LUẬN VĂN:
Ngân hàng trung ương với chính sách
tiền tệ trong quản lý kinh tế ở Việt Nam
Lời nói đầu
Xây dựng và thực hiện có hiện có hiệu quả chính sách tiền tệ quốc gia, tăng cường
quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, góp phần phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường là một chủ trương lớn của Đảng và
nhà nước ta.
Hiện nay, trong công cuộc đổi mới đất nước với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, vận động theo cơ chế thị trường thì hệ thống ngân hàng và chính sách tiền tệ của
chính phủ đóng một vai trò rất quan trọng. Chính vì vậy mà em chọn đề tài: “ Ngân
hàng trung ương với chính sách tiền tệ trong quản lý kinh tế ở Việt Nam” để tìm hiểu
và nghiên cứu vai trò , chức năng của cả hệ thống ngân hàng cùng với sự cụ thể hoá
chính sách tiền tệ, đặc biệt là ngân hàng trung ương nơi được coi là Ngân hàng của các
Ngân hàng thì vai trò và chức năng của nó lại chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong
quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Việt Nam.
Bài viết gồm những nội dung chính sau đây:
Phần I
: Lý luận chung về Ngân hàng Trung ương và chính sách tiền tệ.
Phần II
: Ngân hàng Trung ương và chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong thời
gian qua
Phần III : Một số giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách tiền tệ ở
Việt Nam.
Chương 1. Lí luận chung về hệ thống ngân hàng trung ương và chính sách tiền tệ.
A. Hệ thống ngân hàng trung ương
1. Khái niệm ngân hàng trung ương(NHTW).
Ngân hàng trung ương là ngân hàng của các ngân hàng, là cơ quan phát hành tiền
của chính phủ, cơ quan kiểm soát việc cung ứng tiền tệ và tín dụng của nền kinh tế.
II. Các chức năng của NHTW
Theo luật ngân hàng nhà nước Việt nam tháng 12 năm 1997, ngân hàng nhà nước
Việt Nam là cơ quan của chính phủ và là NHTW của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt nam, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, là
ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và ngân hàng làm dịch vụ
tiền tệ cho Chính phủ
1. Là ngân hàng phát hành
Ngân hàng phát hành xuất hiện, việc phát hành tiền được ấn định ở các ngân
hàng phát hành, sau đó được ấn định vào một ngân hàng. Khi NHTW ra đời, NHTM đã
đóng vai trò độc quyền phát hành tiền, có nhiệm vụ đảm bảo thống nhất an toàn cho hệ
thống lưu thông tiền tệ.
Giấy bạc và tiền kim khí do NHTW phát hành vào lưu thông là phương tiện thanh
toán hợp pháp trong mỗi Quốc gia và được thanh toán không hạn chế .
Độc quyền phát hành tiền của NHTW không chỉ thể hiện quyền lực của NHTW
mà còn nhấn mạnh trách nhiệm của NHTW trong việc phát hành tiền để đảm bảo phát
triển kinh tế và lưu thông tiền tệ ổn định.
2. Là ngân hàng của các ngân hàng
Sự ra đời và hoạt động của hệ thống ngân hàng 2 cấp đã tạo nên mối quan hệ đặc
biệt giữa NHTW với các NHTM và các tổ chức tín dụng (gọi tắt là NH). Đó là mối quan
hệ giữa chủ thể quản lý và khách thể chịu sự quản lý. Trong mối quan hệ này NHTW
đóng vai trò là người quản lý vĩ mô đồng thời là một tác nhân kinh tế làm hậu thuẫn đối
với các ngân hàng.
Việc kết hợp quản lý bằng một hệ thống pháp chế, chính sách với việc áp dụng
các biện pháp nghiệp vụ thông qua cơ chế thị trường, NHTW thực hiện chức năng là
NH của các NH nhằm điều khiển toàn bộ hệ thống NH trong cả nước hoạt động một
cách an toàn, năng động và có hiệu quả trong kỷ cương pháp luật. Nâng cao vai trò của
hệ thống NH trong việc đảm bảo cung cấp cho nền kinh tế những dịch vụ tái chính tốt
nhất tạo mọi điều kiện đẩy mạnh công cuộc phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hóa.
3. Là ngân hàng của Nhà nước.
NHTW thực hiện cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho Chính phủ:
- Làm thủ quỹ cho kho bạc Nhà nước thông qua quản lý tài khoản của kho bạc,
các khoản thu của kho bạc dưới dạng thuế, phí, thu khác được gửi vảo tài khoản tại
NHTW. NHTW có trách nhiệm theo dõi thực hiện chi trả theo yêu cầu của kho bạc,
trong thời gian kho bạc chưa sử dụng NHTW được tạm thời sử dụng số dư nhàn rỗi này.
- Bảo quản dự trữ Quốc gia về: Ngoại tệ, vàng bạc, đá quý và tái sản quý khác,
các chứng khoán do các tổ chức trong nước hoặc nước ngoài phát hành.
- Làm đại lý cho Chính phủ trong việc đấu thầu, phát hành và thanh toán tín
phiếu, trái phiếu, công trái của Chính phủ.
- Cho ngân sách Nhà nước vay trong những trường hợp cần thiết.
- Làm tư vấn cho Chính về những vấn đề kinh tế tiền tệ và đại diện cho Chính tại
các tổ chức tài chính Quốc tế.
Thực hiện quản lý Nhà nước về tiền tệ tín dụng và hoạt động ngân hàng.
III. Vai trò quản lý vĩ mô của NHTW
NHTW khi thực hiện những chức năng của mình nhằm thực thi chính sách tiền tệ
nó sẽ phát huy vai trò quan trọng của mình góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế xã
hội thức đẩy kinh tế xã hội phát triển.
1. NHTW có trách nhiệm xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ Quốc gia
Chính sách tiền tệ Quốc gia là chính sách kinh tế vĩ mô mà trong đó ngân NHTW
sử dụng các công cụ của mình để điều tiết và kiểm soát khối lượng tiền cung ứng nhằm
đảm bảo sự ổn định giá trị của đồng tiền, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đảm
bảo công ăn việc làm.
NHTW có một vai trò quan trọng trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến
chính sách tiền tệ. Vì mọi hoạt động của NHTW đều ảnh hưởng đến cung ứng tiền tệ
trong nền kinh tế. Như vậy thực thi chính sách tiền tệ là NHTW sử dụng công cụ một
cách hiệu quả để điều chỉnh lượng tiề cung ứng cho phù hợp với các chỉ tiêu kinh tế vĩ
mô và chủ động kiểm soát lượng tiền trong nền kinh tế để đạt được mục tiêu của chính
sách tiền tệ. Thông qua tác động sâu sắc đến các yếu tố: Tín dụng, lãi suất, tỷ giá ... Các
yếu tố này đã ảnh hưởng rất lớn đến mọi hoạt động trong nền kinh tế.
2. NHTW thực hiện quản lý và kiểm soát các tổ chức tín dụng.
NHTW là cơ quan thi hành pháp luật, đồng thời là cơ quan ban hành các văn bản
hướng dẫn thi hành Luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng; là cơ quan ban hành các
văn bản quy chế về tổ chức hoạt động, về cơ chế nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ, tín dụng,
thanh toán, ngoại hối để hệ thống tài chính hoạt động trong kỷ cương pháp luật, theo
một chế độ thống nhất, tạo môi trường pháp lý và những điều kiện thuận lợi cho các tổ
chức tài chính hoạt động có hiệu quả cạnh tranh lành mạnh để tồn tại và phát triển.
Họat động kinh doanh ngân hàng là loại hình kinh doanh đặc biệt quan hệ sâu
rộng đến các hoạt động kinh tế khác. Với tư cách là cơ quan quản lý vĩ mô, NHTW có
vai trò vô cùng quan trọng trong việc theo dõi, thanh tra, kiểm soát các hoạt động ngân
hàng, áp dụng các biện pháp có hiệu quả để bảo đảm cho hệ thống ngân hàng hoạt động
theo kỷ cương pháp luật, tôn trọng các ưquy định của các quy định của NHTW.
Trong quan hệ kinh tế - tiền tệ với các nước và các tổ chức tài chính Quốc tế, chỉ
đạo và tạo điều kiện cho các ngân hàng mở rộng quan hệ kinh doanh trên thị trường
Quốc tế, phát triển các dịch vụ thanh toán và các dịch vụ tài chính nhằm phục vụ đắc
lực cho việc thực hiện chiến lược kinh tế mở, nhất là phát triển đầu tư, thương mại quốc
tế
IV. Mô hình tổ chức của NHTW
Tuỳ thuộc vào lịch sử truyền thống đặc điểm ra đời,chế độ chính trị,đặc điểm
kinh tế của từng quốc gia mà NHTW có thể tổ chức theo mô hình tuỳ thuộc hay độc lập
với Chính phủ.
1. Mô hình NHTW trực thuộc Chính phủ
Theo mô hình này thì NHTW là cơ quan nằm trong bộ máy của Chính phủ.Chính
phủ chi phối trực tiếp NHTW về nhân sự ,về tài chính và các quyết định các vấn đề liên
quan đến việc xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ.
Đối với mô hình này, Chính phủ sẽ bổ nhiệm người điều hành NHTW, quy định
hệ thống tổ chức, bộ máy quản trị điều hành NHTW. Hoạt động của NHTW phụ thuộc
vào yêu cầu của Chính phủ. Mô hính này có nhược điểm: NHTW không hoàn toàn chủ
động trong việc xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ, sự phụ thuộc làm hạn chế mục
tiêu ổn định giá trị tiền tệ, góp phần tăng trưởng kinh tế đặc biệt là khi ngân sách bội chi
thường xuyên, thường Chính phủ sẽ yêu cầu NHTM bù đắp. Mô hình này được thể hiện
theo sơ đồ:
Các thành viên
Chính phủ - Hội đồng chính sách tiền tệ - Chủ tịch
NHTW
Thống đốc NH
2. Mô hình tổ chức NHTW độc lập Chính phủ.
Bộ máy
Theo mô hình này NHTW không nằm trong bộ máy của Chính phủ mà trực thuộc
Quốc hội. NHTW quan hệ với Chính phủ là tương đối độc lập, NHTW có quyền quyết
định việc xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ nhằm đạt các mục tiêu chính sách tiền
tệ tiền đã đề ra mà không bị áp lực của Chính phủ vì chi tiêu của ngân sách Nhà nước.
Tuy nhiên, NHTW hiên nay không hẳn được tổ chức theo mô hình độc lập với Chính
phủ là có thể độc lập hoàn toàn không bị áp lực chính trị của thế lực cầm quyền mà mức
độ độc lập là phụ thuộc vào sự chi phối của người đứng đầu Nhà nước đến cơ chế lập
pháp và tổ chức của NHTW.
Vì vậy không có một mô hình nào thích hợp tuyệt đối cho tất cả các Quốc gia,
việc lựa chọn NHTW tuỳ thuộc vào mối quan hệ giữa NHTW với Chính phủ và do chế
độ chính trị của Quốc gia quyết định.
Như vây, cùng với sự đổi mới của nên kinh tế NHNN đã từng bước hoàn thiện
các chức năng của NHTW và phát huy vai trò quản lý Nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ
và hoạt động ngân hàng.
B. Chính sách tiền tệ .
I. Khái niệm về chính sách tiền tệ.
Có thể nói, chính sách tiền tệ là tổng hoà các phương thức mà Ngân hàng Trunl;g
ương thông qua các hoạt động của mình tác động đến các khối lượng tiền trong lưu
thông nhằm phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước trong
một thời kì nhất định.
Chính sách tiền tệ có thể được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa thông thường. Theo
nghĩa rộng thì chính sách tiền tệ là chính sách điều hành toàn bộ khối lượng tiền trong
nền kinh tế quốc dân nhằm tác động đến 4 mục tiêu lớn của nền kinh tế vĩ mô, trên cơ sở
đó đạt được mục tiêu cơ bản là ổn định tiền tệ giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định
giá cả hàng hoá. Theo nghĩa thông thường chính sách quan tâm đến khối lượng tiền
cung ứng tăng thêm trong kỳ tới phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế dự kiến và chỉ số
lạm phát nếu có nhằm ổn định tiền tệ và ổn định giá cả hàng hoá.
Chính sách tiền tệ có thể được điều hành theo hai hướng: Chính sách thắt chặt
tiền tệ và chính sách mở rộng tiền tệ.
+ Chính sách thắt chặt tiền tệ là chính sách thu hẹp mức cung ứng tiền nhằm hạn
chế chi tiêu đàu tư và chi tiêu dùng, qua đó có thể kiểm soát kạm phát, chống sự phát
triển kinh tế quá nóng. Khi thắt chặt tiền tệ, một mặt Nhân hàng Trung ương làm giảm
vốn khả dụng trong hệ thống ngân hàng, hạn chế sự sẵn có của các nguồn vốn dẫn tới
giảm chi tiêu dùng và đầu tư. Mặt khác khi lãi suất thị trường được đẩy tăng lên, lãi suất
thực tế tăng cũng làm hạn chế nhu cầu chi tiêu dùng, chi đầu tư, qua đó làm giảm tổng
cầu, dẫn tới việc giảm lạm phát, hạn chế sự phát triển quá nóng của nền kinh tế.
+ Chính sách mở rộng tiền tệ là chính sách tăng mức cung ứng tiền, qua đó mở
rộng các hoạt động đầu tư, tiêu dùng, nhằm tránh tình trạng thiểu phát của nền kinh tế.
Sự tác động của chính sách tiền tệ mở rộng trước hết thông qua việc giảm lãi suất thị
trường, hạ thấp phí tổn về vốn tín dụng để kích thích nhu cầu đầu tư và tiêu dùng. Việc
mở rộng tiền tệ còn tăng cường vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng, mở rộng khả
năng tài chính cung cấp cho nền kinh tế, tạo điều kiện tăng chi tiêu dùng và đầu tư.
Ngân hàng Trung ương cũng có thể mở rộng tiền tệ bằng cách nới lỏng các hạn chế
trong việc cấp tín dụng cho người vay (điều kiện vay vốn)... Chính sách tiền tệ mở rộng
không chỉ tác động tới tăng chi tiêu dùng và tăng chi đầu tư mà còn tác động tới tăng
xuất khẩu ròng. Khi lãi suất đồng nội tệ có xu hướng giảm xuống sẽ làm giảm giá của
nội tệ so với ngoại tệ và do vậy kích thích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Kết quả ở đây
là chi tiêu ròng của nước ngoài về hàng hoá, dịch vụ trong nước tăng làm tăng cầu và
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Chính sách tiền tệ tác động vào nền kinh tế thông qua việc tác động vào thái độ,
dự tính của các nhà đầu tư, người tiêu dùng trên cơ sở việc điêù chỉnh mức cung tiền tệ
mà chủ yếu là thông qua kênh tín dụng. Trong trường hợp kinh tế phát triển tốt việc
giảm bớt khả năng tài chính bằng chính sách tiền tệ sẽ có tác động mạnh đến hoạt động
đầu tư, tiêu dùng (nhất là trong điều kiện vốn thay thế bị hạn chế). Chính vì vậy chính
sách tiền tệ đặc biệt có hiệu quả cao khi cần chống lạm phát cao, hạn chế sự phát triển
quá nóng của nền kinh tế. Nhưng trong điều kiện kinh tế trì trệ nhu cầu đầu tư tư nhân
và tiêu dùng giảm mạnh, nền kinh tế khó hấp thụ được khả năng tài chính được tạo ra do
mở rộng tiền tệ. Chính sách tiền tệ có hiêu quả trong việc kích thích chi tiêu đầu tư và
tiêu dùng.
Chính sách tiền tệ quốc gia tập trung vào mức độ khả năng thanh toán cho toàn
bộ nền kinh tế quốc dân, bao gồm việc đáp ứng khối lượng tiền cung ứng cho lưu thông,
điều khiển hệ thống tiền tệ và khối lượng tín dụng đáp ứng vốn cho nền kinh tế, tạo điều
kiện và thúc đẩy hoạt động của thị trường tiền tệ, thị trường vốn theo những quỹ đạo đã
định, kiểm soát hệ thống các ngân hàng thương mại, cùng với việc kiểm soát tỉ giá hối
đoái hợp lý nhằm ổn định và thúc đẩy kinh tế đối ngoại và kinh tế ngoại thương, nhằm
mục tiêu cuối cùng là ổn dịnh tiền tệ, giữ vững sức mua đồng tiền, ổn định giá cả hàng
hoá. Một chính sách tiền tệ hoàn chỉnh là một chính sách mà việc cung ứng tiền cho lưu
thông để khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường, bảo vệ môi trường sinh thái
thông qua công cụ lãi suất và việc đảm bảo việc làm và thất nghiệp ở mức tự nhiên,
đồng thời đảm bảo mức tăng trưởng. Với mỗi quốc gia thì các mục tiêu này là khác nhau
tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội cụ thể khi hoạch định chính sách.
II. Công cụ của chính sách tiền tệ.
Theo các quy luật kinh tế sự cân bằng chỉ là tạm thời, nền kinh tế luôn biến động
theo chu kỳ. Do đó nhìn chung, Ngân hàng Trung ương có thể sử dụng hai loại chính
sách tiền tệ:
+ Chính sách nới lỏng tiền tệ được thực hiện khi nền kinh tế có tình trạng suy
thoái nhằm cung ứng thêm tiền cho nền kinh tế, hạ lãi suất, khuyến khích đầu tư phát
triển, tạo công ăn việc làm.
+ Chính sách thắt chặt tiền tệ khi nền kinh tế phát triển quá nóng nhằm giảm
cung ứng tiền, nâng lãi suất, hạn chế đầu tư, kiềm chế lạm phát.
Ngân hàng Trung ương là cơ quan tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ, mà chính
sách tiền tệ chỉ có thể tác động vào thị trường tiền tệ qua đó tác động đến tổng cầu và
sản lượng nên việc kiểm soát của Ngân hàng Trung ương tập trung chủ yếu vào mức
cung tiền hoặc lãi suất. Để tác động đến hai nhân tố này Ngân hàng Trung ương sử dụng
các công cụ trực tiếp hoặc công cụ gián tiếp.
1. Các công cụ trực tiếp.
Là các công cụ mà Ngân hàng Trung ương có thể tác động trực tiếp đến cung cầu
tiền tệ mà không phải thông qua công cụ khác.
a. ấn định khung lãi suất tiền gửi và cho vay.
Đây được coi là công cụ bổ trợ mà Ngân hàng Trung ương sử dụngđể trực tiếp
điều khiển và chi phối toàn bộ lãi suất tín dụng trong nền kinh tế
Ngân hàng trung ương có thể quy định khung lãi suất tiền gửi và buộc các ngân
hàng kinh doanh phải thi hành.
Nếu lãi suất quy định cao sẽ thu hút được lượng tiền gửi lớn làm gia tăng nguồn
vốn cho vay. Nếu lãi suất quy định thấp, sẽ làm giảm lượng tiền gửi, giảm khả năng mở
rộng kinh doanh tín dụng. Tuy nhiên biện pháp này làm cho các Ngân hàng thương mại
mất tính chủ động linh hoạt trong kinh doanh. Mặt khác dễ dẫn đến tình trạng ứ đọng
vốn ở Ngân hàng nhưng lại thiếu vốn đầu tư hoặc khuyến khích dân cư dùng tiền vào dự
trữ vàng.
Ngân hàng trung ương có thể quy định khung lãi suất cho vay buộc các ngân
hàng kinh doanh chấp hành .
Khi muốn tăng khối lượng cho vay, Ngân hàng Trung ương giảm mức lãi suất
cho vay để khuyến khích các nhà đầu tư vay vốn. Khi cần hạn chế đầu tư, Ngân hàng
Trung ương sẽ ấn định mức lãi suất cao. Biện pháp này có ưu điểm là giúp ngân hàng
lựa chọn dự án kinh tế tối ưu để cho vay, loại bỏ những phương án kém hiệu quả.
Tuy nhiên, nó có nhược điểm là làm cho tính linh hoạt của thị trường tiền tệ bị
suy giảm, các ngân hàng thương mại bị động trong kinh doanh.
Việc áp dụng khung lãi suất tiền gửi và cho vay nhìn chung ngày càng ít được áp
dụng trong cơ chế thị trường, bởi vì trong cơ chế thị trường lãi suất rất nhạy cảm với đầu
tư, nó gửi được vận động theo quan hệ cung- cầu vốn trên thị trường.
b. ấn định hạn mức tín dụng.
Nhiều nhà kinh tế cho rằng việc tăng tín dụng đối với nền kinh tế do các ngân
hàng thương mại thực hiện là không ảnh hưởng đến lạm phát và giá cả.
Hạn mức tín dụng là khối lượng tín dụng mà ngân hàng trung ương có thể cung
ứng cho nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định, phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế
của thời kỳ đó. Sau đó tìm con đường để đưa nó vào nền kinh tế. Song trong nền kinh tế
thị trường, Cung - cầu tín dụng biến động không ngừng, biện pháp này chỉ được áp dụng
một cách hạn chế khi tình huống yêu cầu.
c. Phát hành tiền trực tiếp cho ngân sách và cho đầu tư.
Trong điều kiện ngân sách bị thiếu hụt, ngân hàng trung ương phải phát hành tiền
để bù đắp sự thiếu hụt ấy. Phát hành tiền trực tiếp cho đầu tư, có thể qua ngân sách nhà
nước hoặc qua con đường tín dụng ngân hàng. Biện pháp này cần thiết trong điều kiện
kinh tế suy thoái, dư thừa tiềm năng kinh tế. Nó sẽ mang lại hiệu quả tích cực nếu việc
phát hành này được sử dụng để khơi dậy các tiềm năng về tài nguyên và con người.
Tuy nhiên biện pháp này sẽ làm gia tăng lạm phát do đó làm tăng lượng tiền trong lưu
thông. Do đó cần phải được loại trừ trong điều kiện kinh tế bình thường.
d. Phát hành trái phiếu ngân hàng để làm giảm lượng tiền trong lưu thông.
Trong điều kiện không thể áp dụng biện pháp khác, chính phủ có thể phát hành
một lượng trái phiếu nhất định để thu hút bớt lượng tiền trong lưu thông.
2. Các công cụ gián tiếp.
Là những công cụ mà tác dụng của nó có được là nhờ cơ chế thị trường. Ba công
cụ mà NHTW có thể sử dụng để điều tiết cung ứng tiền tệ: Nghiệp vụ thị trường mở,
nghiệp vụ này ảnh hưởng lớn đến cơ số tiền tệ; lãi suất tái chiết khấu, thay đổi lãi suất
này ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ bằng cách ảnh hưởng đến lượng vay chiết khấu của
NHTM; việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng bằng
cách ảnh hưởng đến số nhân tiền tệ. Sau đây, chúng ta sẽ đi tìm hiểu xem Ngân hàng
Trung ương đã sử dụng những công cụ đó trong thực tế như thế nào để tác động đến các
hoạt động kinh tế.
a. Dự trữ bắt buộc.
Là phần tiền gửi mà các Ngân hàng Thương mại phải đưa vào dự trữ theo luật
định. Phần dự trữ này được gửi vào tài khoản chuyên dùng ở Ngân hàng Trung ương và
để tại quỹ của mình với mục đích góp phần đảm bảo khả năng thanh toán của Ngân
hàng Thương mại và dùng để kiểm soát khối lượng tín dụng của ngân hàng này.
Ngân hàng Trung ương là cơ quan duy nhất được phép ra quyết định về thay đổi
tỷ lệ dự trữ bắt buộc, những thay đổi đó tác động đến cung ứng tiền tệ bằng cách gây ra
những thay đổi trong số nhân tiền tệ. Khi tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ làm giảm khả
năng cho vay và đầu tư của Ngân hàng Thương mại, từ đó giảm lượng tiền trong lưu
thông, góp phần giảm cầu để cân bằng với giảm cung xã hội. Trong trường hợp tỷ lệ dự
trữ bắt buộc giảm xuống sẽ mở rộng khả năng cho vay của Ngân hàng Thương mại, dẫn
đến sự gia tăng lượng tiền trong lưu thông, góp phần tăng cung ứng tiền.
Như vậy, khi thay đổi quy mô của tỷ lệ dữ trữ bắt buộc, Ngân hàng Trung ương
đã khống chế một cách gián tiếp những mạnh mẽ đến mức cung tiền.
b. Lãi suất tái chiết khấu.
Lãi suất tái chiết khấu là lãi suất quy định của Ngân hàng Trung ương cho các
Ngân hàng Thương mại vay để đảm bảo có đầy đủ hoặc tăng thêm dự trữ của các Ngân
hàng Thương mại . Việc ấn định lãi suất tái chiết khấu, tái cấp vốn của Ngân hàng
Trung ương có thể tác động đến khả năng vay của Ngân hàng Thương mại và do đó làm
cho cung ứng tiền tăng lên hoặc giảm xuống.
Khi lãi suất tái chiết khấu tăng, các Ngân hàng Thương mại sẽ giảm lượng vay ở
Ngân hàng Trung ương, do đó sẽ làm giảm cơ số tiền tệ và lượng tiền cung ứng giảm.
Ngược lại, nếu lãi suất chiết khấu giảm, các Ngân hàng Thương mại sẽ tăng lượng vay ở
Ngân hàng Trung ương để tăng dự trữ mở rộng ở số tiền tệ và làm lượng tiền cung ứng
tăng lên.
c. Nghiệp vụ thị trường mở.
Thị trường mở là thị trường của Ngân hàng Trung ương được sử dụng để mua
bán các giấy tờ có giá. Khi muốn tăng lượng tiền trong lưu thông, Ngân hàng Trung
ương sẽ mua một lượng giấy tờ có giá nhất định. Kết quả là đã đưa vào thị trường một
lượng tiền cơ sở bằng cách tăng dự trữ của các Ngân hàng Thương mại, do đó làm tăng
khối lượng cho vay và mức cung tiền tăng lên gấp bội.
Ngược lại khi muốn giảm lượng tiền trong lưu thông thì các Ngân hàng Trung
ương bán lượng giấy tờ có giá đang nắm giữ. Việc các Ngân hàng Thương mại mua giấy
tờ có giá của Ngân hàng Trung ương sẽ làm giảm dự trữ của mình và sẽ giảm lượng tiền
cung ứng. Chẳng hạn như việc mua trái phiếu chính phủ, trái phiếu ngân hàng nhằm tác
động khối lượng tiền dự trữ trong quỹ dự trữ của các Ngân hàng Thương mại là các tiêu
chuẩn tài chính nhằm hạn chế tiềm năng tín dụng và khả năng thanh toán của các ngân
hàng này, qua đó điều khiển khối lượng tiền trong thị trường tiền tệ.
Thông thường trong điều kiện kinh tế thị trường phát triển, nghiệp vụ thị trường
mở được chỉ đạo sát sao từng giờ. Việc mua bán các loại trái phiếu được tiến hành liên
tục nên nó ảnh hưởng thường xuyên đến khối lượng dự trữ của các Ngân hàng Thương
mại và hình thành nên lãi suất vốn trong toàn quốc. Lãi suất là cơ sở cho lãi suất tín
dụng và tác động lên các lãi suất thị trường vốn.
Thị trường mở đòi hỏi phải có một môi trường pháp lý nhất định. Môi trường
hoạt động tốt nhất cho nghiệp vụ thị trường mở là thị trường chứng khoán. Tại thị
trường này, Ngân hàng Trung ương hoàn toàn chủ động mua bán các loại trái phiếu cổ
phần lưu thông trên thị trường. Vì vậy, công cụ này rất hữu hiệu đối với các nước kinh tế
phát triển có thị trường tài chính hoàn chỉnh.
Chương 2. Thực trạng ngân hàng trung ương
với việc thực thi chính sách tiền tệ để điều tiết
nền kinh tế vĩ mô ở việt nam.
I. Sơ lược về ngân hàng trung ương việt nam.
1. Sự ra đời.
Từ cuối thế kỷ 19 trở về trước ở Việt Nam chưa có một ngân hàng nào xuất hiện do
kinh tế nghèo nàn lạc hậu, mang nặng tính tự cung, tự cấp, thương mại kém phát triển
nên hầu như nhu cầu giao dịch tiền tệ không đáng kể.
Cuối thế kỷ 19 khi Pháp xâm chiếm nước ta và thiết lập xong nền đô hộ. Do các
hoạt động kinh tế của Pháp phát triển mạnh nên Pháp phải lập các ngân hàng để hỗ trợ
các hoạt động kinh tế. Lúc đầu có hai ngân hàng được Pháp thành lập , trụ sở chính
được đặt tại chính quốc nhưng chi nhánh ở khắp Việt Nam. Đó là: Ngân hàng Đông
Dương và Pháp- Hoa ngân hàng .
Đến năm 1927 ở miền nam Việt Nam, một nhóm tư bản tài chính Việt Nam thành
lập tại Sài Gòn một ngân hàng lấy tên là: An Nam Ngân Hàng( sau đó đổi tên thành Việt
Nam Ngân Hàng).
Trong khoảng thời gian từ 1945 đến tháng 5-1951, tại Việt Nam không có một loại
hình ngân hàng nào. Mọi hoạt động thuộc lĩnh vực tiền tệ- tín dụng đều do bộ tài chính
đảm nhiệm
Tháng 2-1951 chính phủ đã đề ra mục tiêu cho công tác tài chính là thống nhất
quản lý thu- chi ngân sách nhà nước, thành lập ngân hàng quốc gia để phát hành giấy
bạc ngân hàng, làm nhiệm vụ quản lý tiền tệ và thi hành chính sách tín dụng nhằm phát
triển kinh tế
Ngày 6-5-1951 Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 15/ SL thành lập ngân
hàng quốc gia Việt Nam và đồng thời ký sắc lệnh 17/ SL quy định:” Mọi công việc của
Nha Ngân Khố và Nha Tín Dụng sản xuất giao cho ngân hàng quốc gia phụ trách”.
Sự ra đời của ngân hàng quốc gia Việt Nam là một bước ngoặt lịch sử trong lĩnh
vực tiền tệ- tín dụng ở nước ta. Lần đầu tiên trong lịch sử, dưới chính thể dân chủ mới,
Việt Nam đã thành lập được một ngân hàng mang đầy đủ tính chất độc lập- tự chủ của
đất nước.
2. Quá trình phát triển của ngân hàng nhà nước Việt Nam.
Ngân hàng Trung ương của Việt Nam với tên gọi là ngân hàng nhà nước Việt Nam
được thành lập từ năm 1951 trong điều kiện nền kinh tế nông nghiệp nghèo nàn, lạc
hậu. Nó là hệ thống ngân hàng một cấp phù hợp với cơ chế quản lý của nền kinh tế theo
kế hoạch tập trung và mang tính bao cấp triệt để. Hệ thống ngân hàng một cấp này chỉ
có một ngân hàng duy nhất là ngân hàng nhà nước, vừa thực hiện chức năng quản lý,
vừa thực hiện chức năng kinh doanh, cơ cấu mạng lưới theo cơ cấu quản lý hành chính.
Cùng với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường, năm 1998 hệ thống ngân hàng
một cấp được chuyển sang hệ thống ngân hàng hai cấp. Tuy nhiên, chỉ sau khi ban hành
hai pháp lệnh về ngân hàng( ngày 23-5-1990), thì hệ thống ngân hàng hai cấp ở Việt
Nam mới thực sự được xây dựng phù hợp với mô hình ngân hàng hai cấp của nền kinh
tế thị trường. Khái niệm NHTW lần đầu tiên được đề cập trong pháp lệnh ngân hàng( 51990) và trong luật ngân hàng nhà nước( 12-1997).
“Ngân hàng nhà nước Việt Nam là cơ quan của chính phủ và là ngân hàng trung
ương của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngân hàng nhà nước thực hiện
chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, là ngân hàng phát hành
tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và làm dịch vụ tiền tệ cho chính phủ”.
Ngân hàng nhà nước Việt Nam là thành viên của hội đồng chính phủ. Cơ quan
lãnh đạo cao nhất của ngân hàng nhà nước Việt Nam là hội đồng quản trị gồm 10 thành
viên. Chủ tịch là thống đốc, phó chủ tịch là phó thống đốc ngân hàng nhà nước, 4 uỷ
viên cấp thứ trưởng đại diện cho bộ tài chính, bộ thương mại, bộ kế hoạch và đầu tư,
còn 4 uỷ viên khác được chọn trong số các chuyên gia kinh tế- tiền tệ. Ngoài chủ tịch
hội đồng quản trị là thống đốc được bổ nhiệm như thành viên khác của chính phủ còn
các thành viên khác do thủ tướng chính phủ bổ nhiệm theo đề nghị của thống đốc ngân
hàng. Nhiệm kỳ của hội đồng quản trị là 5 năm. Điều hành công việc hàng ngày của
ngân hàng nhà nước là thống đốc và một số phó thống đốc cùng với hoạt động cấp trung
ương và cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
Một vài chỉ số về quy mô và hiệu suất hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam
so với các nước trong khu vực
(Nguồn tạp chí ngân hàng số 1+2 năm 2000)
Quốc gia
Huy động vốn/GDP
Tín dụng/GDP
Tín dụng/Huy động
vốn
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
Năm
1992*
1998*
1992*
1998*
1992*
1998*
Indonesia
68%
91%
74%
128%
1,22
1,06
Hàn Quốc
37%
54%
58%
78%
1,58
1,44
Singapore
83%
105%
61%
85%
0,74
0,89
Thái Lan
68%
91%
74%
128%
1,08
1,40
Trung Quốc
73%
117%
95%
125%
1,30
1,07
Việt Nam**
23,0%
34,0%
27,0%
33,0%
1,14
0,98
Nguồn: IMF (tính toán từ IFS-July 1999, *) Việt Nam là năm 1996 và 1999, **) số
liệu Việt Nam suy ra từ báo cáo thường niên các năm và ước tính.
Huy động vốn ngày càng đóng vai trò tích cực hỗ trợ thực hiện tốt các mục tiêu
chính sách tiền tệ. Kể từ cuối năm 1993, khi Ngân hàng nhà nước tổ chức hình
thànhđược thị trường nội tệ liên Ngân hàng và sau đó gần một năm là thị trường ngoại tệ
liên Ngân hàng. Các Ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng có điều kiện làm quen
với cơ chế tự điều hòa vốn với nhau, nâng cao hiệu suất vốn khả năng trong toàn hệ
thống, hạn chế đến mức thấp nhu cầu tái cấp vốn từ Ngân hàng nhà nước. Phối hợp với
bộ tài chính đến tháng 6/1995, Ngân hàng nhà nước chính thức đấu giá tín phiếu kho
bạc, tạo thêm công cụ huy động vốn trên thị trường tiền tệ đồng thời góp phần lành
mạnh hoá ngân sách. Bên cạnh đó, việc phát hành trái phiếu kho bạc hay công trái chính
phủ diễn ra khá thường xuyên bổ sung thêm bộ phận lớn nguồn vốn đầu tư phát triển
kinh tế.
Trên cơ sở nguồn vốn huy động khá dồi dào, tín dụng ngân hàng đối với nền
kinh tế cũng gia tăng mạnh mẽ, đồng thời chuyển từ cho vay chủ yếu đối với các xí
nghiệp quốc doanh sang cho vay với mọi thành phần kinh tế. Cơ cấu tín dụng đổi mới
theo hướng tăng cường đầu tư cho các ngành sản xuất, dịch vụ, chuyển từ cho vay ngắn
hạn là chủ yếu sang đẩy mạnh cho vay trung và dài hạn. Các Ngân thương mại quốc
doanh và ngoài quốc doanh, các quỹ tín dụng nhân dân mở rộng cho vay hộ nông dân,
cho vay tạo việc làm, cho vay xoá đói giảm nghèo, cho vay hỗ trợ xây dựng nhà ở đồng
bằng sông Cửu long, cho vay phát triển kinh tế trang trại, cho vay đóng mới tàu thuyền
đánh bắt xa bờ và các mục tiêu kinh tế xã hội khác.
Việc huy động các nguồn vốn nhàn rỗi vào ngân hàng và cung ứng tín dụng ngày
càng nhiều, đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế là một trong những nhân tố quan
trọng thúc đẩy quá trình tiền tệ hoá nền kinh tế. Bên cạnh cung ứng tiền cho nền kinh tế
thông qua con đường tín dụng, hàng năm Ngân hàng trung ương còn phải bổ sung một
phần tiền cung ứng khi chuyển đổi lượng ngoại tệ ròng kết dư nhằm phục vụ mục tiêu
ổn định sức mua đối với đồng tiền VN. Mặt khác, hiện nay về cơ bản việc phát hành tiền
bù đắp thâm hụt ngân sách của Ngân hàng nhà nước đã được chấm dứt, kết quả là tốc
độ tăng tổng phương tiện thanh toán M2 hàng năm nhìn chung ổn định phù hợp với các
động thái tăng trưởng và lạm phát.
Việc điều hành chính sách tiên tệ luôn được đặt trong mối quan hệ khăng khít với
các chính sách kinh tế vĩ mô (chính sách tài chính, chính sách xuất nhập khẩu ... ) ngay
từ giai đoạn hoạch định dến quá trình thực thi. Nhờ vậy đảm bảo hỗ trợ tốt thực hiện các
mục tiêu kinh tế xã hội trong từng thời kì và loại bỏ được những nhân tố tiêu cực, gây
trở ngại và hạn chế hiệu năng của chính sách tiền tệ. Hơn nữa bản thân chính sách tiền
tệ chỉ phát huy tốt hiệu lực vốn có khi các bộ phận của nó được xử lý hết sức linh hoạt
và đồng bộ. Nếu như trước đây Ngân hàng nhà nước phải dùng mệnh lệnh hành chính
để tăng giảm lãi suất, tỉ giá, tăng giảm lượng cung tiền trên thị trường thì nay, với việc
hoàn thiện từng bước các công cụ của chính sách tiền tệ, Ngân hàng trung ương dựa vào
tín hiệu thị trường để điều hành chính sách tiền tệ. Đây là bước tiến căn bản của Ngân
hàng trung ương trong quản lý thông qua các công cụ điều hành chính sách tiền tệ theo
cơ chế thị trường. Mặc dù việc điều hành chính sách tiền tệ đó chưa được hoàn hảo
song chúng đã phát huy tác dụng đưa lại hiệu quả cho nền kinh tế.
Tăng trưởng tín dụng và huy động vốn cho nền kinh tế ước tính đến hết tháng
12/2000 dư nợ cho vay tăng 21% và vốn huy động tăng 25% so với năm 1999. So sánh
với 3 năm gần đây, năm 1999 dư nợ tín dụng tăng19,2%, vốn huy động tăng 34%; năm
1998dư nợ tăng16,4%, vốn huy động tăng 34%; năm 1997 dư nợ tăng 22%, còn vốn huy
động tăng 25,7%. Như vậy trong năm 2000, tín dụng tăng trưởng cả về quy mô và tốc độ
trong khi nợ quá hạn được kiềm chế. Đến hết năm 2000, tỷ lệ nợ quá hạn của toàn bộ hệ
thống ngân hàng giảm gần 2% so với 1999;11,7%so với tổng dư nợ.
1. Về lãi suất.
Ngày 2/8/2000, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt nam đã ra quyết định số
241/2000/ QĐ-NHNN về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cho vay của các tài sản
tín dụng đối với Ngân hàng, chấm dứt việc điều hành lãi suất theo cơ chế “trần lãi suất
cho vay” sang điều hành lãi suất theo lãi suất cơ bản. Đây là một bước tiến quan trọng
của quá trình tự do hoá lãi suất .
Trong 6 tháng đầu năm 2001, Ngân hàng Trung ương tiếp tục thực hiện cơ chế
lãi suất cơ bản đối với VNĐ, giảm lãi suất chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn phù hợp với
thực tiễn, giảm lãi suất cơ bản để mở rộng tín dụng và thúc đẩy sản xuất kinh doanh,
thực hiện tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ. Các Ngân hàng Thương mại được chủ
động quy định các mức lãi suất cho vay cụ thể của mình theo biên độ xoay quanh lãi
suất cơ bản, trên cơ sở đó chủ động quy định các mức lãi suất tiền gửi.
Đối với VNĐ, lãi suất cơ bản đã ba lần giảm từ 0,75%/tháng xuống còn
0,65%/tháng nhưng vẫn giữ nguyên biên độ 0,3% tháng đối với cho vay ngắn hạn và
0,5% tháng đối với cho vay trung và dài hạn. Đối với ngoại tệ, năm tháng đầu năm tiếp
tục điều hành lãi suất cho vay bằng Đôla dựa trên cơ sở lãi suất SIBOR (lãi suất trên thị
trường liên Ngân hàng Singapo) cộng với biên độ 1,0% đối với cho vay ngắn hạn; 2,5%
đối với cho vay trung và dài hạn. Từ 1/6/2001 Ngân hàng Nhà nước đã có quyết định bỏ
cơ chế khống chế biên độ cho phép các tổ chức tín dụng dựa trên cơ sở lãi suất thị
trường quốc tế và cung cầu vốn ngoại tệ trong nước mà thoả thuận với từng khách hàng
mức lãi suất cho vay phù hợp. Riêng đối với lãi suất vay tiền gửi ngoại tệ của các pháp
nhân tại tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước vẫn khống chế ở mức thấp nhằm khống
chế việc nắm iữ đô la trong tài khoản và hạn chế đô la hoá trong điều kiện hạn chế tỷ lệ
kết hối giảm từ 50% xuống còn 40% như hiện nay. Cùng với việc điều hành theo lãi suất
cơ bản, trong 6 tháng qua ngân hàng nhà nước đã liên tục hạ lãi suất tái chiết khấu và lãi
suất tái cấp vốn (lãi suất tái cấp vốn giảm từ 0,5% xuống còn 0,4%/tháng; lãi suất tái
chiết khấu giảm từ 0,45% xuống còn 0,35%/tháng).
Một thời gian dài các Ngân hàng Thương mại cổ phần gặp rất nhiều khó khăn
trong công tác chiết khấu nhưng nay với cơ sở “nới lỏng” của Ngân hàng Nhà nước đã
dễ dàng hơn trong việc vay vốn theo hình thức tái chiết khấu. Như vậy chuyển sang cơ
chế điều hành lãi suất cơ bản đã tạo điều kiện thúc đẩy cạnh tranh giữa các Ngân hàng
Thương mại có lợi cho người gửi tiền và người vay vốn, thúc đẩy chu chuyển vốn, hình
thành lãi suất bình quân hợp lý trên cơ sở quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế.
Diễn biến lãi suất cơ bản của NHNNVN.
(đơn vị: %/tháng-các thời điểm điều chỉnh).
0.8
0,7
0,75
0,6
0,5
0,4
0,3
0,2
0,1
0,725
0,70
0,65
0,60
1/8/2000 1/3/2001 1/4/2001 1/6/2001 1/10/2001
- Xem thêm -