Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nâng cao năng lực hiệu lực quản lý nhà nước về môi trường ở việt nam hiện nay...

Tài liệu Nâng cao năng lực hiệu lực quản lý nhà nước về môi trường ở việt nam hiện nay

.PDF
458
173
126

Mô tả:

HỌC VIỆN CT-HCQG HỒ CHÍ MINH VIỆN KINH TẾ BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI NÂNG CAO NĂNG LỰC HIỆU LỰC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY CNĐT : NGUYỄN THỊ THƠM 8259 HÀ NỘI – 2010 DANH SÁCH CỘNG TÁC VIÊN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 1. Lê Tuấn Anh - Học viên Cao học KTPT, KTT, Khóa 16 2. ThS. Nguyễn Thành Công - Trường Đại học Công đoàn 3. PGS.TS An Như Hải - Học viện CT - HC quốc gia Hồ Chí Minh 4. PGS. TS Tô Đức Hạnh - Trường Đại học KTQD Hà Nội 5. ThS. Phí Thị Hằng - Học viện CT - HC quốc gia Hồ Chí Minh 6. PGS.TS Nguyễn Thị Hường - Học viện CT - HC quốc gia Hồ Chí Minh 7. ThS. Trần Thị Tuyết Lan - Học viện CT - HC quốc gia Hồ Chí Minh 8. Nguyễn Thị Kiều Linh - Viện Nghiên cứu Khoa học BHLĐ, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam 9. Trần Nguyên Lý - Sở KH - CN tỉnh Vĩnh Phúc 10. ThS. Nguyễn Thị Miền - Học viện CT - HC quốc gia Hồ Chí Minh MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HIỆU LỰC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ MÔI TRƯỜNG 1.1. Nhận thức chung về quản lý nhà nước về môi trường 01 19 19 1.1.1. Khái niệm, nội dung quản lý nhà nước về môi trường 19 1.1.2. Nguyên tắc và các công cụ quản lý nhà nước về môi trường 22 1.2. Một số vấn đề lý luận về hiệu lực quản lý nhà nước về môi trường 36 1.2.1. Khái niệm “hiệu lực quản lý nhà nước về môi trường” và các chỉ tiêu đánh giá 36 1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu lực quản lý nhà nước về môi trường 45 1.3. Kinh nghiệm quốc tế về nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về môi trường và bài học rút ra cho Việt Nam 51 1.3.1. Một số kinh nghiệm quốc tế về nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về môi trường 51 1.3.2. Bài học rút ra cho Việt Nam Chương 2: THỰC TRẠNG HIỆU LỰC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VÊ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM 68 74 2.1. Thực trạng hiệu lực quản lý nhà nước trong khắc phục ô nhiễm, suy thoái môi trường ở Việt Nam 74 2.1.1. Tổng quan các văn bản pháp luật về khắc phục ô nhiễm, suy thoái môi trường ở Việt Nam 74 2.1.2. Tình hình thực thi các văn bản pháp luật về khắc phục ô nhiễm, suy thoái môi trường và những kết quả đạt được 76 2.1.3. Đánh giá hiệu lực quản lý nhà nước trong khắc phục ô nhiễm, suy thoái môi trường 2.2. Thực trạng hiệu lực quản lý nhà nước trong thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam 89 95 2.2.1. Tổng quan các văn bản pháp luật về đánh giá tác động môi trường 95 2.2.2. Tình hình thực thi việc thẩm định Báo cáo đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam từ 2005 đến nay 101 2.2.3. Đánh giá hiệu lực quản lý nhà nước trong thẩm định đánh giá báo cáo tác động môi trường từ 2005 đến nay 106 2.3. Thực trạng hiệu lực quản lý nhà nước trong hoạt động kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường ở Việt Nam 115 2.3.1. Tổng quan các văn bản pháp luật về kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường 116 2.3.2. Tình hình thực thi việc kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường từ năm 2005 đến nay 120 2.3.3. Đánh giá hiệu lực quản lý nhà nước trong hoạt động kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường 133 2.4. Nguyên nhân hiệu lực quản lý nhà nước về môi trường ở nước ta yếu kém 139 2.4.1. Hệ thống luật pháp, chính sách về bảo vệ môi trường còn nhiều bất cập 139 2.4.2. Hệ thống chế tài xử phạt vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường có nhiều bất hợp lý 143 2.4.3. Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về môi trường còn nhiều yếu kém 147 2.4.4. Bảo vệ môi trường chưa trở thành ý thức của nhiều người 150 2.4.5. Một số nguyên nhân khác 153 Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU LỰC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI 156 3.1. Quan điểm và mục tiêu nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về môi trường ở Việt Nam trong thời gian tới 156 3.1.1. Quan điểm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về môi trường ở Việt Nam 156 3.1.2. Mục tiêu nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về môi trường ở Việt Nam đến 2020 160 3.2. Giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về môi trường ở Việt Nam trong thời gian tới 161 3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách bảo vệ môi trường 161 3.2.2. Tăng cường chế tài xử phạt vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường 168 3.2.3. Hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về môi trường các cấp 171 3.2.4. Nâng cao ý thức, trách nhiệm bảo vệ môi trường trong toàn xã hội 180 3.2.5. Giải pháp khác 188 KẾT LUẬN 191 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 194 PHỤ LỤC 203 DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ VÀ PHỤ LỤC Số hiệu Tên bảng Trang 2.1: Mức độ xử lý ÔNMT của các cơ sở có tên trong danh sách 83 Quyết định 64/2003/QĐ-TTg ở 19 địa phương đã tiến hành kiểm tra 2.2: Kết quả thực hiện Quyết định 64/2003 của 19 địa phương 84 2.3: Tổng hợp kết quả đạt được trong việc thực thi Quyết định 64/2003 trên phạm vi cả nước 87 2.4: Kết quả thẩm định và phê duyệt Báo cáo đánh giá tác động môi trường của Bộ TN và MT từ năm 2005 - 2009 101 2.5: Danh mục cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực môi trường của các Bộ 102 2.6: Kết quả hoạt động thẩm định Báo cáo ĐTM của Sở TN và MT Yên Bái từ 2006 đến 2009 104 2.7: Số lượng cơ sở và địa phương được Thanh tra bộ TN và 134 MT và các cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ kiểm tra từ 2005 đến nay Số hiệu Tên sơ đồ 3.1: Sử dụng kênh thông tin tác động đến các doanh nghiệp nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm bảo vệ môi trường của 182 các doanh nghiệp Phụ lục 203 Hình 1: Sơ đồ tổ chức cơ quan bảo vệ môi trường Trung Quốc Hình 2: Sơ đồ tổ chức các cơ quan bảo vệ môi trường Singapore Hình 3: Sơ đồ tổ chức Bộ môi trường và tài nguyên thiên nhiên Philipine Hình 4: Sơ đồ tổ chức các cơ quan bảo vệ môi trường Malayxia Hình 5: Sơ đồ tổ chức Bộ khoa học, công nghệ và môi trường Thái Lan BẢNG VIẾT TẮT BVMT : Bảo vệ môi trường CKBVMT : Cam kết bảo vệ môi trường CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ĐPT : Đang phát triển ĐTC : Đánh giá tác động môi trường chiến lược ĐTM : Đánh giá tác động môi trường KCN : Khu công nghiệp CCN : Cụm công nghiệp NGOs : Vốn của các Tổ chức phi chính phủ NĐ - CP : Nghị định Chính phủ NSNN : Ngân sách Nhà nước ODA : Hỗ trợ phát triển chính thức ÔNMT : Ô nhiễm môi trường ÔNMTNT : Ô nhiễm môi trường nghiêm trọng QLMT : Quản lý môi trường QLNN : Quản lý nhà nước TCVN : Tiêu chuẩn Việt Nam TNHH : Trách nhiệm hữu hạn TTKT : Tăng trưởng kinh tế TN và MT : Tài nguyên và Môi trường UBND : Uỷ ban nhân dân MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trải qua hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã giành được nhiều thành tựu to lớn. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt bình quân trên 7%/năm trong một thời gian dài. Thu nhập bình quân đầu người đã tăng lên đáng kể, năm 2008 đạt gần 1.000 USD. Tích luỹ của nền kinh tế ngày càng tăng, tạo điều kiện để giải quyết thành công nhiều vấn đề xã hội. Những năm gần đây, bình quân mỗi năm tạo được trên 1,5 triệu việc làm cho người lao động, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh; chăm sóc sức khỏe cho người dân ngày càng tốt hơn, phúc lợi xã hội ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả kinh tế - xã hội đã đạt được, ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên trầm trọng. Năm 2008, cùng với sự bùng nổ của lạm phát, vấn đề môi trường nổi lên như một chủ điểm nóng mà bất cứ người Việt Nam nào cũng phải quan tâm. Trong những sự kiện nổi bật nhất của năm 2008 ở Việt Nam, vụ việc Công ty Vedan vi phạm nghiêm trọng Luật BVMT có thể được coi là đáng chú ý nhất. Với việc xả hàng ngàn m3 nước thải công nghiêp chưa qua xử lý ra môi trường trong một ngày, doanh nghiệp này đã gây bức tử dòng sông Thị Vải. Dư luận xã hội xôn xao, nhiều diễn đàn đã đăng tải ý kiến của các nhà khoa học, các nhà quản lý và của người dân, đặc biệt là của tầng lớp trẻ (trong đó có cả những học sinh phổ thông) về những vấn đề liên quan đến môi trường sau sự kiện trên. Nhiều câu hỏi đặt ra xung quanh vấn đề này: Vì sao Vedan lại có thể xả một khối lượng lớn nước thải không qua xử lý vào sông Thị Vải trong gần 15 năm qua, trong khi doanh nghiệp này đã cam kết thực hiện các quy định về môi trường và trên thực tế đã xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung? Vì sao hiện nay có đến trên 70% khu công nghiệp ở Việt Nam chưa có hệ thống xử lý nước thải công nghiệp mà vẫn hoạt động, trong khi đây là quy định bắt buộc đối với các dự án sản xuất công nghiệp? Có bao nhiêu dòng sông, kênh, rạch đang bị ô nhiễm nặng? Vì sao nhiều làng, xã hiện nay 1 đang mắc hội chứng “làng, xã ưng thư”? Vì sao nạn tàn phá rừng, kể cả rừng phòng hộ và rừng đầu nguồn vẫn diễn ra ở khắp các địa phương? Nguyên nhân nào gây ra lũ lụt chưa từng có ở Việt Nam trong những năm gần đây? Vì sao hiện tượng biến đổi khí hậu lại xảy ra thường xuyên ở nước ta? Phải chăng Việt Nam đang hy sinh môi trường để đổi lấy tăng trưởng kinh tế trong những năm qua? Vì sao từ năm 2004 Chính phủ đã ban hành Định hướng chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam trong thế kỷ 21 nhưng đến nay việc triển khai thực hiện lại hết sức hạn chế như vậy? Đặc biệt có một luồng ý kiến chung trong hầu hết các bài viết, ý kiến của nhiều tác giả là trách nhiệm của Nhà nước và hơn hết là của các cơ quan QLNN đối các vấn đề trên như thế nào? Vì sao Việt Nam đã xây dựng một hệ thống luật đồ sộ (có trên 300 văn bản luật liên quan đến vấn đề môi trường) mà thực trạng vi phạm các quy định BVMT ở Việt Nam trong thời gian qua lại xảy ra trầm trọng và phổ biến ? Có thể thấy thực trạng này qua số lượng ý kiến chất vấn Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường ở các kỳ họp quốc hội trong năm 2008. Thời gian gần đây, các bộ, các cơ quan chức năng và chính quyền địa phương dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ đã thực sự vào cuộc, bắt đầu từ việc áp dụng các hình thức xử phạt Vedan đến việc tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện văn bản pháp luật và các công cụ chính sách để thực hiện quy định BVMT ở Việt Nam. Nhưng liệu xu hướng này có được tiếp tục đẩy mạnh trong thời gian tới hay không? Nhất là trong điều kiện nền kinh tế đang suy thoái như hiện nay thì đây là vấn đề rất phức tạp và nhạy cảm. Hiện đang có nhiều luồng ý kiến khác nhau về vấn đề này. Có ý kiến cho rằng nếu chúng ta xiết chặt hơn những quy định về môi trường, liệu có gây cản trở đến thu hút các dự án FDI trong năm 2009 và các năm tiếp theo? Hoặc, trong khi doanh nghiệp đang gặp khó khăn nếu phải thực hiện đầy đủ các quy định về BVMT sẽ làm tăng chi phí sản xuất. 2 Điều đó sẽ dẫn đến giảm khả năng cạnh tranh và có thể có nhiều doanh nghiệp phải “phá sản”. Nhưng bên cạnh đó, cũng có những phân tích ngược lại cho rằng, để phát triển bền vững, trong đó có cả bền vững về kinh tế thì vấn đề BVMT có vai trò hết sức quan trọng. Bởi vì, môi trường được bảo vệ tốt, nguồn tài nguyên thiên nhiên sẽ được sử dụng có hiệu lực, các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu sẽ tăng sức cạnh tranh nhờ tiết kiệm đầu vào và đáp ứng được tiêu chuẩn của các nước (trong đó có tiêu chuẩn môi trường). Do đó, cần phải tiếp tục bổ sung, sửa đổi các quy định pháp luật và tăng cường sử dụng các công cụ của chính sách để QLMT chặt chẽ hơn. Đặc biệt, đã có một số tác giả bàn về hiệu lực QLNN về môi trường ở Việt Nam hiện nay. Nhưng khi bàn về nội dung cần hoàn thiện đối với lĩnh vực này thì còn có những quan điểm chưa thống nhất. Có tác giả khuyến nghị việc cần làm ngay là thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật về môi trường. Bởi vì, nhìn chung hệ thống pháp luật trong lĩnh vực này ở Việt Nam về cơ bản là đầy đủ, phủ khắp các lĩnh vực liên quan đến môi trường nhưng vì khâu thực thi yếu nên hiệu lực QLNN về môi trường rất thấp và chính hạn chế này đã dẫn đến những vấn đề môi trường trầm trọng như hiện nay. Một số ý kiến khác lại cho rằng, cần bắt tay ngay vào hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật để bảo đảm tính đồng bộ và ăn khớp giữa các luật, bởi đây là nguyên nhân cơ bản làm cho luật pháp BVMT khó đi vào thực tiễn ở Việt Nam... Thực tế đó đòi hỏi phải có sự nghiên cứu sâu sắc, toàn diện và có căn cứ khoa học về những vấn đề nêu trên. Nhóm nghiên cứu lựa chọn đề tài: “Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về môi trường ở Việt Nam hiện nay” với hy vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề, từ đó đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực QLNN về môi trường ở nước ta. 3 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Môi trường và QLNN về môi trường là một trong những chủ đề được rất nhiều tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước quan tâm. Do đó, đến nay số lượng các công trình đã được công bố về những vấn đề trên hết sức phong phú. Có thể phân loại các công trình trên theo các hướng nghiên cứu cơ bản sau đây: 2.1. Hướng nghiên cứu những vấn đề chung về quản lý nhà nước đối với lĩnh vực môi trường Đây là một hướng nghiên cứu cơ bản nên số lượng công trình có rất nhiều. Trong các công trình thuộc hướng này, chúng tôi thấy có thể chia thành hai nhóm như sau: 2.1.1. Các công trình nghiên cứu hệ thống pháp luật liên quan đến BVMT ở Việt Nam Ở các công trình thuộc nhóm này, các tác giả đã giải quyết được một số vấn đề quan trọng trên cơ sở phân tích quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến môi trường, đặc biệt là Luật BVMT. Các nghiên cứu đều khẳng định: bên cạnh những tiến bộ đã đạt được, hệ thống luật pháp BVMT vẫn còn chứa đựng rất nhiều hạn chế. Chẳng hạn, các quy định về một vấn đề cụ thể còn vênh nhau trong các văn bản pháp luật hoặc các quy định trong các luật còn mang tính trừu tượng, chung chung. Những hạn chế đó đã dẫn đến việc thực thi luật pháp rất khó khăn và không nhất quán. Do đó, để nâng cao hiệu lực QLNN về môi trường ở Việt Nam hiện nay, các cơ quan chức năng cần nhanh chóng rà soát lại toàn bộ hệ thống luật pháp liên quan đến môi trường để kịp thời sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Đồng thời, ở nhóm này một số tác giả đã phân tích các chế tài xử phạt đối với các hành vi vi phạm Quy định BVMT ở nước ta hiện nay còn ở mức quá thấp trong mối tương quan so sánh với luật pháp của các nước khác. Do đó, luật pháp Việt Nam chưa đủ sức răn đe và ngăn ngừa các tổ chức và cá nhân vi 4 phạm các quy định BVMT. Từ đó, các tác giả khuyến nghị phải nâng mức phạt bằng kinh tế và áp dụng các chế tài xử phạt tương ứng với mức độ gây thiệt hại đối với môi trường. Tuy nhiên, các phân tích mà các tác giả thuộc nhóm này đã tiến hành chỉ mới là những gợi mở ban đầu, chưa được lý giải một cách toàn diện vấn đề nghiên cứu. Đặc biệt là vấn đề hiệu lực của hệ thống pháp luật trong lĩnh vực môi trường chỉ đề cập rất ít. Tiêu biểu cho nhóm nghiên cứu này, có thể kể đến các công trình sau: - Các quy định pháp luật về môi trường, tập 1, Nxb CTQG, H.1995 - Các quy định pháp luật về môi trường, tập 2, Nxb CTQG, H.1997. - Cần hoàn thiện văn bản pháp luật hoàn thiện môi trường,Vietnamnet, ngày 3/3/2009. - Luật Bảo vệ môi trường, Nxb Tư pháp, H.2006. - Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25/6/1998 của Bộ Chính trị về Tăng cường công tác BVMT trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. - Chiến lược BVMT quốc gia, Nxb CTQG, H.2004. - ThS. Hoàng Thị Cường, Tăng cường QLMT đối với các Khu công nghiệp, Tạp chí QLNN, tháng 2/2009, tr. 23-26. - Văn bản pháp luật môi trường thiếu nhiều văn bản pháp luật răn đe, Vietnamnet, ngày 5/11/2008. - ThS Lê Hồng Yến, QLNN về môi trường trong các khu công nghiệp, Tạp chí QLNN, Số, tr. 25-28. - Trần Hồng Hà, QLNN về môi trường - Thực trạng và giải pháp, Tạp chí QLNN, tháng 2/2009, tr. 15-19,27. 2.1.2. Các công trình nghiên cứu về chiến lược, quy hoạch phát triển liên quan đến BVMT ở Việt Nam. Ở nhóm này, các tác giả đã tập trung phân tích các nội dung của Định hướng chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam trong thế kỷ 21 (K.A21.Vietnam Agenda 21), Chiến lược BVMT Việt Nam đến năm 2020, Chiến lược 5 phát triển và bảo vệ các tài nguyên quan trọng như Chiến lược phát triển tài nguyên biển, Chiến lược phát triển và bảo vệ tài nguyên rừng, Chiến lược phát triển các ngành có tác động đáng kể đến môi trường… Các tác giả của công trình nghiên cứu này đều thống nhất rằng, các chiến lược trên có vai trò rất quan trọng đối với BVMT sinh thái ở Việt Nam. Bởi vì, chiến lược chính là công cụ quản lý dài hạn của Nhà nước trong lĩnh vực môi trường. Đồng thời, các tác giả cũng khẳng định mặc dù đã có nhiều thay đổi trong tư duy khi xây dựng chiến lược nhưng các nhà làm chiến lược Việt Nam vẫn chưa có một tầm nhìn dài hạn và đầy đủ. Đặc biệt, yêu cầu lồng ghép các vấn đề về môi trường trong chiến lược phát triển các ngành chưa được quan tâm đúng mức. Bên cạnh đó, trong số các công trình thuộc nhóm này, các tác giả đã đi vào phân tích một số quy hoạch phát triển một số tài nguyên quan trọng như Quy hoạch sử dụng đất, Quy hoạch khai thác khoáng sản và đồng thời cũng bàn đến quy hoạch của một số ngành quan trọng như công nghiệp, nông nghiệp theo yêu cầu BVMT. Các tác giả đã chỉ ra những hạn chế của quy hoạch và đều tập trung ở những điểm sau đây: Quy hoạch thiếu tính tổng thể (ở tầm quốc gia, vùng), thiếu tính phối hợp (giữa quy hoạch khai thác các tài nguyên với ngành, vùng lãnh thổ, giữa các vùng lãnh thổ kề cạnh…), các tiêu chí về phát triển bền vững, đặc biệt là tiêu chí về môi trường chưa được đưa nhiều vào các quy hoạch. Do đó, những hạn chế của chiến lược và quy hoạch nêu trên là nguyên nhân làm giảm hiệu lực QLNN về môi trường ở Việt Nam. Từ đó, các tác giả đã đề xuất các giải pháp xây dựng chiến lược và quy hoạch dựa trên các căn cứ khoa học, đặc biệt là phải có những dự báo có chất lượng cao. Tuy vậy, ở các công trình này còn thiếu những phân tích, đề xuất quan trọng để xây dựng chiến lược và quy hoạch đáp ứng yêu cầu BVMT. Chẳng hạn, nhân tố con người đối với lĩnh vực này hầu như chưa được bàn tới, hoặc việc xây dựng cơ chế liên kết giữa các cơ quan chức năng trong xây dựng chiến lược, quy hoạch còn hết sức mờ nhạt. 6 Các công trình cơ bản của nhóm nghiên cứu này bao gồm: - TS. Lê Thị Kim Dung, Giải quyết vấn đề môi trường trong quy hoạch phát triển: Từ văn bản pháp quy đến thực tiễn quản lý, Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 12/2007, tr. 21-23. - Trương Mạnh Tiến, Môi trường và quy hoạch tổng thể theo hướng phát triển bền vững - Một số cơ sở lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị Quốc gia, H.2002. - Bài chất vấn Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, ÔNMTNT do lịch sử để lại, Vietnamnet, ngày 11/11/2008. - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Chính sách phát triển bền vững ở Việt Nam, H.2006. - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Phân tích tác động của chính sách đô thị hóa đối với phát triển bền vững ở Việt Nam, H.2006. - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Dự án VIE/01/021, Hỗ trợ xây dựng và thực hiện chương trình Nghị sự 21 quốc gia của Việt Nam, Phát triển bền vững Kỷ yếu Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất, H. tháng 12/2004. - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Dự án VIE/01/021, Kỷ yếu Hội nghị phát triển bền vững toàn quốc lần thứ hai, H. tháng 5/2006. 2.2. Hướng nghiên cứu hệ thống tổ chức QLNN về môi trường ở Việt Nam Trên cơ sở phân tích cơ cấu tổ chức và vai trò của hệ thống QLNN trong lĩnh vực môi trường ở Việt Nam, các tác giả đã chỉ ra những tồn tại của bộ máy QLNN trong lĩnh vực môi trường: Tổ chức bộ máy thiếu ổn định (lúc nhập, lúc tách từ các bộ, các sở), đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực này quá ít về số lượng (chưa bằng 1/5 so với mức trung bình của thế giới tính theo bình quân/ 1 vạn dân số), yếu về chuyên môn. Đặc biệt ở các địa phương hiện nay, các Sở Tài nguyên và Môi trường chỉ có từ 1 đến 2 người có kiến thức chuyên ngành, trong khi đó, cơ quan thi hành luật pháp về môi trường chính là ở các địa phương. Đồng thời, các tác giả cũng chỉ ra những chồng chéo và chưa rõ ràng trong phân cấp QLMT nên đã xảy ra tình trạng đùn đẩy trách nhiệm, nhất là khi 7 có những vi phạm nghiêm trọng về môi trường (điển hình là xử lý vụ việc của Công ty Vedan). Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu theo hướng này chưa có những phân tích sâu về bộ máy QLNN trong lĩnh vực môi trường, những tiêu chí cần đáp ứng về chuyên môn, về phẩm chất của cán bộ đảm nhận công việc này để từ đó có cơ sở đề xuất các giải pháp cần hoàn thiện. Điển hình trong số các công trình của hướng nghiên cứu này có thể kể đến, như: - Nguyễn Bá Ân, Phân cấp quản lý và việc lồng ghép phát triển trong công tác quy hoạch của các địa phương, H. 2004. - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Nghiên cứu tổng kết một số mô hình phát triển bền vững ở Việt Nam, H.2006. - Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Tiếp tục rà soát, hoàn thiện thể chế, bộ máy QLNN về tài nguyên và môi trường, Tạp chí Tài nguyên và Môi trường, tháng 3/2007, tr. 3-4. - Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Dự án VIE/01/021), Bộ Tiêu chuẩn và cơ sở dữ liệu giám sát bền vững ở Việt Nam, H.2006. - Lưu Đức Hải, Nguyễn Ngọc Sinh, Quản lý môi trường cho sự phát triển bền vững, Nxb Đại học Quốc gia, H. 2001. - Hội nghị toàn ngành Tài nguyên và Môi trường, Tăng cường công tác QLNN về tài nguyên v\à môi trường, Tạp chí Tài nguyên và Môi trường, tháng 3/2004, tr. 3-6. - TS. Phạm Khôi Nguyên, Vai trò của các nhà hoạch định chính sách và các cơ quan tư pháp trong việc thúc đẩy phát triển bảo vệ ở Việt Nam, Tạp chí Tài nguyên và Môi trường, tháng 4/2005, tr. 13-15. - TS. Phạm Khôi Nguyên, Tăng cường công tác QLNN về tài nguyên và môi trường đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ năm 2004, Tạp chí Tài nguyên và Môi trường, tháng 1/2004, tr. 5-7. - Vedan tinh vi hay cơ quan chức năng bị che mắt, Vietnamnet, ngày 17/9/2008: 8 - Vedan và căn bệnh thường ngày của cơ quan QLNN, Vietnamnet, ngày 20/9/2008. - Phạm Thị Ngọc Trâm, QLNN đối với tài nguyên và môi trường vì sự phát triển bền vững dưới góc nhìn xã hội - nhân văn, Nxb Khoa học xã hội, H.2006. - Trung tâm phát triển Tài nguyên và Môi trường (Dự án VIE/01/021), Quản lý tổng hợp lưu vực sông theo hướng phát triển bền vững ở Việt Nam, H.2006. - Viện QLKTTW, Đổi mới quản lý kinh tế và môi trường sinh thái, Nxb CTQG, H.1997. - Sẽ bùng nổ nhu cầu nhân lực môi trường, Vietnamnet, ngày 22/3/2009 - Xây dựng hệ thống giám sát và đánh giá thế nào để hoàn thiện công tác quản lý của Nhà nước, Nxb CTQG, H.2008. 2.3. Hướng nghiên cứu chính sách, công cụ cơ bản để thực hiện nhiệm vụ QLNN trong lĩnh vực môi trường Đây cũng là một nội dung rất quan trọng và rất rộng, thu hút nhiều tác giả tham gia nghiên cứu nên số lượng các công trình khá đồ sộ. Có thể chia các công trình loại này theo các nhóm sau đây: 2.3.1. Các công trình nghiên cứu việc sử dụng công cụ kinh tế - tài chính vào công tác BVMT ở Việt Nam Ở đây, các tác giả đi vào nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng các loại thuế, phí, biện pháp đặc cọc - ký quỹ môi trường đối với các cơ sở sản xuất công nghiệp, các hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên vì mục đích lợi nhuận và kể cả để phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày. Qua phân tích, so sánh giữa các giai đoạn khác nhau, các tác giả đã chỉ ra được tác động tích cực của việc sử dụng ngày càng rộng rãi các công cụ kinh tế - tài chính để BVMT ở Việt Nam. Từ đó, khẳng định đây là biện pháp cần tăng cường sử dụng vì nó có thể làm thay đổi cơ bản hành vi của các tổ chức và cá nhân khi lựa chọn công nghệ sản xuất và cách tiêu dùng tài nguyên thiên nhiên theo hướng có lợi cho môi trường. Tuy nhiên, hiện nay các mức thuế, phí,… môi trường của Việt 9 Nam còn rất thấp và chưa có sự phân biệt phù hợp với từng đối tượng, mức độ và tính chất nguy hại đối với tác động môi trường. Vấn đề huy động vốn đầu tư cho BVMT cũng được các tác giả thuộc nhóm công trình này bàn tới. Các nghiên cứu đều cho rằng, mức độ đầu tư cho môi trường ở Việt Nam quá thấp. Nguồn đầu tư chủ yếu là của Nhà nước, một ít viện trợ NGO và nguồn vốn ODA, nguồn đầu tư của xã hội còn hết sức hạn chế. Đặc biệt là đầu tư phát triển ngành công nghiệp môi trường hiện còn chưa được chú trọng đúng mức. Trên cơ sở những phân tích ở trên, các tác giả đề xuất một số giải pháp hoàn thiện các công cụ kinh tế - tài chính trong lĩnh vực BVMT ở nước ta. Đặc biệt, một số tác giả đã đề nghị Việt Nam cần kịp thời áp dụng thuế môi trường. Tuy nhiên, ở đây còn thiếu các phân tích cách kết hợp sử dụng các công cụ của nhóm này (thuế, phí với chính sách thu hút đầu tư…) để mang lại hiệu lực tổng hợp đối với mục tiêu BVMT. Các giải pháp mà các tác giả đề xuất trong lĩnh vực này cũng chỉ dừng ở mức độ gợi ý chính sách, chưa có phân tích thấu đáo. Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu trên, có thể kể đến các công trình sau đây: - Bộ Khoa học công nghệ và Môi trường, Trung tâm Kinh tế Môi trường và Phát triển vùng, Đại học KTQD, Báo cáo tổng quan đề tài “Cơ sở khoa học và thực tiễn xây dựng các quy định về đặt cọc - hoàn trả, ký quỹ và bảo hiểm môi trường”, H.1999. - Bộ Khoa học công nghệ và Môi trường, Cục Môi trường, Giới thiệu các công cụ kinh tế và khả năng áp dụng trong QLMT ở Việt Nam, H.2001 - Bộ Tư pháp, Đánh giá thực trạng áp dụng các công cụ kinh tế trong QLMT ở Việt Nam hiện nay - Giải pháp hoàn thiện, Kỷ yếu hội thảo khoa học, H.2005. - Nguyễn Thế Chinh, Áp dụng các công cụ kinh tế để nâng cao năng lực QLMT ở Hà Nội, Nxb Chính trị Quốc gia, H.1999. 10 - Đã đến lúc phải thực hiện thuế môi trường, Vietnamnet, ngày 29/12/2008 - Gây ô nhiễm môi trường: doanh nghiệp không thể né bồi thường, Vietnamnet, ngày 17/12/2008: - Giải pháp nào cho việc chống trốn thuế môi trường, Vietnamnet, ngày 22/12/2008. - Hợp tác phát triển Việt Nam Đan Mạch về lĩnh vực môi trường (DCE), Cần nhanh chóng hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường, Tạp chí Tài nguyên và Môi trường, tháng 10/2007, tr. 33-34. - Đặng Mộng Lân, Các công cụ quản lý môi trường, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, H.2001. - Trần Thanh Lâm, Quản lý môi trường bằng công cụ kinh tế, Nxb Lao động, H.2006. - PGS.TS Nguyễn Thị Liên - TS. Lê Xuân Trường, Định hướng xây dựng chính sách thuế môi trường ở Việt Nam, Tạp chí Tài chính, tháng 5/2007, tr. 17-19. - TS. Nguyễn Xuân Lý, Nâng cao hiệu lực hoạt động của lực lượng cảnh sát môi trường, Tạp chí Tài nguyên và Môi trường, tháng 10/2007, tr. 25-27. - TS. Nguyễn Minh Phong, Bốn nguyên tắc sử dụng công cụ kinh tế để BVMT ở Việt Nam, Tạp chí Tài nguyên và Môi trường, tháng 4/2007, tr. 1213. 2.3.2. Các công trình nghiên cứu các biện pháp kết hợp giữa kỹ thuật và biện pháp hành chính áp dụng trong lĩnh vực BVMT ở Việt Nam Ở đây các tác giả đã tập trung phân tích về tiêu chuẩn môi trường, về hoạt động Đánh giá tác động môi trường, quan trắc và giám sát môi trường. Qua phân tích, các tác giả đã làm rõ được những tiến bộ, mức độ phù hợp với yêu cầu BVMT của các công cụ trên. Đồng thời, phân tích một số hạn chế của chúng như số lượng các tiêu chuẩn môi trường chưa đầy đủ, chưa phân biệt đối với từng tính chất của các hoạt động, các vùng sinh thái cụ thể. Các 11 nguyên nhân làm hạn chế chất lượng của các hoạt động đánh giá tác động môi trường, quan trắc và giám sát môi trường cũng được một số tác giả đề cập ở những mức độ nhất định. Tuy nhiên, các tác giả chưa đề cập đến mối tương thích giữa các công cụ này để bảo đảm tính hiệu lực của cả nhóm, nhiều nguyên nhân dẫn đến các hoạt động đánh giá tác động môi trường, giám sát môi trường chỉ mang tính hình thức. Một số công trình tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này có thể kể đến dưới đây: - Lê Anh Sơn và Nguyễn Công Mỹ, Xây dựng bộ chỉ tiêu phát triển bền vững cho Việt Nam, Tạp chí kinh tế và dự báo, 9/2005 - BVMT và phát triển bền vững ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003. - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tiêu chuẩn và cơ sở dữ liệu giám sát bền vững ở Việt Nam, H.2006. - Bộ Khoa học công nghệ và môi trường, Các biện pháp kiểm soát ô nhiễm và quản lý chất thải - Các công cụ pháp lý và kinh tế, H.2002. - Lê Thạc Cán, Đánh giá tác động môi trường: phương pháp luận và kinh nghiệm thực tiễn, Nxb KHKT, H.1995. - Các tiêu chuẩn quản lý môi trường ISO 14.000 và việc thực hiện đối với các nhà xuất khẩu vào thị trường phát triển (2006). http://hepa.gov.vn/content/iso.htm. - Cục Môi trường, Các biện pháp kiểm soát ô nhiễm môi trường và quản lý chất thải: các công cụ pháp lý và kinh tế, H.1998. - Tấn Đức, Nhập khẩu phế liệu nhựa và nỗi lo môi trường, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, ngày 11/9/2008, tr. 22. - Trần Chí Viễn, Hướng đi mới trong công tác quản lý môi trường, Tạp chí Hoạt động khoa học, số 8/2002, tr.19-20. - Xây dựng hệ thống giám sát và đánh giá thế nào để hoàn thiện công tác quản lý của Nhà nước, Nxb CTQG, H.2008. 12 - Ngân hàng Thế Giới, Chính sách an toàn môi trường: Hướng dẫn kỹ thuật các ngành giao thông vận tải, nông nghiệp và phát triển nông thôn, Nxb thống kê, H.2004. 2.3.3. Các công trình nghiên cứu biện pháp giáo dục - truyền thông trong công tác BVMT Các tác giả của nhóm công trình này đã phân tích vai trò của nhận thức cộng đồng đối với công tác BVMT. Từ đó, đề xuất các giải pháp nâng cao dân trí, giáo dục ý thức BVMT bằng nhiều hình thức như đưa các vấn đề về môi trường vào chương trình học chính thức cho học sinh phổ thông, phát động các chiến dịch hành động về môi trường… Một số nghiên cứu đã phân tích các phương pháp truyền thông có hiệu lực, kinh nghiệm của một số nước trong hoạt động này để rút ra bài học cho Việt Nam. Các tác giả cũng đã đưa ra đánh giá kết quả đã đạt được của biện pháp này là rất đáng trân trọng, như ý thức BVMT ở Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực, sự tham gia của cộng động vào các hoạt động bảo vệ ngày càng tăng… Mặt khác, do biện pháp này không duy trì thường xuyên và chưa có sự kết hợp với các biện pháp khác nên hiệu lực còn hạn chế, trên cơ sở đó, các tác giả đã đề xuất các giải pháp khắc phục những hạn chế này. Tuy nhiên, ở nhóm biện pháp này còn nhiều nội dung cần nghiên cứu song chưa được các tác giả đề cập đến, như việc tổ chức mạng lưới tuyên truyền, xây dựng các chương trình về môi trường cho phù hợp đối với từng nhóm đối tượng, có cơ chế khuyến khích đối với tình nguyện viên… Các công trình tiêu biểu thuộc nhóm nghiên cứu này, bao gồm: - Bảo vệ môi trường: cần ý thức trong mỗi cá nhân, Vietnamnet, ngày 12/8/2008. - Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh, Báo Quân đội nhân dân, ngày 10/9/2007. - Phạm Thị Ngọc Trâm, QLNN đối với tài nguyên và môi trường vì sự phát triển bền vững dưới góc nhìn xã hội - nhân văn, Nxb Khoa học xã hội, H.2006. 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan