Dực) - giày da (Phú Yên). 2.2. Nguồn gốc và lịch sử phát triển nghề may com lê Vân Từ Theo lời kể của ông Nguyễn Văn Hòa: Khoảng thế kỷ XX nhiều thanh niên trong làng đã tìm lên Hà Nội học nghề may com lê và làm thuê cho các ông chủ lớn. Một số thợ giỏi có vốn liếng đã mở những hiệu may lớn có uy tín như: Toàn Thuận Anh, Toàn Thuận Em (ở phố Hàng Gai), Thuận Thịnh ở phố Hàng Hòm. Việc may mặc bấy giờ chỉ là phục vụ cho quan chức người Pháp và bộ phận công chức, trí thức người Việt. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, quân Pháp rút khỏi Hà Nội không lâu thì đến cuối năm 1946 chúng lại trở lại Hà Nội. Trong 9 năm kháng chiến, Hà Nội bị tạm chiếm và nghề may com lê vẫn được duy trì. Từ sau năm 1954 đến 30 tháng 4 năm 1975, nghề may com lê ở Hà Nội có phần lắng xuống. Sau khi đất nước thống nhất (năm 1975), một số thợ may tâm huyết với nghề lại lặn lội lên Hà Nội tìm các mối làm ăn, nhận hàng về gia công. Từ đó nghề may ở Vân Từ dần khởi sắc. Nhất là từ những năm 1990 khi điện lưới về với làng quê Vân Từ thì nghề may càng phát triển. Năm 1992 một số thợ lành nghề như ông Nguyễn Văn Lai, ông Nguyễn Văn Hòa, ông Đào Văn Dự đã kết hợp với UBND xã Vân Từ tổ chức mở 2 lớp dạy nghề may với số lượng 70 học viên. Từ 2 lớp học ấy mà sau này đã có nhiều thợ giỏi, trở thành những ông chủ lớn. Ban đầu những người thợ nhận hàng về may gia công cho chủ xưởng như ông Lai, ông Hòa nhưng vốn có sự khéo léo, cùng với đó là sự nhạy bén, nhanh nhẹn nắm được thị trường, họ đã tạo được chỗ đứng mới cho mình: Tự mở hiệu may, không làm gia 10 công nữa. Năm 2002 hai thôn Từ Thuận và thôn Chung được UBND tỉnh Hà Tây cũ công nhận là làng nghề truyền thống. Cho đến nay nghề may com lê đã phát triển mạnh mẽ trên phạm vi toàn xã, hầu hết cả 10 thôn đều có người làm nghề may. Không những thế nghề may còn lan rộng tới một số xã lân cận như Phúc Tiến, Đại Xuyên… Điều này đã khẳng định rằng dù trải qua rất nhiều thăng trầm của lịch sử, có lúc người Vân Từ đã phải bỏ nghề vì hoàn cảnh khó khăn, tuy nhiên bằng tình yêu nghề và với tâm huyết không để nghề may thất truyền, những người thợ Vân Từ đã tìm cho mình một hướng đi đúng đắn, giúp cho nghề may phát triển nhanh chóng và tạo được uy tín với khách hàng. Hiện nay khi nhắc đến nghề may com lê là mọi người đều biết đến Vân Từ. 2.3. Nghệ nhân nghề may Ở Vân Từ mặc dù chưa có nghệ nhân được phong tặng nghệ nhân làng nghề, nhưng đối với mỗi người dân Vân Từ họ vẫn ghi nhớ công ơn của các bậc lão thành đã mang nghề may đến với họ. Những lớp thợ đầu tiên của làng hiện nay đã mất, người Vân Từ không còn nhớ tên tuổi, nhưng vẫn còn những lớp thợ vàng đã giữ nghề và truyền nghề như ông Nguyễn Văn Lai, ông Nguyễn Văn Hòa, ông Đào Văn Dự… Giờ đây nghề may trong xã đã phát triển mạnh mẽ, nhưng người Vân Từ không quên công lao của những lớp thợ vàng có công phát triển nghề may. Tiếp lửa truyền thống hiện nay ở Vân Từ có nhiều thợ trẻ tuổi nhưng có tay nghề cao, hầu hết họ đều là con cháu của những thợ may giỏi trước đây chẳng hạn như anh Nguyễn Hùng Vương, anh Nguyễn Văn Vương, anh Phạm Hồng Đăng, ông Đào Ngọc Hùng, anh Dương Văn Thắng, anh Dương Văn Vịnh…. Họ đều là những doanh nghiệp trẻ, hàng năm giải quyết việc làm cho hàng nghìn lao động nông thôn. Hiện nay, ở Vân Từ đã thành lập Hội làng 11 nghề may Vân Từ với 70 hội viên, họ đều là các cơ sở sản xuất kinh doanh trong xã. 2.4. Tổ chức hoạt động sản xuất 2.4.1. Tổ chức sản xuất theo hình thức công ty TNHH, HTX may Để bắt kịp với kinh tế thị trường các ông chủ lớn ở Vân Từ đã mạnh dạn mở rộng hình thức kinh doanh đó là thành lập những công ty TNHH hoặc mô hình HTX may. Hiện nay ở Vân Từ có hơn 10 công ty TNHH chuyên sản xuất kinh doanh hàng may mặc, chủ yếu là com lê, 2 HTX may đó là HTX may cao cấp Thuận Thành và Hợp tác xã may Hùng Vương. Những công ty này đều là những công ty gia đình, họ mở rộng hình thức kinh doanh và thuê nhân công để làm hàng. Chưa kể dọc theo đường vào Vân Từ là vô số các nhà may lớn, tuy chưa thành lập các công ty riêng nhưng vẫn có rất nhiều đơn hàng lớn từ mọi miền cả nước. Việc tổ chức sản xuất ở các công ty có sự chuyên môn hóa cao. 2.4.2. Sản xuất gia công tại nhà Mô hình sản xuất kiểu may gia công tại các hộ gia đình ở Vân Từ chiếm số đông trong làng. Hầu hết họ đều may công đoạn chẳng hạn như thợ chuyên may thân áo, thợ chuyên tra tay, chuyên làm cổ… những người thợ giỏi có tay nghề cao có thể may hoàn chỉnh một chiếc áo thì công cao hơn nhiều. Số lượng các hộ nhận hàng may gia công cho các ông chủ lớn không chỉ có ở Vân Từ mà còn ở một số xã lân cận như Phúc Tiến, Minh Đức (huyện Ứng Hòa). Đây cũng là một trong những yếu tố khiến cho nghề may phát triển mạnh mẽ ở làng quê Vân Từ trong mấy năm gần đây. 2.5. Kỹ thuật nghề may 2.5. 1. Cách chọn vải và kiểu dáng 12 Cách chọn vải may cũng là một kỹ năng quan trọng, những người thợ may sẽ phải tư vấn cho khách hàng của mình chọn loại vải nào phù hợp với túi tiền hoặc theo mùa hay những người béo hay gầy thì nên mặc vải gì… Vải để may com lê thường sử dụng vải cotton, vải lanh, len hoặc là polyeste. Hiện nay để đáp ứng nhu cầu của khách hàng người thợ Vân Từ đã thiết kế ra nhiều kiểu dáng áo khác nhau để phù hợp với độ tuổi, nghề nghiệp của từng đối tượng khách hàng. 2.5. 2. Công cụ làm nghề Đối với những người làm nghề thì công cụ là thứ không thể thiếu đối với họ, với nghề may com lê ở Vân Từ cũng vậy. Hiện nay người thợ Vân Từ đã đầu tư nhiều máy móc hiện đại vào sản xuất nhằm tăng thêm năng suất và đa dạng các mẫu mã sản phẩm. Các công cụ gồm có: Thước, bút, phấn may, kéo, máy cắt vải, bàn là, máy may, máy vắt sổ, máy thùa khuyết, máy đính cúc, máy ép mùng, máy đính cúc, máy đột. 2.5 3. Các nguyên vật liệu - Lớp vải chính (vải mặt ngoài): Vải chính thường được sử dụng là vải cotton, vải len, lanh … - Lớp mùng: Là lớp vải mềm mại bên trên có những hạt nhựa có lớp keo dính, được cho vào máy để ép cùng lớp vải chính ở thân trước của áo. Tùy vào màu sắc của lớp vải mặt ngoài mà người thợ lựa chọn màu sắc của mùng phù hợp. - Lớp lót: Trước đây người ta thường dùng vải sa tanh, hiện nay lớp lót đều được làm bằng lụa Thái Tuấn, màu sắc của lớp lót cũng rất đa dạng, tùy theo lớp vải mặt ngoài có màu như thế nào mà chọn lớp lót sao cho phù hợp, đẹp mắt. - Dựng canh tóc (chủi dựng): 13 - Lớp bông: Dùng để chần ở phía trước ngực, được may cùng lớp dựng. - Ken: Là một lớp đệm ở vai, có tác dụng làm cho vai áo cứng cáp hơn. - Nỉ cổ: Được làm bằng vải dạ để giúp cho cổ áo cứng hơn. - Mếch: Là lớp vải màu trắng cứng được ép cùng với lớp dạ nỉ cổ giúp định hình cổ áo, túi áo, cạp quần…. 2.5.4. Quy trình kỹ thuật may * Quy trình kỹ thuật may áo vét Để may được một chiếc áo vét người thợ may phải trải qua nhiều công đoạn khác nhau như cắt vải mặt ngoài, cắt vải lót (pha lót), pha dựng, ép mùng, ép mếch; sau đó là đến công đoạn làm thân (vỡ thân), làm cổ, tra tay; Công đoạn hoàn thiện sản phẩm: thùa khuyết, đính cúc, đính đột, cắt chỉ thừa, là hơi. Hiện nay kỹ thuật may áo vét có sự thay đổi nhiều so với trước đây. Đặc biệt là công đoạn may chủi dựng là công đoạn có sự biến đổi nhiều nhất. * Quy trình kỹ thuật may áo gi lê Áo gi lê là một phần của bộ com lê, áo vừa mang tính thời trang, vừa có tác dụng giữ ấm cơ thể khi mặc vào mùa đông. Tuy nhiên số lượng khách đặt may áo gi lê ít, cũng có một số khách hàng trẻ tuổi đặt may nhưng đa phần là những khách trung tuổi. Chính vì, hàng áo gi lê ít khi phải thuê thợ gia công theo thời vụ. Cũng như cắt áo vét để cắt được áo gi lê cũng phải dựa vào số đo của khách hàng. Mỗi áo gi lê gồm có 2 thân trước và hai thân sau, lớp lót cũng được cắt tương tự như lớp vải chính. Kiểu áo gilê thông dụng có thể được đính 3 cúc hoặc 5 cúc và hai túi viền hông. Quy trình may cũng gần giống với may phần thân của áo vét, tuy nhiên không có phần chủi dựng, vạt bên sườn và phần nẹp ne. 14 * Quy trình kỹ thuật may quần âu Thông thường thì một bộ com lê gồm có 1 áo vét, 1 áo gi lê, 2 quần âu và còn tùy thuộc vào yêu cầu của khách hàng. Cũng như công đoạn cắt áo việc cắt quần cũng có hai cách đó nếu là hàng đại trà theo size thì có những mẫu cắt sẵn, còn hàng đặt của khách thì thợ sẽ trực tiếp đo và cắt theo thông số của khách hàng. Quần âu được cắt gồm có 4 mảnh vải, hai thân trước và hai thân sau. Những phụ kiện đi kèm như túi, khóa, cúc, mếch (ép cạp quần). Quy trình may quần cũng được may cẩn thận, cầu kỳ không kém gì việc may áo vét, bởi thế các sản phẩm luôn được đánh giá cao. 2.6. Sản phẩm và thị trƣờng tiêu thụ Hiện nay mặt hàng may mặc ở Vân Từ đa dạng hơn trước nhiều như áo đờ - mi, măng tô, sơ mi. Tuy nhiên, sản phẩm chính của làng nghề đó chính là com lê dành cho nam giới, một số cơ sở cũng sản xuất áo vét nữ nhưng số lượng ít. Các cơ sở sản xuất, các công ty đều tự tìm kiếm thị trường tiêu thụ, hầu hết đều là khách quen làm ăn từ lâu hoặc do một số cửa hàng ở các vùng miền nghe tiếng nghề may Vân Từ nên đến tận nơi để đặt mối quan hệ làm ăn. Ngoài ra, một số gia đình có điều kiện kinh tế thì mở rộng việc làm ăn bằng cách mở những đại lý hoặc các của hàng tại các thành phố lớn. Nhìn chung, thị trường tiêu thụ sản phẩm của nghề Vân Từ rộng khắp trên các tỉnh thành trên cả nước, đặc biệt là nội thành Hà Nội. 2.7. Phƣơng thức truyền nghề Trước đây việc truyền nghề ở Vân Từ cũng chỉ truyền cho con cái trong nhà, nếu như có truyền cho người ngoài cũng chỉ anh, em, họ hàng gần gũi mà thôi. Hiện nay tư duy của người thợ Vân Từ đã đổi mới họ truyền nghề cho tất cả những ai muốn theo học. Đối với những chủ may việc nhân rộng mô hình dạy nghề chính là hình thức để nghề may càng nhiều người biết đến, cũng là cách tăng thêm 15 nguồn thợ lành nghề đáp ứng cho nhu cầu ngày càng cao của thị trường tiêu thụ hiện nay. Tiểu kết chƣơng 2 Nghề may ở Vân Từ tuy không có lịch sử lâu đời như các làng nghề khác ở Phú Xuyên. Nhờ sự tâm huyết và nổ lực của các thế hệ gạo cội trong nghề đã truyền dạy để nghề may ngày càng phát triển. Hiện nay quy mô sản xuất của làng nghề ngày càng được mở rộng, quy trình sản xuất cũng có sự thay đổi nhờ áp dụng máy móc hiện đại nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ ngày càng cao của thị trường. Việc truyền dạy nghề không chỉ còn bó hẹp trong phạm vi trong xã mà còn lan tỏa sang các vùng lân cận. Hiện nay nghề may com lê ở Vân Từ là một trong những nghề được dạy đại trà theo đề án 1956 đào tạo nghề cho lao động nông thôn ở huyện Phú Xuyên. Điều đó góp phần không nhỏ vào việc khẳng định giá trị của nghề may đối với đời sống kinh tế của người dân. Chƣơng 3 NHỮNG BIẾN ĐỔI TRONG ĐỜI SỐNG CỦA NGƢỜI VÂN TỪ KHI NGHỀ MAY PHÁT TRIỂN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA 3.1. Những biến đổi trong đời sống của ngƣời Vân Từ khi nghề may phát triển 3.1.1. Biến đổi trong đời sống kinh tế Cấu kinh tế hiện nay ở Vân Từ đó là tiểu thủ công nghiệp – nông nghiệp – dịch vụ. Từ việc chỉ là nghề phụ thì hiện nay nghề may đã trở thành nghề chính của người dân Vân Từ. Cũng nhờ có nghề may mà đời sống của người dân ngày càng cao. Hoạt động chủ yếu của nghề may Vân Từ đó là may gia công tại nhà, mỗi một hộ có ít nhất một người, nhiều thì hai ba người trong nhà đều làm nghề. Năm 2016 tỷ lệ hộ nghèo toàn xã giảm còn 1,9 % 16 là một trong những xã có tỷ lệ hộ nghèo thấp nhất trong huyện Phú Xuyên, năm 2015 xã Vân Từ vinh dự được công nhận là xã đạt chuẩn nông thôn mới. Một điều đặc biệt là tuy kinh tế khá giả nhưng thanh niên trong xã Vân Từ luôn được đánh giá là “ngoan hiền” so với các địa phương khác trong huyện Phú Xuyên, số lượng thanh niên sa vào con đường tệ nạn xã hội rất thấp. Hầu hết thế hệ trẻ đều có tâm lý hướng nghề với mong muốn nghề may của quê hương ngày càng phát triển và tăng thêm nguồn lực kinh tế của gia đình. 3.1.2. Biến đổi trong thực hành văn hóa của ngƣời dân Trong mục này tác giả luận văn trình bày một số mặt biến đổi trong đời sống văn hóa của người Vân Từ như khi kinh tế khá giả họ có điều kiện hơn để quan tâm hơn đến các công việc đóng góp vào các công việc chung của làng như trùng tu các di tích đình, chùa…. Bên cạnh đó từ khi nghề may phát triển trong đời sống tín ngưỡng của người Vân Từ còn xuất hiện thêm tín ngưỡng thờ tổ nghề may và tín ngưỡng thờ Thần tài – ông Địa. 3.1.3. Biến đổi trong các mối quan hệ xã hội * Biến đổi trong quan hệ gia đình Cũng giống như bao làng quê khác, trước kia ở Vân từ người đàn ông chính là người gánh vác việc kinh tế trong gia đình, đồng thời cũng là chủ gia đình. Tuy nhiên, khi nghề may phát triển gánh nặng về kinh tế được san sẽ cho cả và chồng. Một điều rất đặc biệt đó là nam giới Vân Từ rất khéo tay và may rất giỏi, hầu hết các thợ giỏi và lành nghề đều là nam giới. Hầu hết ở các gia đình có vợ và chồng cùng làm nghề thì họ có sự đồng cảm, và có sự bàn bạc, san sẽ gắng nặng cho nhau. Người đàn ông không còn là người quyết định tất cả mọi việc nữa mà bắt đầu đã có sự bàn bạc giữa các thành viên trong 17 gia đình như việc dựng vợ gã chồng cho con cái, việc tham dự vào các hoạt động xã hội, các khoản chi tiêu trong gia đình… Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái cũng sự thay đổi rõ rệt đó là việc cha mẹ ngày càng ít tính áp đặt đối với con cái. Chẳng hạn như trong việc cưới xin, học tập, làm kinh tế … * Biến đổi trong quan hệ họ hàng, làng xóm Trong đời sống hằng ngày, ngoài mối quan hệ trong gia đình như vợ chồng, con cái, bố mẹ, ông bà thì mối quan hệ họ hàng, làng xóm là một trong những mối quan hệ xã hội mang tính truyền thống của người Việt. Trong quan hệ với hàng xóm láng giềng ở Vân Từ mà nhất là những hộ làm nghề dường như có sự không chặt chẽ như trước đây. Hầu hết thời gian các hộ đều tập chung để sản xuất hàng mà ít có thời gian ngồi chè nước với nhau như trước đây. Họ gặp nhau được lâu nhất là những dịp lễ tết hoặc cưới hỏi, tang ma. Ở một số ngõ xóm thì duy trì được việc họp xóm, liên hoan vào dịp tất niên. Mặt khác hiện nay do đặc thù của việc sản xuất kinh doanh mà ở Vân Từ mối quan hệ làng xóm đã dần chuyển sang mối quan hệ giữa chủ và thợ, mối quan hệ giữa các bạn hàng với nhau. Ngoài quan hệ hàng xóm láng giềng họ còn có quan hệ về mặt lợi ích kinh tế của cả hai bên, do đó họ vẫn phải tuân thủ những nguyên tắc kinh doanh nhất định. Hiện nay ở Vân Từ các tổ chức chính trị xã hội như hội Cựu chiến binh, hội Phụ nữ, hội người cao tuổi… đóng vai trò rất lớn trong việc gắn kết các thành viên trong hội thông qua những buổi sinh hoạt hay giúp đỡ nhau trong những lúc khó khăn. 3.2. Một số vấn đề đặt ra đối với nghề may hiện nay 3.2.1. Làng nghề và vấn đề ly nông bất ly hƣơng Việt Nam đang phấn đấu để trong một thời gian ngắn trở thành một nước công nghiệp. Theo đó, cơ cấu nền kinh tế từ lớn đến nhỏ sẽ 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan