Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nâng cao ý thức pháp luật cho học viên trung tâm giáo dục nghề nghiệp giáo dục...

Tài liệu Nâng cao ý thức pháp luật cho học viên trung tâm giáo dục nghề nghiệp giáo dục thường xuyên huyện mường la, tỉnh sơn la trong giai đoạn hiện nay

.PDF
75
99
59

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC VỪ THỊ DI NÂNG CAO Ý THỨC PHÁP LUẬT CHO HỌC VIÊN TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP - GIÁO DỤC THƢỜNG XUYÊN HUYỆN MƢỜNG LA, TỈNH SƠN LA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƠN LA, NĂM 2017 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC VỪ THỊ DI NÂNG CAO Ý THỨC PHÁP LUẬT CHO HỌC VIÊN TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP - GIÁO DỤC THƢỜNG XUYÊN HUYỆN MƢỜNG LA, TỈNH SƠN LA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Chuyên ngành: XH2b KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Ngƣời hƣớng dẫn: Th.S Đèo Thị Thủy SƠN LA, NĂM 2017 LỜI CẢM ƠN Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới cô ThS. Đèo Thị Thủy - giảng viên hướng dẫn đề tài, cô đã rất nhiệt tình giúp đỡ em, chỉ bảo tận tình chu đáo, hướng dẫn em trong quá trình nghiên cứu đề tài. Em xin chân thành gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong Trường Đại học Tây Bắc, các thầy cô trong khoa Lý luận Chính trị và các phòng ban nhà trường đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài. Em xin cảm ơn các thầy cô giáo trong Trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục Thường xuyên huyện Mường La, tỉnh Sơn La đã tạo điều kiện giúp đỡ em, cung cấp số liệu và những thông tin cần thiết về đề tài trong quá trình nghiên cứu. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới cô giáo chủ nhiệm Đỗ Huyền Trang và các bạn sinh viên lớp K54 - ĐHGD Chính trị cùng gia đình đã động viên giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn hội đồng nghiệm thu đề tài. Do những điều kiện khách quan và chủ quan nên bản thân đề tài này chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo để đề tài được hoàn thiện hơn. Sơn La, tháng 5 năm 2017 Ngƣời thực hiện đề tài Vừ Thị Di DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT UBND: Uỷ ban nhân dân TTGDNN - GDTX: Trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục Thường xuyên Nxb: Nhà xuất bản MỤC LỤC MỞ ĐẦU ..........................................................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài ..........................................................................................................1 2. Tình hình nghiên cứu ....................................................................................................2 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận. ..........................................................3 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. ...............................................................................4 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu. ..................................................................4 6. Đóng góp của khóa luận. ..............................................................................................4 7. Kết cấu của khóa luận. ..................................................................................................4 CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NÂNG CAO Ý THỨC PHÁP LUẬT CHO HỌC VIÊN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ..........................................................6 1.1. Khái niệm và đặc điểm của ý thức pháp luật ............................................................6 1.1.1. Khái niệm pháp luật và ý thức pháp luật ................................................................6 1.1.1.2. Khái niệm ý thức pháp luật .................................................................................6 1.1.2. Đặc điểm của ý thức pháp luật .............................................................................10 1.2. Kết cấu và vai trò của ý thức pháp luật ...................................................................13 1.2.1. Kết cấu của ý thức pháp luật ................................................................................13 1.2.2. Vai trò của ý thức pháp luật..................................................................................15 Tiểu kết chương 1 ...........................................................................................................18 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ NÂNG CAO Ý THỨC PHÁP LUẬT CHO HỌC VIÊN TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP - GIÁO DỤC THƢỜNG XUYÊN HUYỆN MƢỜNG LA, TỈNH SƠN LA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ................................................................................................................................19 2.1. Khái quát chung về học viên Trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục Thường xuyên huyện Mường La, tỉnh Sơn La .............................................................................19 2.1.1. Sơ lược về Trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục Thường xuyên huyện Mường La, tỉnh Sơn La...................................................................................................19 2.1.2. Đặc điểm của học viên Trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục Thường xuyên huyện Mường La, tỉnh Sơn La ........................................................................................21 2.2. Thực trạng ý thức pháp luật của học viên Trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục Thường xuyên huyện Mường La, tỉnh Sơn La ........................................................24 2.3. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng ý thức pháp luật của học viên Trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục Thường xuyên huyện Mường La, tỉnh Sơn La ..................41 2.4. Ý nghĩa của việc nâng cao ý thức pháp luật cho học viên Trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục Thường xuyên huyện Mường La, tỉnh Sơn La .................................44 Tiểu kết chương 2 ...........................................................................................................46 CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO Ý THỨC PHÁP LUẬT CHO HỌC VIÊN TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP - GIÁO DỤC THƢỜNG XUYÊN HUYỆN MƢỜNG LA, TỈNH SƠN LA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY .....................................................................................................................47 3.1. Một số giải pháp để nâng cao ý thức pháp luật cho học viên Trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục Thường xuyên huyện Mường La, tỉnh Sơn La ........................47 3.1.1. Tăng cường sự lãnh đạo đối với công tác nâng cao ý thức pháp luật cho học viên Trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục Thường xuyên huyện Mường La, tỉnh Sơn La .....................................................................................................................................47 3.1.2. Kết hợp nâng cao ý thức pháp luật với giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống cho học viên Trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục Thường xuyên huyện Mường La, tỉnh Sơn La...................................................................................................48 3.1.3. Đổi mới nội dung, chương trình giáo dục ý thức pháp luật cho học viên Trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục Thường xuyên huyện Mường La, tỉnh Sơn La ..50 3.1.4. Đổi mới hình thức, phương pháp giáo dục, tuyên truyền ý thức pháp luật cho học viên Trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục Thường xuyên huyện Mường La, tỉnh Sơn La ......................................................................................................................52 3.1.5. Tăng cường các nguồn lực hỗ trợ cho công tác tuyên truyền ý thức pháp luật cho học viên Trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục Thường xuyên huyện Mường La, tỉnh Sơn La ......................................................................................................................54 3.1.6. Tăng cường giáo dục nâng cao ý thức pháp luật cho học viên Trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục Thường xuyên huyện Mường La, tỉnh Sơn La thông qua gia đình, trung tâm và các tổ chức chính trị - xã hội ......................................................55 3.2. Kiến nghị ..................................................................................................................57 Tiểu kết chương 3 ...........................................................................................................60 KẾT LUẬN ....................................................................................................................61 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 1.1: Xếp loại hạnh kiểm và học lực của học viên năm học 2014 - 2017 .............21 Bảng 1.2: Số lượng học viên các dân tộc năm học 2016 - 2017....................................24 Bảng 2.1: Thái độ của học viên đối với pháp luật..........................................................26 Bảng 2.2: Thực trạng hiểu biết pháp luật của học viên ..................................................29 Bảng 2.3: Kết quả học tập môn giáo dục công dân của học viên ..................................31 Bảng 2.4: Ý kiến của học viên về các hành vi vi phạm pháp luật .................................34 Bảng 2.5: Thái độ và hành vi của học viên trước các tình huống pháp luật..................36 Biểu đồ 2.1: Thái độ của học viên khi tham gia các hoạt động ngoại khóa ..................39 Biểu đồ 2.2: Tầm quan trọng của công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục ý thức pháp luật cho học viên .............................................................................................................40 Biểu đồ 2.3: Đánh giá của học viên về biểu hiện ý thức pháp luật của học viên hiện nay ...................................................................................................................................41 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, vấn đề chính quyền và việc xây dựng, hoàn thiện một nhà nước kiểu mới, nhà nước của dân, do dân và vì dân luôn là mối quan tâm hàng đầu, là nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và Nhà nước ta. Đặc biệt là sự phát triển đất nước trong giai đoạn đổi mới và vận hành theo nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang đặt ra yêu cầu xây dựng một nền dân chủ, đảm bảo quyền tự do, bình đẳng của công dân, cũng như yêu cầu cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng hệ thống pháp luật càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Pháp luật đã góp phần đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, duy trì và tạo được một số chuyển biến về mặt xã hội, góp phần không nhỏ vào việc củng cố tiềm lực quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tạo thế và lực đưa nước ta hội nhập thế giới. Chúng ta cũng đang từng bước xây dựng, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật cho phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới. Nhiều văn bản pháp luật đã và đang đi vào cuộc sống, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân. Điều đó càng khẳng định pháp luật ngày càng hoàn thiện hơn, hoạt động tuyên truyền pháp luật được phổ biến rộng rãi hơn thì ý thức pháp luật sẽ được nâng lên, sự định hướng hành vi cho mọi công dân cũng sẽ tốt hơn. Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề này, tại Hội nghị Trung ương toàn quốc giữa nhiệm kì khóa VII, Đảng ta đã xác định: Tăng cường giáo dục ý thức pháp luật, nâng cao hiểu biết và ý thức thực hiện pháp luật, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, đảm bảo cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm minh, thống nhất và công bằng. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức và mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật”. “Phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp luật, tuyên truyền, giáo dục toàn dân nâng cao ý thức chấp hành pháp luật”. [3, tr. 135] Sơn La là một tỉnh nằm ở miền Tây bắc của Tổ quốc, là nơi chưa có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, song Sơn La là một tỉnh luôn thực hiện tốt mọi chủ chương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước để cùng với cả nước thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tất cả vì mục tiêu 1 dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Mường La là một trong những huyện của Sơn La mà trong những năm gần đây đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên, trước sự mở rộng hội nhập của đất nước nói chung và huyện Mường La nói riêng đã tác động rất nhiều đến lối sống, suy nghĩ của nhiều người trong đó có học viên Trung Tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục Thường xuyên huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Hiện nay tội phạm, tệ nạn xã hội liên quan đến an toàn giao thông, trộm cắp, ma túy trong độ tuổi thanh, thiếu niên có chiều hướng gia tăng. Phần lớn là số người vi phạm trong độ tuổi thanh niên, học sinh, tỷ lệ thanh, thiếu niên mắc các tệ nạn xã hội khá cao; học sinh, học viên vi phạm pháp luật có nhiều dấu hiệu phức tạp. Bên cạnh tình trạng vi phạm pháp luật thì lối sống buông thả, thực dụng, hưởng thụ...đã xuất hiện ở một bộ phận không nhỏ trong học sinh, học viên ở Mường La. Do đó, việc nhanh chóng nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh, học viên ở huyện Mường La, đặc biệt là học viên Trung Tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục Thường xuyên huyện Mường La, giúp cho các em có tri thức cần thiết và hành trang vững bước trong việc xây dựng trường học lành mạnh, trật tự, kỷ cương; xây dựng huyện Mường La, tỉnh Sơn La phát triển ngày càng giàu đẹp, góp phần xây dựng thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một yêu cầu cần thiết trong tình hình hiện nay. Xuất phát từ thực tế nêu trên, tôi đã chọn đề tài: “Nâng cao ý thức pháp luật cho học viên Trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục Thường xuyên huyện Mường La, tỉnh Sơn La trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Việc nâng cao ý thức pháp luật cho người dân nói chung và học viên nói riêng có ý nghĩa to lớn, tạo nên nội lực cho việc xây dựng thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do vậy, chủ đề này đã được nhiều công trình khoa học nghiên cứu. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như: “Bàn về ý thức pháp luật” của Hoàng Thị Kim Quế, Luật học, Trường Đại Học Luật Hà Nội, số 1/2003; “Vấn đề nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh các trường chuyện nghiệp ở tỉnh Yên Bái hiện nay” - luận văn thạc sĩ của Lê Hoài Nam, người hướng dẫn: PGS.TS.Hồ Trọng Hoài, Hà Nội, 2008; “Một số biện pháp nhằm nâng cao ý thức pháp luật phòng, 2 chống ma túy trong học sinh, sinh viên hiện nay” của Nguyễn Thị Hoàng Lan, Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp, số 10/2009; “Ý thức pháp luật và xây dựng ý thức chấp hành pháp luật về trật tự, an toàn giao thông” của Lê Thị Phương Nga, Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp, số 7/2009; “Ảnh hưởng của ý thức pháp luật đến việc thực hiện pháp luật ở Việt Nam hiện nay” - khóa luận tốt nghiệp của Đào Thị Tuyền, TS.Nguyễn Văn Năm hướng dẫn, Hà Nội, 2012; “Ý thức pháp luật của thanh niên trên địa bàn Thành Phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay”, - khóa luận tốt nghiệp của Phạm Thị Hân, người hướng dẫn: PGS.TS.Nguyễn Minh Đoan, Hà Nội, 2012; “Giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh trung học phổ thông ở tỉnh Yên Bái hiện nay” - luận văn thạc sĩ Triết học của Nguyễn Thị Quỳnh Nga, người hướng dẫn: PGS.TS.Nguyễn Đình Tường, Hà Nội, 2013... ngoài ra còn rất nhiều bài báo, bài viết về vấn đề này được đăng trên các tạp chí, sách báo. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đã làm rõ tính cấp thiết và đề xuất những giải pháp thiết thực trong việc nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này chưa nhiều và thời gian thực hiện cách đây đã lâu nên chưa đáp ứng kịp thời với tình hình thực tiễn của đất nước. Đối với vấn đề nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh, học viên thì vẫn là một khoảng trống để ngỏ rất ít công trình nghiên cứu, đề cập đến, đặc biệt đối với huyện Mường La. Trong những năm gần đây tình hình kinh tế - xã hội có nhiều biến chuyển, đời sống nhân dân không ngừng nâng cao. Bên cạnh mặt tích cực đó thì trên địa bàn huyện cũng xuất hiện nhiều vấn đề về trật tự, an ninh, an toàn xã hội. Đặc biệt, tình trạng phạm tội trong nhân dân không ngừng gia tăng, trong đó xuất hiện ngày càng nhiều đối tượng phạm tội là học sinh, học viên. Trước những thực trạng đó đòi hỏi nhu cầu bức thiết được giải đáp, định hướng về mặt lý luận những vấn đề nghiên cứu ý thức pháp luật cho học viên ở Trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục Thường xuyên huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Điều này rất có ý nghĩa đối với học viên Trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục Thường xuyên huyện Mường La, tỉnh Sơn La. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận - Mục đích của khóa luận: Thông qua nghiên cứu, khảo sát, phân tích khóa luận nghiên cứu đặc điểm, thực trạng ý thức pháp luật của học viên Trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục Thường xuyên huyện Mường La, tỉnh Sơn La để đánh giá sự hiểu biết về pháp luật, ý thức pháp luật của học viên, từ đó đề xuất một số kiến nghị 3 nhằm giúp học viên nâng cao ý thức pháp luật, tránh xa các tệ nạn xã hội, không vi phạm pháp luật. - Nhiệm vụ của khóa luận: + Phân tích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn có liên quan đến ý thức pháp luật và vai trò của việc nâng cao ý thức pháp luật cho học viên hiện nay. + Phân tích thực trạng, đề xuất một số giải pháp và kiến nghị để nâng cao ý thức pháp luật cho học viên Trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục Thường xuyên huyện Mường La, tỉnh Sơn La. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của khóa luận: học viên Trung tâm giáo dục nghề nghiệp giáo dục Thường xuyên huyện Mường La, tỉnh Sơn La. - Phạm vi nghiên cứu của khóa luận: + Địa bàn nghiên cứu: Trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục Thường xuyên huyện Mường La, tỉnh Sơn La. + Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 1 năm 2017 đến tháng 6 năm 2017 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Khóa luận dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về các vấn đề có liên quan trong đề tài. - Trên cơ sở phương pháp biện chứng duy vật và các phương pháp khác như: Phân tích, tổng hợp, điều tra, khảo sát, thống kê, phỏng vấn. 6. Đóng góp của khóa luận - Về mặt lý luận: Khóa luận góp phần làm rõ về vai trò của ý thức pháp luật và vai trò của ý thức pháp luật cho học viên hiện nay. - Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của khóa luận nhằm tìm ra các biện pháp tác động giúp học viên tuân thủ và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật hoặc được dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu cho sinh viên khoa Lý luận chính trị, Trường Đại học Tây Bắc. 7. Kết cấu của khóa luận Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của khóa luận gồm 3 chương: Chương 1: Lý luận chung về nâng cao ý thức pháp luật cho học viên trong giai đoạn hiện nay. 4 Chương 2: Thực trạng về nâng cao ý thức pháp luật cho học viên Trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục Thường xuyên huyện Mường La, tỉnh Sơn La trong giai đoạn hiện nay. Chương 3: Một số giải pháp để nâng cao ý thức pháp luật cho học viên Trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục Thường xuyên huyện Mường La, tỉnh Sơn La trong giai đoạn hiện nay. 5 CHƢƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ NÂNG CAO Ý THỨC PHÁP LUẬT CHO HỌC VIÊN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 1.1. Khái niệm và đặc điểm của ý thức pháp luật 1.1.1. Khái niệm pháp luật và ý thức pháp luật 1.1.1.1. Khái niệm pháp luật Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, thời kỳ cộng sản nguyên thủy là thời kỳ không có Nhà nước và do vậy cũng không có pháp luật, hành vi con người và các thành viên trong xã hội được điều chỉnh bởi các quy phạm đạo đức, phong tục, tập quán, tín ngưỡng. Khi Nhà nước ra đời, pháp luật cũng xuất hiện và là công cụ của giai cấp cầm quyền để quản lý xã hội. Pháp luật là một hiện tượng xã hội có vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống chính trị của một xã hội có giai cấp. Pháp luật là công cụ sắc bén để thực hiện quyền lực nhà nước, duy trì và bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền. Theo học thuyết Mác Lênin, pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và phát triển trong xã hội có giai cấp. Cũng như Nhà nước, bản chất của pháp luật thể hiện rõ tính giai cấp và tính xã hội, hai thuộc tính này có mối quan hệ mật thiết với nhau. Xét theo quan điểm hệ thống, không có pháp luật chỉ thể hiện duy nhất tính giai cấp, ngược lại, cũng không có pháp luật chỉ thể hiện tính xã hội. Như vậy, hiểu pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp nắm quyền lãnh đạo và là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm tạo ra trật tự và ổn định trong xã hội. Pháp luật Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành theo một trình tự thủ tục nhất định, thể hiện ý chí, nguyện vọng và lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, có tính chất bắt buộc chung đối với toàn xã hội nhằm điều chỉnh các quan hệ trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 1.1.1.2. Khái niệm ý thức pháp luật Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội trong xã hội có giai cấp; trong đó, nó thể hiện tri thức và sự đánh giá về tính công bằng của những quy tắc được chấp nhận trong một xã hội nhất định với tính cách là luật pháp, về quyền hạn và nghĩa vụ 6 các thành viên trong xã hội, về tính hợp pháp hay không hợp pháp của hành vi con người, nó là một trong những vấn đề cơ bản, đa dạng, phức tạp của đời sống pháp luật. Từ điển Bách khoa toàn thư của Việt Nam, định nghĩa về ý thức pháp luật được đề cập như sau: Ý thức pháp luật là tổng hợp những quan điểm, tư tưởng học thuyết thể hiện thái độ của con người, các nhóm xã hội, giai cấp... đối với pháp luật, pháp chế cũng như quan điểm của họ về sự hợp pháp hay không hợp pháp trong những hành vi của những cá nhân, tổ chức, xã hội; Ý thức pháp luật có nội dung chủ yếu: 1. Sự hiểu biết về pháp luật 2. Thái độ đối với pháp luật 3. Khả năng thực hiện, áp dụng pháp luật. Triết học mác - xít cho rằng, ý thức pháp luật là một trong những hình thái ý thức xã hội trong xã hội có giai cấp, nó cùng tồn tại khách quan với các hình thái ý thức xã hội khác như đạo đức, chính trị, tôn giáo, nghệ thuật, khoa học. Ý thức pháp luật tồn tại phổ biến trong ý thức của mọi cá nhân và toàn xã hội, bản chất của nó là phản ánh đời sống pháp luật của xã hội. Đời sống pháp luật đó là nhu cầu cần phải điều chỉnh những hành vi có tính lặp đi, lặp lại thường xuyên, phổ biến của con người trong đời sống xã hội nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp nắm quyền lực và duy trì sự ổn định của cộng đồng xã hội. Nhu cầu cần điều chỉnh đó được con người phản ánh một cách tích cực và sáng tạo hình thành ý thức pháp luật. Ý thức pháp luật hiểu theo nghĩa thông thường, theo nghĩa hẹp thì đó là ý thức chấp hành những quy định pháp luật của con người. Quan niệm này thường được xem như sự đánh giá chủ quan của một tập thể, cá nhân nào đó về mức độ hành vi chấp hành của một đối tượng nhất định trong việc thực hiện pháp luật theo những quy định trong văn bản pháp lý, đó là sự đánh giá mức độ ý thức pháp luật cao hay thấp, tốt hay kém của họ. Cách quan niệm này vô hình chung đã đồng nhất ý thức pháp luật với một hình thức biểu hiện cụ thể của nó. Như vậy, sẽ là quá hẹp, phiến diện vì nó chưa thể hiện rõ được vai trò, chức năng, bản chất và kết cấu của ý thức pháp luật. Trong lý luận khoa học, ý thức pháp luật được hiểu theo nghĩa rộng, có tính khách quan toàn diện và khái quát cao. Tuy nhiên, do mục đích yêu cầu và phương diện nghiên cứu khác nhau nên cho đến nay đã xuất hiện nhiều quan niệm khác nhau về ý thức pháp luật. 7 Quan niệm thứ nhất cho rằng: "Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, biểu thị mối quan hệ của con người đối với pháp luật" [18, tr. 130]. Đây là quan niệm mang tính khái quát cao, nhưng lại quá chung, chưa thể đầy đủ kết cấu, nội dung và nguồn gốc của ý thức pháp luật. Quan niệm thứ hai: Nhấn mạnh mặt này hay mặt khác của ý thức pháp luật. Chẳng hạn, có quan niệm tập trung nhấn mạnh cơ cấu ý thức pháp luật như: "Ý thức pháp luật là tổng hợp những tư tưởng quan điểm pháp luật và tâm lý pháp luật. Hay nói cụ thể hơn, là tổng hợp những nhận thức, những hiểu biết quan điểm pháp lý, những tình cảm pháp luật cùng với sự tôn trọng và thói quen chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật" [23, tr. 233]. Nhấn mạnh yếu tố pháp lý của ý thức pháp luật, có quan niệm cho rằng: “Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những học thuyết, quan điểm, tư tưởng, tình cảm của con người, thể hiện thái độ, sự đánh giá về tính công bằng hay không công bằng, đúng đắn hay không đúng đắn của pháp luật, về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của con người, trong các hoạt động của các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội và của các chủ thể khác” [7, tr. 326]. Có thể nói, quan niệm này khá toàn diện nếu xét theo góc độ của người làm công tác quản lý pháp luật. Tuy nhiên, "tính hợp pháp hay không hợp pháp" cần phải xem xét dưới giác độ giai cấp, gắn với một thể chế Nhà nước nhất định và sự phục vụ cho giai cấp cầm quyền nào trong xã hội. Mặt khác, quan niệm trên chỉ hàm ý áp dụng cho thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa, Nhà nước xã hội chủ nghĩa nó chưa phản ánh toàn diện kết cấu nội dung ý thức pháp luật. Xét về mặt bản chất giai cấp, có quan niệm cho rằng: "Ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa là tổng hòa những quan điểm quan niệm, tình cảm về mặt pháp luật thể hiện thái độ của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động do giai cấp công nhân lãnh đạo, đối với pháp luật, đối với những yêu cầu khác của pháp luật, đối với các quyền và nghĩa vụ của công dân" [24, tr. 196]. Một số ý kiến khác lại thu hẹp cơ cấu của ý thức pháp luật, chỉ nhấn mạnh mặt tri thức pháp luật như: “Ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan điểm và quan niệm thịnh hành trong xã hội, thể hiện mối quan hệ thông qua sự hiểu biết của con người đối với pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua và pháp luật cần phải có, thể hiện sự đánh giá về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi 8 xử sự của con người cũng như trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước và tổ chức xã hội” [1, tr. 229]. Có quan niệm chỉ tập trung nhấn mạnh ý thức của chủ thể pháp luật: "Ý thức pháp luật là trình độ hiểu biết của các tầng lớp nhân dân về pháp luật... ý thức pháp luật còn là thái độ đối với pháp luật, ý thức tôn trọng hay coi thường pháp luật, đó là thái độ đối với hành vi vi phạm pháp luật và phạm tội" [20, tr. 19]. Đành rằng, ý thức phải gắn với chủ thể với một đối tượng nhất định, song với quan niệm trên sẽ là chưa hoàn chỉnh, bởi lẽ nó chưa đề cập đến yếu tố giáo dục, văn hóa pháp luật cũng như chức năng quản lý xã hội của Nhà nước thông qua pháp luật. Quá nhấn mạnh khía cạnh ngăn ngừa, răn đe trong việc thực hiện pháp luật sẽ gây tâm trạng bắt buộc và thụ động bởi sự áp đặt của văn bản pháp luật, nó không thể hiện tính nhân đạo ưu việt của pháp luật xã hội chủ nghĩa. Quan niệm thứ ba: Đề cập tới ý thức pháp luật một cách đầy đủ, toàn diện hơn. Theo quan niệm này: “Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, là tổng thể những quan điểm, khái niệm, học thuyết pháp lý, tình cảm của con người (cá nhân, giai cấp, tầng lớp) thể hiện thái độ của họ đối với pháp luật hiện hành, trật tự pháp luật, sự đánh giá về tính công bằng hay không công bằng, đúng đắn hay không đúng đắn của pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua và pháp luật trong tương lai, và hành vi hợp pháp, hành vi không hợp pháp của cá nhân, các cơ quan Nhà nước, tổ chức” [10, tr. 290] Như vậy, có thể nói do mục đích nghiên cứu của các chủ thể, ý thức pháp luật được xem xét theo những góc độ khác nhau nên nó cũng được hiểu một cách khác nhau. Trên bình diện khoa học triết học, qua tham khảo các ý kiến nêu trên, theo mục đích yêu cầu và nhiệm vụ đề tài, tôi tán thành với quan niệm thứ ba nêu trên. Vì quan niệm trên không những chỉ ra được tính chất, cơ cấu và nội dung của ý thức pháp luật mà còn đề cập đến cả nguồn gốc, mối liên hệ phổ biến, tất yếu của ý thức pháp luật đối với đời sống xã hội. Là một hình thái ý thức xã hội, ý thức pháp luật phản ánh sâu sắc đời sống pháp luật, trước hết là sự phản ánh quá trình nhận thức về pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân và việc điều chỉnh hành vi của họ nhằm duy trì trật tự kỷ cương xã hội theo pháp luật của Nhà nước. Bởi vậy, để đạt được mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" ở nước ta, đòi hỏi một mặt phải nâng cao 9 hiệu lực pháp luật xã hội chủ nghĩa, mặt khác phải đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân. Với cách hiểu bao quát như trên, đã chỉ rõ bản chất của pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, có nguồn gốc xuất phát từ đời sống pháp luật của xã hội, có tính độc lập tương đối và đồng thời cũng làm rõ nét hơn về cơ cấu và nội dung của ý thức pháp luật. Nhận thức đúng về ý thức pháp luật có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng giúp cho chúng ta hiểu được bản chất, vai trò to lớn của ý thức pháp luật trong đời sống xã hội để có thái độ xử sự đúng đắn với sự tồn tại của nó. 1.1.2. Đặc điểm của ý thức pháp luật Các đặc điểm của ý thức pháp được thể hiện như sau: Thứ nhất, với tính cách là một hình thái ý thức xã hội - ý thức pháp luật chịu sự quy định của tồn tại xã hội nhưng đồng thời nó cũng có tính độc lập tương đối. Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định. Công lao to lớn của những nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác là đã phát triển chủ nghĩa duy vật lên đến đỉnh cao, xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử và lần đầu tiên giải quyết một cách khoa học vấn đề sự hình thành và phát triển của ý thức xã hội. C.Mác và Ph. Ăngghen đã chứng minh rằng, đời sống tinh thần của xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở đời sống vật chất, rằng không thể tìm nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội trong bản thân nó nghĩa là không thể tìm trong đầu óc của con người mà phải tìm trong hiện thực vật chất. Các ông cũng chỉ rõ, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội, những quan điểm về chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật...sớm muộn cũng biến đổi theo. Ý thức pháp luật là một bộ phận của ý thức xã hội, là sự phản ánh tồn tại xã hội từ góc độ pháp luật, thể hiện trình độ hiểu biết pháp luật và thái độ đối với pháp luật của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân trong xã hội có giai cấp. Theo đó, ý thức pháp luật và pháp luật là những bộ phận của kiến trúc thượng tầng, chịu sự quy định và bị chi phối bởi các yếu tố trong cơ sở hạ tầng mà quan trọng nhất là các điều kiện kinh tế. Vì thế, những nội dung của ý thức pháp luật và những quy định của pháp luật, xét đến cùng, chính là phải chịu sự chi phối của các yêu cầu khách quan phát sinh trong các quan hệ xã hội. Về điều này, C.Mác đã khẳng định: “Nhà lập pháp phải coi mình như là nhà khoa học tự nhiên. Ông ta không làm ra pháp luật, ông ta không phát minh ra 10 chúng mà chỉ nêu chúng lên; ông ta biểu hiện những quy luật nội tại của những mối quan hệ tinh thần thành những đạo luật thành văn có ý thức” [9, tr. 232]. Tuy nhiên, trong những điều kiện nhất định, nhiều tư tưởng pháp luật đặc biệt là tư tưởng pháp luật khoa học có thể vượt lên trên sự quy định của tồn tại xã hội. Nếu đó là tư tưởng pháp luật của giai cấp cầm quyền thì nó sẽ có cơ hội thuận lợi thể hiện pháp luật và tạo ra những sự tiến bộ trong đời sống xã hội. Ý thức pháp luật phản ánh tồn tại xã hội của một thời đại nào đó nhưng nó cũng có tính kế thừa những yếu tố của ý thức pháp luật của thời đại trước đó.Tất nhiên những yếu tố kế thừa có thể là tiến bộ hoặc không tiến bộ. Thứ hai, ý thức pháp luật có mối quan hệ tác động qua lại với các hình thái ý thức xã hội khác, nhất là đối với ý thức chính trị, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật. Tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội thể hiện ở chỗ: Trong mỗi thời đại lịch sử khác nhau, tùy thuộc vào bản chất của giai cấp cầm quyền mà vai trò của các hình thái ý thức pháp luật trong đó có ý thức pháp luật khác nhau. Ý thức pháp luật có thể chịu sự chi phối của các hình thái ý thức xã hội khác hoặc tác động chi phối ngược lại đối với các hình thái ý thức xã hội khác. Chẳng hạn, trong xã hội phong kiến ý thức pháp luật đóng vai trò chịu sự chi phối, trong xã hội tư sản ý thức pháp luật đóng vai trò chi phối các hình thái ý thức xã hội khác. Ý thức pháp luật và ý thức chính trị cùng ra đời và tồn tại trong những xã hội có giai cấp, ý thức pháp luật vừa có tính độc lập tương đối vừa chịu sự chi phối của ý thức chính trị. Nếu ý thức chính trị phản ánh những nguyên tắc trong mối quan hệ giữa các tập đoàn người trong xã hội đối với quyền lực nhà nước thì ý thức pháp luật phản ánh mối quan hệ của các cá nhân đối với nhà ý thức. Trong mối quan hệ giữa ý thức pháp luật và ý thức đạo đức, sự giống nhau là cả hai loại ý thức này đều phản ánh tồn tại xã hội nhưng sự khác nhau thể hiện ở phương thức và kết quả phản ánh. Ý thức pháp luật phản ánh đời sống pháp luật của xã hội mà kết quả phản ánh sẽ thể hiện ở quyền và nghĩa vụ mang tính bắt buộc chung để điều chỉnh hành vi của con người. Ý thức đạo đức phản ánh tồn tại xã hội dưới dạng các quy tắc điều chỉnh hành vi của con người bằng lương tâm và sự tự điều chỉnh, tự hoàn thiện, tự đánh giá mang tính tự nguyện của bản thân. Mặt khác, nội dung ý thức đạo đức không bao hàm quyền mà chỉ có nghĩa vụ, nghĩa vụ ở đây thể hiện khác với nghĩa vụ trong ý thức pháp luật, đó là nghĩa vụ mang nhân tố chủ quan và sự tự giác của mỗi 11 người. Ý thức pháp luật và ý thức đạo đức cùng chịu sự tác động của tồn tại xã hội và cùng tác động trở lại đối với tồn tại xã hội, chúng đều có vai trò tham gia điều chỉnh hành vi của con người trong xã hội. Do đó, chúng có mối liên hệ, tác động qua lại với nhau, hỗ trợ và làm tiền đề cho nhau trong sự hình thành và phát triển của nhau. Trong đó, ý thức đạo đức có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự hình thành và nâng cao ý thức pháp luật, nhất là đối với ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa. Sự khác nhau giữa ý thức pháp luật và ý thức tôn giáo thể hiện ở chỗ: Ý thức tôn giáo là sự phản ánh hoang đường hư ảo về thế giới khách quan và gắn cho những hiện tượng tự nhiên, xã hội trở nên thần bí, không phải do bị cưỡng chế hay ép buộc và ý thức tôn giáo thường mang tính chủ quan của từng cá nhân trong xã hội. Bản chất của ý thức pháp luật là sự nhận thức, đánh giá có sự điều chỉnh, có sự cưỡng chế, ép buộc của các quy định chung mang tính khách quan trong xã hội mà bắt buộc mọi cá nhân đều phải tuân thủ. Các Mác đã viết: Tôn giáo là sự tự ý thức và sự tự cảm giác của con người chưa tìm được bản thân mình hoặc đã để lại đánh mất mình một lần nữa. Khác với tôn giáo, ý thức pháp luật lại là sản phẩm của sự sàng lọc của con người về những điều được coi là cần thiết, bắt buộc phải tuân theo trong mọi hoạt động, mọi ứng xử để đảm bảo lợi ích của toàn xã hội, mà trước hết là lợi ích của giai cấp cầm quyền. Ý thức pháp luật khác với ý thức thẩm mỹ ở chỗ, ý thức thẩm mỹ là ý thức thỏa mãn trước cái đẹp và điều này không mang tính bắt buộc chung đối với tất cả mọi người. Trong xã hội, khó có một tiêu chuẩn chung về cái đẹp cho mọi người và nó không mang tính cưỡng chế như ý thức pháp luật. Vì thế, ý thức thẩm mỹ cho phép các cá nhân có sự lựa chọn rộng rãi - điều này khác với ý thức pháp luật. Nhà nước và giai cấp cầm quyền luôn thông qua việc đặt ra quy phạm pháp luật làm chuẩn mực xử sự cho hành vi của mỗi người trong xã hội, tức là áp đặt ý thức pháp luật cho xã hôi. Việc không thừa nhận ý thức này có nghĩa là chống lại ý chí của Nhà nước và sẽ bị cưỡng chế bằng các chế tài của pháp luật. Thứ ba, ý thức pháp luật mang tính giai cấp Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội mang tính giai cấp sâu sắc, phản ánh đời sống pháp luật của xã hội, thông qua quan điểm, tư tưởng về pháp luật của giai cấp cầm quyền. Nhà nước đại diện cho giai cấp cầm quyền, thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, ban hành những quy phạm pháp luật phù hợp với ý chí của giai cấp cầm quyền, nhằm giữ gìn trật tự xã hội và bảo vệ hài hòa giữa lợi ích giai cấp và xã hội. 12 1.2. Kết cấu và vai trò của ý thức pháp luật 1.2.1. Kết cấu của ý thức pháp luật Quá trình phân tích, làm rõ được kết cấu của ý thức pháp luật là tiền đề quan trọng giúp chúng ta tìm ra những phương thức phù hợp tác động để nâng cao ý thức pháp luật. Kết cấu của ý thức pháp luật là cách thức tổ chức bên trong của ý thức pháp luật, trong đó, giữa các nhân tố cấu thành của ý thức pháp luật vừa thống nhất với nhau vừa tác động ảnh hưởng lẫn nhau và với các hiện tượng khác trong đời sống xã hội. Ý thức pháp luật là hiện tượng xã hội phức tạp, theo các lát cắt khác nhau, có thể chia ý thức pháp luật thành những yếu tố cấu thành khác nhau. Mỗi cách phân chia đều có ý nghĩa nhất định trong việc tìm hiểu bản chất, đặc điểm và vai trò của ý thức pháp luật. Xuất phát từ mục đích và nhiệm vụ của đề tài chúng tôi theo cách tiếp cận kết cấu ý thức pháp luật gồm hai bộ phận: Hệ tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật. Một là: Hệ tƣ tƣởng pháp luật Nói đến hệ tư tưởng pháp luật là nói đến bản chất của pháp luật, nó thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội có phân chia giai cấp. Hệ tư tưởng pháp luật đó là hệ thống các quan điểm, tư tưởng của con người, phản ánh một cách sâu sắc đời sống pháp luật theo ý chí của một giai cấp nhất định, nó được thể hiện thông qua hệ thống các phạm trù, khái niệm, nguyên tắc...Hệ tư tưởng pháp luật là hệ thống các vấn đề mang tính bản chất của pháp luật và quan hệ pháp luật, nó được khái quát ở tầm lý luận. Hệ tư tưởng pháp luật bao gồm tổng thể các tư tưởng, quan điểm, học thuyết về pháp luật. Chúng đề cập đến vai trò, bản chất giai cấp, các thuộc tính của pháp luật cũng như mối quan hệ giữa pháp luật với dân chủ, tự do công bằng, quyền con người, mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ pháp chế trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về nhận thức pháp luật và thực hiện pháp luật. Trong một chế độ chính trị - xã hội ở mỗi quốc gia nhất định, hệ tư tưởng pháp luật chính thống bao giờ cũng là hệ tư tưởng của giai cấp thống trị (trong xã hội chiếm hữu nô lệ thì giai cấp thống trị là chủ nô, xã hội phong kiến do giai cấp địa chủ thống trị, xã hội tư bản chủ nghĩa giai cấp tư sản giữ địa vị thống trị, trong xã hội xã hội chủ nghĩa giai cấp thống trị là giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản). Khi giai cấp cầm quyền là lực lượng tiến bộ của xã hội, có lợi ích kinh tế - chính trị phù hợp với lợi ích căn bản của số đông các lực lượng khác trong xã 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan